sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 61: Bữa Tiệc Cuối Cùng Của Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV

Về tới cơ quan thì trời sẫm tối. Mình mẩy đau nhừ. Tinh thần đi đâu mất hết. Tôi không muốn làm thêm một việc gì nữa. Lạy Trời cho con được yên ổn. Nhưng nhà báo lại đến. Trời ơi! Tôi chạy đâu cho thoát. Cái mặt của cô nữ phóng viên sao mà đáng ghét thế. Nhã Nam cười toe toét:

- Kính chào ông Tư lệnh pháo binh Quân Khu.

Tôi uể oải cười:

- Chào nhà báo.

- Chúc mừng chiến công của... anh.

-Mời cô ngồi.

- Cô à?

- Mời đồng chí phóng viên ngồi.

- Đồng chí à?

- Mời em!

- Hứ! Anh chóng quên thế!

Tôi gọi bâng quơ.

- Đứa nào đem nước lên chút bây!

Nhã Nam ngồi đối diện với tôi và chìa tay:

- Thay mặt tờ báo Quân Khu chúc mừng anh.

Tôi hờ hững bắt bàn tay lạnh ngắt của nàng. Nhã Nam nguých yêu và bóp mạnh tay tôi:

- Đây là lần đầu tiên từ đồng khởi tới nay, quân khu lập được chiến công oai hùng bằng bàn tay của H6, cụ thể của anh.

Tôi chưa kịp nói gì thì Nhã Nam móc trong sắc-cốt một tập giấy mở ra và nhìn tôi một cách nghiêm chỉnh:

- Nhờ anh nghe và bổ túc nhé! Em mới thảo sơ sơ, cần anh chuốc lại dùm.

Tôi muốn chui xuống lỗ nẻ để thoát đi buổi tao ngộ chiến này. Giá nàng đến thăm suông hoặc cho tôi một cái kẹo còn thích hơn, vì tôi quá biết cái bản tin của nàng rồi. Cái con quỉ có chiếc mồm rộng như miệng địa đạo này đã tán phéc suốt mấy năm nay về hệ thống địa đạo thôn liền thôn, xã liền xã. Chính nàng phịa ra nữa anh hùng Chị Tư Cầu Xe để dâng lên bác Hồ vô vàn kính yêu, cũng chính nàng ta đã vẽ nên chân dung của các nàng dũng sĩ Củ Chi này, rồi từ đó đài Gìải phóng và đài Hà Nội phóng đại tô màu thêm lên, làm cho thế giới phải lé con mắt. Cụ thể là tên nhà báo Bọ Chét lặn lội tới đây quay phim địa đạo chiến của đội dũng sĩ Bảy Mô. Bây giờ chắc chắn cái trận pháo kích này sẽ được nàng ta mô tả như một cái Đồng Xoài hoặc một cái Điện Biên Phủ con con. Nàng móc túi lấy bút:

- Xin anh vui lòng thuật lại diễn tiến của trận đánh.

Tôi lắc đầu:

- Tôi không có mặt ở chiến trường. Em có thể lội vô C5 gặp các cán bộ chỉ huy trận đánh đang nằm trong đó, tha hồ mà nghe tường thuật rồi viết.

Cô nàng cười mỉm chi:

- Nhưng anh là linh hồn của trận đánh!

- Linh gì mà linh dữ vậy. Tôi ngồi nhà mà.

- Em nghe các cán bộ cho biết rằng anh là người xây dựng kế hoạch và chỉ huy tác chiến.

- Dễ ợt, ai mà không làm được, vấn đề là điều động pháo và đạn ra đến đó thôi.

Tôi chối cách gì cô bé cũng không tha. Tôi gọi Ba Tố lên giúp tôi gỡ rối tơ lòng với cái nàng nữ sĩ lô-can này. Nhưng Ba Tố không có nhằm nhía gì cô ta hết vã lại đám ma thằng Chi vừa xong, có vui gì mà trả lời phỏng vấn. Tôi bèn bảo:

- Em đi tìm bà con hỏi xem họ phấn khởi như thế nào, có lẽ hay hơn.

Nhã Nam quơ tay:

- Nhất định là bà con phấn khởi lắm.

- Ông có gặp ông già vợ của xã đội trưởng Ba Tâm chưa?

- Dạ chưa.

- Nên đi gặp để lấy đề tài hay lắm... Ổng mất mấy con trâu chưa tìm được.

- Tại sao mất? Và tại sao mất trâu mà phấn khởi?

- Mình pháo. Địch cũng pháo. Trâu sợ chạy lung tung. Một con trúng đạn chết. Ổng gặp ông Năm Tiều ông bảo đơn vị có mua thịt trâu ông bán rẻ cho!

Nhà báo biết ông tư lịnh pháo xỏ ngọt bèn trở lại bài báo và nhờ chuốc dùm. Tôi còn bao nhiêu công việc phải làm, nhưng đành ngồi nghe văn chương của nhà phóng viên. Trong hầm thiếu ánh sáng. Nàng bấm đèn pn lên soi vào trong vở, rồi như để thưởng công tôi về việc chịu ngồi nghe tác phẩm nóng hổi, nàng móc chai dầu Nhị thiên đường:

- Anh Hai quẹt chút cho ấm.

Rồi cất giọng đọc:

Tôi giơ tay tốp nàng phóng viên quân khu.

-Đủ rồi em!

Nhã Nam cười lớn lên:

- Anh có thêm bớt gì không?

- Em nên nói rõ nơi xảy ra trận đánh là cách Sài gòn....

-... Hai mươi cây số.

- Không! Nói là... trước cửa ngỏ Sài gòn! Như vậy mới ăn giơ với thông cáo của Mặt trận là đất đai Giải phóng chiếm 3/4 diện tích và dân chúng trong vùng Giải phóng chiếm 4/5 dân số Miền Nam.

Nhã Nam không hiểu tôi xỏ ngọt nên mừng rỡ. Cô ta gật đầu lia và rút bút hí hoáy thêm vào. Cô bé sắp chuyển qua gam mi nơ, giá ngày thường thì chắc tôi sẽ chiếu cố nhưng tôi đang rầu rỉ, không ham hố chi cái sự đó. Cũng may có thơ hỏa tốc đến.

Tôi mở ra đọc. Ông Tham mưu trưởng lẫn ông Trưởng phòng Chính trị đều muốn tôi đến trực tiếp báo cáo kết quả đồng thời mang tất cả chiến lợi phẩm đến nộp. Tôi giật mình. Mãi lo vụ thằng Chi và chiến thương mà quên khuấy đi. Tôi bèn gọi Ba Tố bảo kiểm tra giúp tôi. Ba Tố nói ngay:

- Chiếc dù thì ông bác sĩ Tư Chuyền quơ ngang trên tay du kích rồi. Còn hai cây súng ngắn hiệu Con ngựa bay bằng thép trắng thì D18 lấy được một khẩu, con Là xã đội phó Phú Mỹ Hưng lấy được một khẩu.

Tôi bảo cho người đi thu về cấp tốc để mang lên nộp cho Bộ Tư lệnh. Ba Tố lui ra thì Nhã Nam bắt vô ngay:

- Anh thấy thế nào?

- Thế nào cái gì?

- Bản tin ấy mà.

- Em viết sao thì viết. Đó là quyền của nhà báo. Anh đâu biết dùng chương gì.

- Nhưng em muốn hỏi là con số trong bản tin so với sự thực... Anh thấy trận pháo kích này có thể so sánh với trận pháo kích sân bay Biên Hòa không? Anh đã dự cả hai mà.

- Khó so sánh lắm vì Biên Hòa là sân bay, còn Đồng Dù là căn cứ Bộ binh.

- Anh thấy có cần đề cao chiến sĩ hoặc cán bộ nào không? Em thấy anh xứng đáng...

Tôi xua tay lia lịa.

- Để tôi hỏi ý kiến các đơn vị rồi sẽ cho cô biết!

Sáng hôm sau tôi với Ba Tố cùng thằng bé Đỏ và Bọ Ngựa lên khu. Hai thằng nhóc được tôi cho mang hai cây colt chiến lợi phẩm thì sướng quá, cứ nói chuyện rố ráo suốt dọc đường. Tôi ghé ông Tham mưu trưởng Năm Lê thỉnh thị trước. Ông này chỉ coi trọng ông Ba Xu vì ông Ba Xu có nhiều thành tích hơn nhưng về mặt kiến thức quân sự thì lại coi Ba Xu là một anh cù lần. Những ông Phó tư lệnh và chánh ủy quân khu thì Năm Lê xem thường vì ông Phó tư lệnh nhát như cáy nên có biệt danh là Hai Phón. Còn Tư trưởng thì lấy đảng tính ra đánh Mỹ chớ chẳng biết súng mút, súng ngựa trời là cái gì sất. Thậm chí ông ta sợ súng... của quân ta là đằng khác.

Tôi vừa vào thì Năm Lê mời uống trà rồi vỗ vai tôi:

- Cậu khá lắm. Đánh thế giặc hết dám tung hoành chớ!

Tôi báo cáo chiến lợi phẩm. Năm Lê gạt ngang:

- Đem hết cho mấy chả đi!

- Anh không đến họp sao anh Năm?

- Họp hành để cho thằng Tám Quang. Hắn đánh giặc miệng giỏi hơn tao. Sao? Vấn đề thương binh tử sĩ mày làm có chu đáo không?

- Dạ xong hết rồi anh Năm.

- Biểu thằng Tư Chuyền đừng có dùng cưa sắt mà cưa chân con người ta.

- Sắp tới anh Năm có kế hoạch gì chỉ thị cho H6 chúng tôi không anh Năm?

- Để tao hỏi tụi quan khí coi còn đạn không cái đã! Mấy cha thường hạ lịnh mở chiến dịch mà không cần biết lính mình có bao nhiêu viên đạn trong cạc-tút-se. Thậm chí đơn vị không đủ lính đánh giặc mà phải chiết ra một đại đội canh gác cho mấy ông nội.

Từ giã Năm Lê. Tôi dắt đoàn lên hầm nhà ông Tám Quang. Ông đang chuẩn bị chờ tôi tới để đi lên Bộ Tư lệnh. Chúng tôi cuốc bộ tới xế thì tới vùng an toàn của mấy ông nội. Tám Quang nói nhỏ với tôi:

- Mấy ổng khôn ghê. Ngồi thum ở xóm thuốc này thì muôn năm khỏi bị nạn B52. Nói thiệt với cậu, bây giờ tôi chỉ ngán B52 thôi. Phản lực tôi coi thường. Đối với tụi này miễn mình trốn cho kỹ, đầm già không phát hiện được là sống..muôn năm. Toàn bộ đất Củ Chi bây giờ chỉ còn có cái Xóm Thuốc này là lọt ngoài vò)ng B52. Vừa rồi đó rải thảm một cây số ngang, hai cây số dài, cày nát đường số 15, nhưng Xóm Thuốc này nằm ngoài rìa.

Tám Quang trỏ tay vào khóm nhà trước mặt:

- Mấy ông ở đó sát bìa Rạch Lở.

Chúng tôi đi vào rìa xóm thì đụng một chiến sĩ mang AK đứng ngóng cổ về phía đường 15. Anh ta biết mặt Tám Quang nên chào mời ngay. Tôi ngó lên ngọn cây thì thấy một anh ngồi chong ngóc trên cháng ba. Tôi bảo Bọ Ngựa:

- Bạn của mày đó!

Tám Quang hỏi anh lính:

- Mấy ổng có lệnh gì không?

- Dạ chú Ba dặn hễ có mấy chú tới thì mời vào. Chú Ba, chú Mười và chú Hai... đang ở đó.

Bỗng một chiếc xe đạp vọt qua rồi thắng kéc bên cạnh. Một bàn tay vỗ vai tôi. Thì ra Nhã Nam. Cô bé này có mặt khắp nơi. Nàng vui vẻ:

- Đi theo em nè...

Nhã Nam xuống xe dắt đi chầm chậm với chúng tôi trên đường mòn giữa hai bờ tre trúc rợp mát.

Tám Quang nói:

- Mấy ổng khôn quá. Ở đây nếu có động, các ông nhảy xuống xuồng chạy qua bên An Thành. Ở bên hầm hố vừa đào xong thì bị hóa học, cây cối queo hết không ở được nên mấy ổng còn ở đây. Hội nghị kỳ này mấy ổng sẽ dời qua An Thành, lên Thanh Tuyền. Có thể đi qua sông Thị Tính lên thẳng Long Nguyên ở như hồi đánh Tây. Chỉ mình chú mày bám trụ Củ Chi thôi.

Tới cái chòi bên trong có mấy cái băng thì cả bọn dừng lại. Một anh lính khác ra chào. Tám Quang hỏi:

- Mấy ông có la ó gì tụi tao đến trễ không?

- Dạ mấy chú đang đánh cờ và câu cá ở trong đó.

Tám Quang bảo chúng tôi:

- Các cậu ở đây chờ. Để tôi vô báo cáo xin chỉ thị trước. Mấy ổng khó lắm. Vô đột ngột mấy ông cự!

Tôi ngồi trên băng móc thuốc rê ra hút. (Đến với mấy ôm lớn phải gương mẫu kiểu bác Hồ). Ba Tố đi tới đi lui, có vẻ bực dọc nhưng không dám nói ra.

Lại cũng một thứ triều đình như ở trên R. Các ông lớn tự đặt cho mình một chế độ, ăn uống, canh gác, hầm hố, hành quân và em út. Không có ông nào đàng hoàng, nhưng cái số không đàng hoàng của họ, dù nhan nhản ra đó, không ai được phép nói tới. Rờ nào cọp rlằn ấy!

Nhã Nam có dịp tiếp tục cuộc phỏng vấn hôm qua.

- Theo anh nhờ đâu có chiến thắng vừa qua?

- Nhờ ba xỉ đế!

- Anh giỡn hoài. Em hỏi thiệt đó. Anh trả lời để em viết báo mà!

Ba Tố tiếp.

- Hì hì... vậy thì nhờ học gồng!

Nhã Nam nói phom phom.

- Theo em nghĩ thì nhờ ba yếu tố: Thiên thời, địa lợi và nhân hòa.

Ba Tố càng đâm hơi:

- Thiên thời là hôm qua trời mưa không thấy đường đi, địa lợi là chui vô rừng giấu súng, nhân hòa là chiến sĩ chết cho nằm hàng ba và dân bị thương chửi nát.cha giải phóng.

Nhã Nam nguýt một phát yêu đến rụng rún và tiếp:

- Mấy anh ngồi đó để em vào tâu.

Ông Tám Quang sợ mấy ổng như sợ cọp.

- Ừ đi mau mau nghe nhà báo!

Nhìn cặp bím tóc chệt vung lại cặp mông run run của cô em biến xa dần, Ba Tố nói:

- Coi bộ cô ả cũng mết ông Tư lệnh pháo binh lắm!

- Thôi đi ông nội ơi! Vô đợt này xong, mấy ổng coi khá chắc bảo vô đợt khác. Nghĩ mà tội nghiệp thằng Chi. Con trai hơ hớ, chưa biết cay đắng mùi đời. Con Chanh mê nó như điếu đổ nhưng cái dây đang leo bỗng thân cây vụt ngã. Xứ Củ Chí này phải được chính phủ tuyên dương về số đàn bà góa chồng.

Ba Tố thêm:

- Đi chỗ nào cũng gặp. Nhất là Quốc lộ 1, hồi công trường của Năm Sài gòn xuống đóng, tuyên bố một đêm cả chục đám. Bây giờ lũ con gái đó khóc không ra tiếng. Mê giải phóng nữa thôi! Hì hì....

Nhã Nam xuất hiện đứng xa xa ngoắc. Tôi móc tiền cho ‘ thằng Đỏ và thằng Bọ Ngựa, bảo mua bánh ăn rồi ở ngoài này chơi, không vô chỗ người lớn được. Tôi và Ba Tố mỗi người xách một khẩu con chiến lợi phẩm vào nộp.

Nhã Nam tỏ ra thành thạo, nói với tôi:

- Vô trong hang, hễ thấy hai ông ngồi đánh cờ dưới gốc vú sữa đó thì phải bái nghe ông nhà pháo. Ông ngồi bên phải mặc đồ lụa lèo, còn cổ cao, mặt đỏ như Tây lai là ông Mười Thơ

- Mười Thơ? Tên gì lạ hoắc vậy?

- Ai biết đâu. Nhưng đó là em của Lê Đức Thọ ở ngoài Hà Nội, còn ông mặt mày xanh lét là ông Phó tư lệnh Quân khu của anh, bộ anh cũng không biết à?

- Có gặp lần nào mà biết.

- Người ta kêu ông là Hai Phón đó!

Tổng hành dinh của mấy ông thật là cha Tây. Nhà trung nông nhưng không biết bàn ghế lấy của nhà địa chủ nào, toàn là thứ ác: gỗ mun hoặc căm xe, cà chất. Nền hầm lót gạch tàu Nóc hầm che ni lông, đất dày hai thước, cửa ra cửa vào. Lại còn đèn điện sáng choang chói mắt.

Ngoài ông Ba Xu, tôi không biết ai cả. Thấy tôi đến, ông nào cũng trố mắt dòm. Tôi nghĩ bụng: không ai biết mình, mình cũng không biết ai nên tôi có lý do để không chào ai hết. May sao ông Ba Xu ở sau bếp đi ra. Ông ta bận tham gia công tác nấu thịt chó với Ba Tiếu là chánh văn phòng Quân Khu, cấp thượng úy nhưng cũng làm công tác điếu đóm chạy rong như Tám Nghi đối với Năm Lê.

Ba.Xu biết tôi hồi kháng chiến chống Pháp. Ra Bắc có gặp một lần lúc ông ta làm Tư lệnh Công binh của Bộ Tổng với quắm hàm thượng tá, đóng quân ở Quảng Oai Sơn Tâm. Ổng cho tôi một gói thuốc Trung Quốc và bảo: "Đền ơn mày đó nghe!"

Cái ơn của tôi là ngồi áng miệng hầm và lãnh một miểng bom thay cho vợ ổng và vợ ông Tô Ký. Trước khi về Củ Chi tôi lại gặp ông ở Ụ, coi bộ ông bèo nhèo thất thần vì vừa thoát chết ở Bình Giả. Lần đó ông Tư Khanh tiễn ông xuống Củ Chi mà không có thịt để làm tiệc. Thời may tôi và Bùi Khanh săn được một con mển tôi cắt cho ông một đùi. Lần này ổng đãi tôi thịt chó và máu chó gọi là Hépathémo do bác sĩ Tám Lê pha chế (không phải Năm Lê), Tám Lê là nhân vật được Việt Cộng tuyên dương anh hùng quân đội với quân hàm đại tá và được mấy tên ký giả tô vẻ thêm bằng những thần thoại ly kỳ hơn cả chuyện trên cung trăng: "Bác sĩ Tám Lê giải phẩu thương binh, đỡ đẻ cho nhân dân dưới địa đạo". Tôi phải nói thẳng rằng những thằng nhà báo có lấy lương tâm của nghề nghiệp làm nùi giẻ lau chân cho bọn Hà Nội thì mới viết lách như vậy. Đàn bà chửa làm sao xuống địa đạo? Miệng địa đạo bao to mà đưa thương binh xuống được? Dưỡng mệnh xong còn có nơi an dưỡng và xem văn nghệ. Sao nhân loại vẫn cứ ngây thơ? Bởi vậy đế quốc đánh Công Sản cả trăm năm cứ thua hoài là vì nhà bất lương này.

Vừa thấy tôi Hai Thơm đoán tôi là chỉ huy cuộc pháo kích nên hỏi ngay:

- Chiến lợi phẩm đâu đưa coi đồng chí.

Sáu Dân và Mười Niên cũng là kẹ mặt rằn trong khu ủy, nhưng thuộc thành phần dân chánh nên thấy súng thì ham. Sáu Dân la lên:

- Súng gì mà trắng xát vậy?

Ba Tố đáp với giọng mát mẻ:

- Dạ súng Mỹ t!

- Nhưng mà loại gì chớ?

- Dạ, loại súng ngắn.

- Súng ngắn, đúng rồi nhưng sử dụng ra sao?

- Dạ, nó cũng như K54, P38 vậy thôi, nhưng đây là súng của phi công Mỹ.

Ba lão già giềng chuyền nhau xem, trầm trồ và ướm thử vào người, khen chỗ này, chê bộ phận kia. Cuối cùng Hai Phón bảo:

- Để tôi xài cây này. Còn cây kia cái bá bị cháy, đem về làm phần thưởng cho du kích.

Ba Tố đáp.

- Dạ du kích họ không biết cách xử dụng.

- Vậy thì bỏ cho cảnh vệ xài.

Hai Phón nói xong thì nịt luôn cây súng tốt vào lưng và đưa cây xấu cho Ba Tố. Ba Tố nói với giọng nén bất mãn:

- Anh Hai để lại làm phần thưởng cho các đơn vị, chớ tụi tôi chỉ thích AK và không có dịp xài thứ bắn ruồi này.

Sáu Dân và Mười Niên đang căng chiếc dù, chiến lợi phẩm do cần vụ của Tám Quang mang tới. Mười Niên nói với Sáu Dân:

- Ê dù này rọc ra làm tấm đắp và ngụy trang thì số dách.

Hai Phón vừa nịt xong súng vào mình lên tiếng.

- Không được đâu nghe cha? Bác sĩ Tám Lê xin một cây để che nắp hầm giải phẫu mấy năm nay mà có đơn vị nào đánh lấy được đâu. Để nguyên đó tôi đưa cho thằng chả. Còn các cha thì chờ chuyến tới.

Sáu Dân gốc địa chủ Bạc Liêu bô bô cái miệng:

- Thu lúa ruộng mà đi nghe lời tá điền hẹn nay hẹn mai thì có mà sạt nghiệp!

Chánh ủy Tư Trường đang đánh cờ thấy chiến lợi phẩm hấp dẫn quá nên bỏ cuộc đi tới xen vào:

- Đừng có ló đuôi địa chủ ra nghe ta!

Sáu Dân trả thù.

- Ừ đuôi địa chủ nên cụp vô đít, còn đuôi công nhân thò ra cho người ta xem hả? Vậy cái đuôi công nhân có biết uống rượu Tây và Ovomaltine không?

Tư Trường không rõ thành phần gì nhưng nghe nói y có chân trong Ban chấp hành Liên hiệp Công Đoàn Nam Bộ. Từ ngày Trần Bạch Đằng đi khỏi Quân Khu IV hắn xuống làm chánh ủy. Một ông chánh ủy quân khu chưa từng đánh giặc làm cản trở mọi kế hoạch quân sự, chỉ xúi giục nhân dân đấu tranh chính trị theo kiểu các mụ Hai Xót, Năm Đang và mụ Định... Hắn kên cái mặt thịt lên, cười liên hiệp:

- Ừ thôi chia thì chia mau đi, cắt ra làm sáu miếng bằng nhau nghe? Hai Phón quơ cây súng sáu rồi thì không có phần vải dù.

- Nói vậy sao được anh Tư?Bộ anh Tư muốn lấy hai phần để đem tặng bà Năm Đang hả?

Cả bọn cười hô hố. Tư Trường nói với giọng đặc sệt rau muống:

- Chị Năm cá lẹp thì chỉ xứng với Sáu Dân nhà mình thôi!

- Ừ phải, cái thân bồ tượng của anh Tư bả không đấu tranh nổi đâu.

Mười Niên gốc đánh xe ngựa ở Gò Vấp không biết phất vô khu ủy hồi nào, gạt ngang:

- Cha nào có kéo, cho mượn cắt chút coi.

- Kêu thằng Tám Lê lên bảo nó lấy dao kéo giải phẩu ra xài.

- Hổng được, nó thấy cây dù thì nó sẽ giựt lấy mình không phương giành lại.

- Vậy thì kêu Ba Xu cho mượn lưỡi cạo râu. Nó đánh hơi mắm trở của mụ Hai Xót sắp tới nên nó đang cạo gọt cái bộ mặt dính mủ cao su ở sau gốc khế kia kìa.

- Bậy nào, đồng chí Xót đã bị thằng Mắt Bù Lạch đóng nỏ, ủa đóng đồn lâu rồi. Nó là quân báo nguy hiểm lắm đừng có chấm mút của nó mà mang họa.

- Ba Xu có dì Ba con Là ở bên Bén Chùa nâng chuông sửa trống rồi? Đừng để nó nòi gương anh Ba nhà mình!

Xảy đâu cậu lính cần vụ chạy vào báo có hai đồng chí phụ nữ tới. Mười Niên nháy nháy:

- Thấy chưa! Tôi nói linh như miễu mà!

Tư Trường quát:

- Cho hai đồng chí ấy oào!

Mọi người nghiêm sắc mặt trở lại. Tư Trường bảo:

- Các bố lui đi để mấy bả tới vô đây tôi tiếp!

Nghe nói hai bà khu ủy tới, hồn vía lên mây, tôi vội vàng lui xuống bếp, để tránh sự chạm trán bất tiện. Ông bác sĩ Tám Lê đang pha chế dược phẩm phục vụ hội nghị, thấy mặt tôi kêu lên:

- Ông Thiên Lôi! Lại đây tôi cho nếm thử cái món máu chó... mực này.

Tôi với Tám Lê quen nhau từ nhiều năm trước, tôi bị thương vác cái thân tàn đến cho y chạy chữa đã mấy keo và tôi cũng đã hứa cho y cây dù phi công như đã hứa với Tư Chuyền trớt da me mấy lần rồi, lần này lại đi tuốt! Tôi nói ngay:

- Dù thì có...!

Tám Lê xua tay:

- Thôi được rồi. Lọt vô đó thì tao chịu thua!

- Đợi tôi bắn rơi vài chiếc khác.

Tám Lê lắc mạnh cái chai lít đựng máu đỏ ngầu, rót đưa cho tôi một tí trong ly bầu.

- Bệ hạ làm một ách, lên gà dữ lắm.

Tôi cầm lấy ly máu, kê vô lỗ mũi rồi lắc đầu:

- Tanh bỏ bà, tớ không quen uống máu!

- Mấy chả bảo phải tìm cho được mực tuyền để bào chế món này. Mày nghĩ coi, thời buổi này dân đâu còn mà kiếm chó dễ như xưa kia. Tôi phải cho đám đệ tử của tôi đi lùng khắp Bưng Còng mới được một con. Tưởng vận tải nó từ bên đó vượt sông Sài gòn qua đây dễ à? Suýt bị tụi giang thuyền lấy họng đó nghe. - Tám Lê rỉ tai tôi - Tớ cũng học sách treo đầu dê bán thịt chó chớ đâu có để máu mực tuyền cho mấy chả nhậu hết. Tớ cho mấy chả uống máu mèo mướp còn thứ thuốc trường sanh bất lão thì tớ để dành đây.

- Rủi thằng Ba Tiến nó biết rồi ông mang khốn!

- Tớ với nó chia nhau nữa. Nó trấn giữ cái trạm 66 của đền Rồng. ở đây, cũng có nhiều cung nữ dữ lắm. Hắn cần bồi lưỡng. Tớ nghe mày cũng đang tuyển chọn thứ phi vậy phải bồi...

Vừa đến đó thì ở trên nhà có tiếng reo mừng. Tôi lách mình lên xem. Tôi giật mình đánh thót. Không phải hai mà ba bà. Đúng kiểu Tam Cung của nhà Rồng. Cả ba bà tôi đều quen. Bà thì quen sơ sài không sâu... sắc lắm, bà thì sâu đậm quá mức ghi vội..

Bà Hai Xót tôi mới đèo xe đạp hôm nào. Bà ta không chịu làm chị tôi mà lại bắt tôi làm anh. Bà Năm Đang thì không đòi tôi làm anh nhưng cũng có quan hệ đồng chí hồi tên Bọ Chét tới Củ Chi quay phim địa đạo chiến của các nàng dũng sĩ đất thép. Bà thứ ba! Bỏ mạng sa tràng rồi? Đó là nàng Út Tuất ở quận Tân Biên của Tây Ninh, người đã cùng tôi xây tổ uyên ương trong khói lửa vùng sông Bà Hảo. Tưởng không bao giờ tái ngộ, chẳng dè lại gặp ở đây? Tôi sực nhớ lại lời nàng thủ thỉ với tôi: "Em muốn có con với anh. Em sẽ về nhà nuôi con... Mấy ông khu ủy ông nào cũng mò em hết á!" Trời xui đất khiến sao mà nàng gặp tôi cùng một lúc với các ông khác. Vậy ra tụi già ghềnh này đều có bỏ ngón trên cây đàn muôn điệu kia, nhưng tất cả đều đến sau gã Thiên Lôi này. Tám Lê nói nhỏ:

- Ông biết tại sao tôi làm vậy không?

Tôi lắc. Tám Lê nói:

- Đó là duy vật liệu chứng pháp. Ăn ba cái thứ đó vô các chả đồng khởi mạnh. Mấy chả càng đồng khởi mạnh thì tôi càng... chạy kiếm chó, mệt ghê!

- Mệt gì?

- Cứ tháng nào cũng vài ba em sang khóc khóc mếu mếu: Chú Tám ơi! Chú nạo giúp em!

Tôi bật cười:

- Cha nội trở thành ông thầy nạo dưới địa đạo rồi hả?

Tôi không bao giờ sụp hầm chông nghe ông Thiên Lôi. Người ta đi có bài bản phòng trước ngừa sau, còn mấy chả cứ pháo bừa nên bị dính hoài nên thằng già này cong lưng nạo.

Thấy Ba Tiến ló đầu vào, tôi lãng sang đề tài khác:

- Tôi định lấy cây dù này giao cho ông phục vụ thương binh, nhưng mấy ổng sung công rồi.

- Bố khỉ! miệng nói tôn cán ái binh nhưng tay thì quơ hốt bỏ túi. Kỳ rồi có thương binh nặng không? Sao không thấy chở qua cho tôi?

- Nghe đồn ông đem xuống địa đạo mổ, thương binh són đái còn dám qua à?

- Tụi nó đồn bậy chớ bộ thương binh bằng nhái hay sao mà đem xuống địa được?

- Thằng Bọ Chét và mấy thằng giáo sư Liên Xô đòi qua coi cái phòng mổ của ông dưới đất cái đấy.

Tôi nói với Ba Tiến:

- Ê coi miếng nào gói một miếng cho tớ lận lưng đem về nhậu mừng chiến thắng nghe!

- Ở đây nhậu rượu Tây mà chê à?

- Tớ lợm lắm.

- Có chất nhép mà lợm nổi gì?

- Ai đó?

- Nhà nữ phóng riên và hai ba nữ rũng sĩ Củ... chi chi..

- Sao mấy ả mò vô hang hùm được?

- Các nàng là con cưng của ông Thầy Tám vành đai thép cậu không biết à? Ổng đem mấy ả vô đây để giới thiệu cho các ổng tài bắn tỉa Mỹ của các dũng sĩ, và cái vành đai thép quanh Đồng Dù.

- À vậy hả?...

- Nhưng các ả còn ở ngoài trạm, không được vô trong nồi gọ này đâu. Chốc nữa khi tàn tiệc kìa mới có cuộc trình bày kỹ thuật tỉa, xạ địch trong đêm tối.

Ba Tiến dứt ngang câu chuyện:

- Để tôi đi lo dọn yến kẻo hoàng thượng kêu đòi chém đầu.

Hai ba chiến sĩ chạy lên chạy xuống chân không bén đất.

Mùi mỡ hành, nước cốt, nồng ngát gian nhà. Một chốc tôi và Ba Tố được mời vào hầm ngồi ở một chiếc bàn dài trên đó đã dọn sẵn những tô lớn dĩa bàn đầy vung bốc hơi nghi ngút.

Bữa tiệc làm cho tôi nhớ lại sự tiếp đãi thằng nhà báo Bọ Chét hồi năm ngoái cũng thịnh soạn như vầy. Chúng nó là một lũ đạo đức giả, từ thằng Hồ Chí Minh sát nhân đến thằng Lê Duẫn lưu manh, thằng Võ Nguyên Giáp loạn luân, thằng Phạm Văn Đồng ngủ với bà nấu bếp... không sót một thằng nào. Thế nhưng chúng vẫn là lãnh tụ tối cao đạo đức gương mẫu. Bây giờ trong cảnh chiến tranh lửa bỏng dầu sôi, lính không đủ gạo ăn, chúng lại xực mâm cao cổ đầy lãnh đạo nữ dũng sĩ giải phóng trong hầm đèn điện sáng choang như ở khách sạn Sài gòn.

Ba Xu đưa tay lấy chai rượu đưa cho Ba Tiến. Ba Tiến móc trong lưng cái khoan khui chiếc nút chai bật ra kêu đánh bốc. Tiếng cười cũng vang theo đưa đà:

- Rượu Mỹ hay rượu Tây đó, Tiến?

- Dạ rượu Tây.

- Ừ uống rượu Tây đánh Mỹ mới khoái.

Bốc! Bốc! Bốc!

- Có nặng không?

- Dạ sâm-banh không nặng lắm!

- Coi chừng lạt nhách uống không ghé.

Mười Niên không chú ý tới rượu, vừa gắp một cục thịt tổ chảng bỏ vô chén:

- Thôi làm mau đi kẻo B52 tới thành ma đói bây giờ.

Tư Trường hỏi tên trướng ban quân báo.

- Ê! Chín Lộc! Bữa nay chắc không có dưa hấu rụng chớ?

- Dạ, bảo đảm với anh Tư là không có quả nào.

- Nếu có ít nhất mình cũng hay trước vài ngày phải không?

- Dạ, thường thường là mình được tin trước 24 tiếng.

- Sao vừa rồi trên Bộ chỉ huy R không hay gì hết. Bị cú đó mình mất uy tín với ba thằng trí ngủ Sài gòn bộn.

- Dạ cũng có khi bạn mình không hay nên không cho mình biết.

Ba Xu vui vẻ:

- Sẵn thằng thầy pháo đây, để tôi bảo nó trình bày về cái chiến thuật rải thảm của B52 cho mình nghe. - Ba Xu xoay sang tôi - Vừa nhậu vừa nói chuyện công tác và kế hoạch sắp tới. Hễ ăn xong là xong luôn chớ ngồi la cà ở đây không bảo đảm an ninh..

Mười Niên chọc.

- Bộ dì Ba con Là ốm nghén sao mà gấp vậy?

- Bắt đầu đi mày, Lôi. - Ba Đình quay sang mấy bà khu ủy - Mấy chị nghe để rút kinh nghiệm mà chạy ngang hay chạy dọc nghe.

- Tụi tôi níu áo mấy ông, các ông chạy đâu tụi tui chạy đó.

- Rủi tụi tui chạy vô hầm, các chị cũng dô theo sao?

Cả bàn tiệc cười rần. Máy bà mắc cỡ đập lia mấy lão ngồi bên cạnh. Sáu Dân bồi thêm:

- Khi cấp bách thì chui xuống địa cũng chui.

- Có chui lần nào chưa?

Ba Đình xua tay:

- Các ông các bà dân chánh chui xuống đó làm gì làm, chỗ binh lính thì tui cấm tuyệt đối không được chui xuống mấy cái hang chuột đó!

Mười Thơ thủ khẩu như bình từ đầu, bây giờ mới hé môi:

- Nói chung địa bây giờ không nên xài nữa. Vũ khí của Tây vừa ít vừa yếu nên ngày trước minh còn lợi dụng cái thế con chuột khoét đất đào hang mà sống chớ bây giờ thì không ăn tiền. Mười cái miệng địa đạo nó khui hết tám. Còn một cái thì ăn pháo, một cái ăn B52..

Mười Niên nói:

- Tại ông to xác nên xuống đó khó trở xoay chớ tôi nhỏ con tôi thích lắm..

- Ông có chui chưa mà thích?

- Hề hề... chưa! Để mai mốt tôi rủ mấy chị chui chung cho vui.

Ba Đình bảo:

- Lôi mày trình bày vụ B52 đi, để mấy bà mấy ông nói tùm lum loãng vấn đề hết.

Tôi thấy mấy ông mấy bà đâu có chú ý cái gì hơn mấy dĩa thịt chó nên tôi chỉ nói qua loa:

- Dạ, theo tôi biết thì B52 bỏ bom không cần chỉ điểm. Bản đồ của nó kẻ Ô vuông một cây số bề cạnh. Nó cứ bay đến nơi rồi cắt bom. Nó hoạt động có điểm giống như pháo binh. Dạ, muốn hiểu cơ bản phải mất nhiều thì giờ lắm!

Mười Dân hỏi.

- Chừng bao lâu?

Đúng ra đối với các đầu bò như mấy lão đánh xe ngựa và phu cao su này thì phải cả tháng nhưng tôi cứ nói theo kiểu đếm gốc cao su và chạy ngựa cho dễ hiểu. Tôi rời ghế, móc bản đồ trong sắc-cốt đem gắn lên vách, rút bút chì chỉ những điểm chính Củ Chi, Quốc lộ, sông Sài gòn v.v.. rồi giải thích:

- Người ta thường cho B52 là đui, bỏ bom tầm bậy, nhưng sự thực nó không đui. B52 là loại máy bay chiến lược dùng để hủy diệt hàng loạt công sự vững chắc của đối phương như pháo đài Bunker, thành lũy kiên cố, chớ không nhắm đánh một vài cái lô cốt. Bom của nó nặng nhất là một tấn có sức xuyên cây 12 thước, phá 100 thước đường kính, nhẹ nhất 250 kí xuyên từ 6 đến 9 thước, phá 50 thước đường kính.

Ba Xu bật lên khỏi đít ghế:

- Đó thấy chưa mấy cha! Giỏi chui xuống địa nữa đi!

Tôi tiếp:

- Còn nói về độ chính xác của nó thì không chê được. Đây là đường 15. và sông Sài gòn. Đây là vàm rạch ông Lỡ. - Tôi dừng bút chì và bảo - Mình đang ngồi ở chỗ này. Cây vú sữa nơi hai anh đánh cờ là ở đây. Chú Sáu ngồi câu ở đây. Cây khế, trạm gác hỏa tốc là những chỗ này. Bên kia là bến đò Đồng Sỏi. Đây là ngã tư Bò Cạp, bên cạnh là Nhà Mủ, vật chuẩn máy bay phản lực thường dùng để bỏ bom vùng này. Nhưng B52 không cần vật chuẩn như phản lực. Nó bỏ bom theo tọa độ. Đây, xin mời các anh xem bản đồ miền Nam, và bản đồ Củ Chi. Nó chia thành ô, mỗi ô là hai phân vuông. (Các ông các bà ngưng gắp thịt ngóng cổ nhìn) Đây là bản đồ tỷ lệ l/50.000:

Hai Phón hỏi..

- Nghĩa là sao? Còn tọa độ là cái giống gì nữa?:

- Dạ cứ 2 li trong bản đồ là một cây số ở ngoài thực địa. Mỗi tọa độ của nó dài hai cây số, ngang một cây số, nghĩa là tấm thảm rộng hai cây số, ngang một cây số các chú lại đây mà xem thì rõ hơn. (Tôi khoan từng vòng) Loạt bom trước nhà là đúng trong hai ô này. Còn hai ô này bao gồm khu vực chợ An Nhơn dính với một khúc địa đạo Xóm Trại Bà Huệ gồm một vạt đất sát hầm anh Năm Lê. Vì nó đi theo tọa độ nên hầm của anh Năm Lê nằm bên ngoài chớ không phải nó đui đâu Còn đây là hai ô khác từ Hố Bò chạy thẳng qua nhà thờ Rạch Kiến rồi ngưng lại ở đó. Bom có thể rơi trên mặt đất trong vườn, ngoài ruộng hay dưới sông chớ không phải nó nhắm trật mục tiêu. Mục tiêu của -trận đánh đó là tiêu diệt toàn bộ cơ sở ta từ Bến Dược đến chợ An nhơn chớ không phải chỉ nhắm vào một điểm nào..Kết quả là nó cày nát đường 15 làm cả một vùng của chúng ta bị tê liệt. Đò không cặp bến, xe bò không còn chở gạo... chúng ta không còn đường đi và dân tản cư mất hết.

- Tại sao xóm Phú Trung này hú vía vậy?

- Dạ vì Phú Trung nằm ngoài tọa độ của nó.

Mười Thơ ít nói cũng mở miệng:

- Thằng nhỏ này nói y như nó ngồi trên máy bay.

- Dạ nhờ sử.dụng pháo mà tôi tìm hiểu chiến thuật của B52 thôi chú Mười ạ!

- Mình đi cày còn lõi, mà nó bỏ bom không sót chỗ nào.

- Dạ đó lại là chiến thuật khác của nó. Khi thì nó triển khai bề dọc, khi nó lại triển khai bề ngang. Tụi Mỹ rất linh động. Nó không xài một chiến thuật nào cố định. Đó là do nó rút kinh nghiệm ở trên R hoặc ở đây (các ông ‘bà nhảy dựng lên). Nếu khai triển bề dọc chiếc thứ nhất nó rải từ Hố Bò tới chợ An Nhơn thì ngưng, chiếc thứ hai bắt đầu từ chợ An Nhơn tới Láng Cát v.v... Còn nếu nó khai triển bề ngang thì nó rải từ Hố Bò vô C5, từ Hố Bò ra sông Sài gòn hoặc từ đường 15 nó rải vô đồng Trà Dơ, từ đường 15 ra Xóm Thuốc tức là ngay chỗ mình đang đứng đây.

Sáu Dân giật mình:

- Ý! miệng ăn thịt chó nhậu sâm-banh đừng nói bậy mày nhỏ!

Ba Xu cười phun cả rượu ra bàn, chùi mép bảo:

- Vậy để các ông hết hở hở cái là chui xuống địa an tàng. Mê tín địa đạo, tử ư đỉa đạo đó!

- Dạ một li trên bản đồ là 50 thước ngoài thực địa cho nên pháo binh bắn sai một ly trên bản đồ là ra nhà dân hoặc trường học là vậy đó. Nếu bản đồ mà bèo nhèo nhăn nhó đo đạc cũng sai. Có trường hợp phải dùng hệ số lượng giác lô-ga-rít để tìm các cạnh rồi mới dám bắn. Đó là cự ly tính trên mặt phẳng, đôi khi phải dùng hình học trong không gian. Tây gọi là géometrie plane và géometrie dans l’espace!

Bất ngờ tôi nói mấy tiếng Pháp tôi xin lỗi. Ông đánh xe ngựa Mười Niên đang nốc sâm-banh nuốt vội bị sặc ho một giây và xua tay...

- Thôi thôi! Đủ rồi, dẹp ba cái tiếng tây tiếng u đó đi. Bà cơn mình nâng ly, đừng có nghe nữa mà mất hết tinh thần.

Ba Xu có cơ hội trả lời về các cuộc nướng quân ở Đồng Xoài Bình Giả, nên hễ hả nói:

- Nghe như vậy, các ông biết cái khoa học quân sự của Mỹ để mỗi lần thua, các ông càu nhàu tại sao không vận dụng lý thuyết Mác Lê. Hồi Pháp tôi đánh cả trăm trận chưa trận nào như Đồng Xoài. Đúng là bom nó bỏ như mưa, vuốt mặt không kịp. Công tác chính trị bao nhiêu với chiến sĩ, bị một trận B52 tiêu hết.

Mười Niên luôn luôn là tay hoạt náo của bàn tiệc. Hết đâm người này lại thọc người kia. Y bảo Ba Xu:

- Ê dẹp ba cái chính trị một bữa, mình ngã mặn thì nhậu thịt chó mới ngon.

- Ông có một bụng đó cứ xổ ra đi!

- Tôi kể các cha nghe hết rồi.

- Bữa nay có các bà không tiện đâu.

- Chỉ kể một chuyện bác Tôn làm lính thủy đi vô các khu vực Các các-xồn và Mông-pạc-nách ở bên Tây thôi!

- Ê cái gì mà nghe mông với nách không vậy ta?

- Tôi cũng nghe lóm anh Ba Tô Ký kể lại chớ tôi đâu có được tới nhà tướng râu kẽm Thanh Sơn. Trời! ở đó có cái câu lạc bộ bất mãn của dân Nam Kỳ nghe các cha. Sáu Giàu, Tô Ký, Tạo Nhót.

Mười Thơ hỏi.

- Tạo Nhót nào?

- Bộ trưởng mà không có chân trong Ban chấp hành đảng Lao Động đó! Các chả họp lại ăn bánh xèo, tha hồ xổ nho chửi xéo, chửi lén bác Hồ và Trung ương.

- Dám chửi à?

- Trời! Công khai thì không dám chớ bí.mật thì sợ gì ai! Có lần bác Tôn tới gặp chả giò nhậu với đế ở Xuân Mai đem ra. Ông Ba Tô Ký nhậu sần sần rồi chắp tay trước mặt bác Tôn. Ai nấy tưởng ông sắp nói điều gì quan trọng có liên hệ tới ghế đẳng của dân Nam Kỳ trong chánh phủ và đảng nên vênh lỗ tai ra chờ chẳng ngờ ông nội nói ăn trét:

- Thưa bác Tôn. Cuộc đời cách mạng của bác khởi sự từ đi lính thủy ở Bắc Hải treo cờ búa liềm chào mừng cách mạng tháng mười ở Xế-bát-tô-rô-pôn phải không ạ?

Bác Tôn gật gù khoái chí:

- Đó cũng do chủ nghĩa mác Lê hướng dẫn chớ bác là dân cu-li có biết cái cuống của nó trở lên hay lộn xuống gì!

- Dạ xin bác vui lòng cho cháu biết bác có lên nước Nga không ạ!.

-Có chớ. Tôi đi Pháp, Hoà Lan, Nhật, Nga... quê hương của cách mạng tháng mười chỗ nào có bến cảng là tôi tới. Kỳ đó đâu hồi năm một ngàn chín trăm ho ho.:. mười bảy. Tàu về đậu ở Hắc Hải, nghe tin cách mạng tháng mười thất bại, bị Nga Hoàng đàn áp, tụi này đang nhậu bỗng nổi hứng xé cái xì-líp đỏ treo lên cột cờ tượng trưng cho cờ búa liềm phản đối Nga Hoàng.

- Xì líp đâu mà sẵn vậy bác?

- Mỗi lần lên bờ, khi trở xuống tàu thế nào cũng có một kỷ niệm của các em đem theo cho đỡ nhớ... đất liền ho ho...

- Hắc Hải chắc chắn là nước đen, xì-líp thì đỏ, còn lông con gái Nga màu gì bác?

Cả bàn tiệc cười rần rần như máy nổ. Bác Tôn cũng cười theo.

- Bác hổng có thấy... gì hết..

- Chắc bác chỉ thấy cái gì xì-líp đỏ kỷ niệm thôi hả bác?

Cả bàn tiệc lại cười ầm ầm. Ông nội Tô ký chưa chịu thôi còn tiếp.:

- Nghe người ta nói con gái Nga hôi thịt trừu lắm, có hôn bác’?

Bác Tôn đáp trả liền.

Mười Nên chọc vào mồm Sáu Dân.

- Bác Tôn đáp liền à?

Cả bàn tiệc lại cười. Tư Trường nghiêm sắc mặt:

- Đừng có nói lái ác vậy nghe!

- Bác Tôn làm ậy, hay lắm chớ sao!

Ba Xu tiếp:

- Ông nội Tô Ký thiệt cả gan. Nhưng bác Tôn không quạu. Bác hỏi lại Tô Ký: "Chú vừa qua nghỉ mát bên đó thấy có mùi gì, chứ tôi không biết. Tại vì lúc đó tôi bị nghẹt mũi."

Mọi người vui vẻ ăn nhậu và nói chuyện văng tê. Mười Thơ, Tư Trường là hai tên dốn bà cũng bập bẹ tiếng Nam Kỳ và cười hùn cột lựa. Ba Xu tiếp:

- Ông nội Tô Ký không ngóc đầu dậy được là vì cái tánh ngang ngược và ghét Bắc kỳ ra mặt của ổng. Ổng không như Đồng Văn Chuột dạ dạ vâng vâng. Ổng lên tướng trước ông Chuột nhưng rồi cứ một sao. Một lần tôi lên Bộ Tư lệnh sư 38 của êng. Nhằm ngày chủ nhật nên ổng đem vợ con ngoài Hà Nội vô. Thằng nhỏ chạy chơi ngoài sân trợt té, kêu: "Bố ơi! bố, con ngã! " Ổng chỉ mặt bảo: "Mày nói lại: Tía ơi, con té, thì tao đỡ vậy còn Bố ơi, con ngã thì nằm đó! " Bà vợ ngồi gần cười: Anh sống giữa miền Bắc mà không chơi với Bắc kỳ thì chơi với ai? Ổng bảo: "Chỉ có Bắc kỳ cái là chơi được thôi bà ơi?"

Mười Thơ và Tư Trường không cười. (Tôi xin đánh dấu hỏi ở đây để trở lại nói về cái chết của Ba Xu sau này.)

Cuộc họp quân khu ủy mà tôi được dự chỉ có thế. Sau buổi tiệc không biết các ông còn bàn việc gì nữa ở đâu tôi không rõ. Ba Xu (với tư cách một người anh và là một chỉ huy của tôi, từ thời tôi làm mật mã cho Lê Đức Anh ở chiến khu 7) đi với tôi một quãng đường ra trạm gác. Anh than thở:

- Đánh với Mỹ khó lắm em à! Anh đã qua hai chiến dịch rồi anh biết. Hồi xưa mình đánh Pháp bằng sự dốt nát và liều mạng mà thắng. Khoa học không dự phần vào đó bao nhiêu. Anh sang Trung quốc học mấy năm, nhưng cái của Trung Quốc dạy, mình không thể áp dụng vào đây... một chút nào. - Anh xua tay - không được một chút nào.

- Dạ.

- Ừ em cũng có sang bên tập huấn pháo binh phải không? Họ đâu có dạy mình tận tình. Chỉ cho mình xơi ba cái bầy nhầy thôi, còn thịt nạc họ cất trong tủ. Nhưng binh chủng pháo của em còn dùng đỡ được. Năm ba cây pháo tép bắn vài chục quả rồi vác chạy. Đó là phản khoa học ngành pháo binh. Nhưng anh ra lệnh cho em đánh dù biết trước kết quả thế nào rồi. Đánh cho vui lòng mấy ông nội này nè. Chớ không phải vì thời cơ tốt cho trận đánh. Em thấy trực thăng vận và pháo binh của Mỹ chưa? Vậy mà Trung Quốc dạy cho anh Trì Cửu Chiến, Thiên thời địa lợi nhân hòa là những điều xưa như trái đất rút từ du kích chiến tranh ở Diên An. Không một bài học nào đem dùng được ở miền Nam này. Nhất là Củ Chi: Kế hoạch của nó là bào láng Củ Chi để giữ sạch cửa ngõ vào Sài gòn. Mình lấy ai để mà nhân hòa? Hai hôm nay tụi Đồng Dù và Trung Hòa hầu như không bắn pháo. Chi vậy? Để mình nghĩ rằng pháo chúng nó bị phá hủy hết rồi và lạc quan tếu..

- Dạ Chín Lộc cho em biết Trung Hòa đã kéo ra bốn cây pháo. Vậy là hư...

- Thằng mắt toét đó có thấy gì. Mặc dù nó đi học Liên Xô nhưng mắt nó vẫn toét. Nó đâu có biết được những cục trùm kín mít là cái gì. Mỹ sẽ mở chiến dịch ngay sau đây. Theo tin anh nhận được thì cuộc càn lớn tên là Operation Crimp sẽ xảy ra vào cuối tháng tới nhưng vì bị pháo kích, nó sẽ làm ngay. Em về nhà mà chuẩn bị càng nhanh càng tốt chôn giấu các khẩu pháo thật kỹ.

Tôi liếc thấy anh như có điều gì không tiện nói. Anh đi với tôi thêm một quãng nữa rồi dừng lại bắt tay tôi, thở dài:

- Ở trên bảo nắm thắt lưng Mỹ mà đánh, nhưng chỉ cho bấy nhiêu thôi đó.

Tôi từ giã ông anh của tôi mà lòng bùi ngùi. Tôi biết anh đang ở vào cái thế trên đe dưới búa. Người ta đánh giặc bằng lập trường không phải bằng khoa học.

Tôi đã thấy điều đó ở trên Trường Sơn, ở R và giờ đây ở Củ Chi. Hai Giã, đại úy pháo binh chết vì một chuyện cỏn con. Thằng Chi chết vì đánh pháo 175 bằng pháo chuột. Biết bao giờ Trung ương mới hiểu được chiến trường Miền Nam và cái Củ Chi đất thép này? Trong những ngày tới các bạn sẽ mục kích cái chết của một đại tướng Việt Cộng bốn sao. Một cái chết lãng xẹt. Ai giết?

Tôi và Ba Tố đi song song bên nhau không đứa nào nói gì. Bỗng một tiếng kêu thất thanh chát chúa.

- Anh Hai?

Tôi nhìn ra con Ua. Nó đang giằn co to tiếng với anh trạm trưởng vì anh không cho nó vô. Nó mừng quýnh chạy lại ôm lấy tôi

- Anh cũng đi họp trong này hả?

Ua bây giờ khác hẳn. Đầu quăn, áo mỏng, guốc cao gót.

- Nhìn gì dữ vậy, tía non?

Tôi vã miệng nó. Nó phân bua:

- Mấy anh này không cho em vào gặp chú Sáu Huỳnh.

- Không có Sáu Huỳnh ở trỏng. Chỉ có Chín Lộc thôi!

- Chín Lộc càng tốt? Tin khẩn cấp không trễ được!

- Tin gì dữ vậy?

- Em không thể nói với ai khác ngoài ông Lộc.

Gã trạm trưởng kêu tên gác trên ngọn cây bảo chạy vô cấp báo. Ua quay lại tôi:

- Bộ lạ lắm hả?

- Giống cao bồi gái quá? Con Chia đâu?

- Nó sắp có chồng.

- Vậy à? Mau hả?

- Tại ai không phải tại nó!

- Ngoại chết em có về không?

Ua òa khóc tức tưởi.

- Về gì được mà về. Tụi thằng Rắc bắn chớ ai. Nó khoe rùm ngoài Trung Hòa mà! Đời em kể như tiêu. Anh không biết gì hết. Thôi anh đi đi, để người ta chờ. Nè, trung tá Mã Sanh Nhơn Tỉnh trường lên giá cái đầu anh 20,000 rồi nghe. Liệu mà lội cho hung.

Tôi cười:

- Vậy là cái đầu anh lên giá gấp đôi. Thằng Lệnh vừa treo giá mười ngàn bây giờ được hai chục.

Cô bé được lệnh vào, nên từ giã tôi:

- Anh về ở H6 chờ em. Có chuyện lạ, nói cho nghe.

Rồi nàng vọt xe đạp. Mùi dầu thơm phất lại sau quất vào mặt tôi. Tôi trở lại. Ba Tố hỏi:

- Có chuyện gì khẩn cấp không mà ông.tư lệnh phụ nhỉ thầy lâu và con nhỏ quân báo hớt hãi vậy thầy?

- Ôi thì cũng ba cái chuyện nắm thắt lưng Mỹ mà đánh của ông Sáu Vi chớ có gì!

Ba Tố bật cười, cái mặt thịt run run:

- Hố hố... há há.

Thằng Bọ Ngựa và thằng Đỏ cũng cười theo. Ba Tố nói:

- Chiến thuật đó hay thật thầy ạ. Nhưng chỉ có nữ du kích, nữ cán bộ quân báo như con nhỏ đầu quăn đó thi hành được thôi Hễ các cô thừa thắng xông lên thì nắm được thắt lưng của tụi Đồng Dù ngay. Nhưng vừa nắm được thì tụi nó tuột luôn chớ không để các cô nắm lâu. Bởi vậy các cô thích quá cứ tìm Mỹ mà nắm thắt lưng hoài. Mấy cô đang ở trong này cũng tìm ra đó để nắm. Nhiều cô nắm riết rồi khoái không chịu buông ra, còn một số cô khác thì mang bầu non bầu già về tặng cho giải phóng. Báo hại thầy nạo Tám Lê...

- Thôi cha nội! Ổng khai hết với tôi rồi! Bỏ cái vụ nắm níu đó đi. Vợ cán bộ đại đội của mình còn lén đi nắm. 500 đồng một ngày, không nắm cũng uổng! Bây giờ mình ghé Tư Chuyền thăm thằng Đảnh luôn tiện nhậu miếng thịt chó này, rồi ông tắp vô bà Tám Khỏe còn tôi ghé thăm cô xã đội phó...

Hai đứa cười ngặt nghẹo với nhau. Bỗng từ trong gốc cây ven đường bước ra một người đàn bà tay xách giỏ đầu quấn khăn rằn, chận đầu tôi.

~ Anh Hai đi về hả?

Tôi nhìn lại thì ra bà Út Tức. Tôi nháy Ba Tố. Ba Tố dắt hai thằng nhải đi trước.

- Sao không họp tiếp mà ra đây... a... em?

- Họp gì nổi mà họp! Mấy ông biểu em ở lại thảo kế hoạch đấu tranh chính trị của đạo quân đầu tóc.

Tôi gạt ngang.

- Đầu tóc đâu còn cái nào mà đấu tranh! Tụi Mỹ xài quân đầu tóc đánh đánh tại mình thì có.

Nàng càu nhàu:

- Anh đi đâu mất biệt không gởi một chữ cho em!

Tôi trách ngược lại:

- Còn em có gởi lá nào cho anh không?

Tội nghiệp nàng vô cùng. Tôi không có ý nghĩ mỉa mai bà khu ủy như trước kia nữa mà thương hại thật tình. Đeo đẳng làm chi ba cái lý tưởng này rồi lỡ thời con gái, nông dân không dám rớ còn cán bộ thì lại chê... chỉ có ba lão già dềnh là mó tới. Mà chỉ qua đường. Tôi hỏi lảng

- Khẩu K54 còn nằm trong giỏ trầu không?

- Cái nợ đời đó có lúc em muốn quăng xuống sông Bà Hảo cho rồi.

- Tình hình trên quận Tân Biên lúc này ra sao? Chắc cơ sở của em vững lắm hả? Bà má còn ở đó không? Em còn bắt con Tám ghi sổ hết? Lão Tư Ó ra Tây Ninh rồi hả?...

Tôi hỏi một hơi. Út khóc sụt sịt.

- Tụi xe bò trốn ra ấp chiến lược Mỏ Công hết rồi. Bà má với con Tám cũng dọn đi. Ở trên tan hoang hết rồi chợ Long Hoa đâu có còn nhóm nữa. Còn em thì thuyên chuyển đi vùng khác. Em biết anh ở đây mà không thể nào tới được. Em còn biết anh sắp cưới vợ nữa mà.

- Cưới ai?

- Ai thì anh biết, hỏi em làm gì. Nếu em có được đứa con với anh thì em đã về nhà lâu rồi.

- Bậy nào! Cách mạng sắp thành công. Đừng bỏ uổng!

Út cười miệng méo xệch, mắt đỏ chạch:

- Thành công gi! Khu ủy sắp chạy qua Bến Súc bỏ Củ Chi cho anh đó. Anh liệu mà làm anh hùng! Người ta bàn sẽ đưa anh ra chỉ huy bộ binh vì mấy ông Ba Châm, Năm Tiều già, chậm lụt không đánh được. Chỉ có ông Ba Xu là muốn gửi anh lại H6 thôi.

- Rồi sao?

Út lưỡng lự một giây rồi tiếp:

- Anh có người em thủy quân lục chiến đại úy phải không? Ông Chín Lộc báo cáo với khu ủy là anh cứng đầu không chịu móc. Cho nên tới nay vẫn không tìm ra mối.

(Tôi nghĩ ngay: Tình hình này họ đưa mình ra bộ binh là họ muốn muợn tay Mỹ giết mình)

Bao nhiêu lửa yêu đương tắt ngấm. Thình lình, thằng Đỏ chạy tới hớt hãi:

- Anh Hai, giang thuyền đổ bộ. Chạy mau đi!

Tôi giục nàng trở lại căn cứ, còn tôi quay về với Ba Tố. Ba Tố cười khè khè:

- Xin lỗi thầy... nhé... Tôi thấy thầy dính với bà già trầu, sợ thầy siết bù lon với bả mà không về kịp nhà cô xã đội phó chớ giang thuyền gì! Há há...


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx