sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 6: Trận Đánh Bắt Đầu Và Vết Thương Của Tôi

Hai giờ sáng ngày 5/7/1943, phiên gác của tôi vừa mới bắt đầu tại vị trí đặt súng gần làng Nemchinovka. Thời tiết u ám và đêm vào lúc này đặc biệt tối. Bất ngờ từ xa phía sau chiến tuyến tôi có thể nhìn thấy những ánh chớp lửa. Lẽ ra tôi phải đoán được rằng pháo binh của chúng tôi đang bắn giống như tôi đã biết từ nhiều ngày trước cuộc tấn công sẽ bắt đầu. Nhưng vì một số lý do, ý nghĩ đầu tiên đến với tôi lại là những quả đạn pháo Đức đang rơi quá xa phía sau chiến tuyến của chúng tôi đến mức kỳ cục. Tuy nhiên tôi không nghe thấy tiếng nổ. Nếu bọn Đức đang bắn, chúng tôi lẽ ra phải nhận những quả đạn nổ tung khắp xung quanh chứ. Tôi nghĩ: “Pháo chuẩn bị kiểu gì mà quái lạ thế này?” Trận pháo kích phản chuẩn bị của chúng tôi kết thúc sau ba mươi phút. Ba mươi phút đó đã làm bọn Đức choáng váng và khiến cuộc tấn công của chúng chậm lại. Nó buộc chúng phải mất khoảng hai giờ để thu nhặt những người bị thương vong, kéo những xe cộ bị phá huỷ ra phía sau và tái tổ chức tấn công. Chỉ sau khi hoàn tất những việc đó đợt pháo chuẩn bị của chúng mới bắt đầu. Sự ngạc nhiên mà chúng tôi dành cho chúng vẫn chưa hết. Trận pháo kích phản chuẩn bị gây cho pháo binh của chúng những thiệt hại nặng nề, có vẻ như chúng chỉ có thể tung ra một nửa cú đòn mà chúng tôi dự đoán trước đó vào chiến tuyến quân Nga. Và để phản pháo chúng, bây giờ không chỉ là 600 khẩu nữa mà là toàn bộ 1.200 khẩu pháo của chúng tôi bắt đầu bắn.

Bọn Đức tập trung pháo kích nào khu vực chiến tuyến quân ta đối mặt với Sư đoàn Thiết giáp số 20 Đức. Sư đoàn bộ binh 15 “Sivash” của chúng tôi trấn giữ đoạn chiến tuyến này. Bộ binh của chúng tôi được che chở trong các hầm trú ẩn, nhưng vẫn có khoảng 15% quân số chết ngay trong đợt pháo chuẩn bị của quân Đức. Tất nhiên những căn hầm không thể bảo vệ được tất cả mọi người, nếu một viên đạn pháo bắn trúng hầm, những người núp bên trong sẽ chết. Sau đợt pháo chuẩn bị, những chiếc xe tăng Đức tiến lên, theo sau là bộ binh cơ giới và súng máy. Bộ binh của chúng tôi vẫn náu mình dưới hầm khi bọn Đức đến gần. Quân Đức đánh tới tuyến phòng thủ đầu tiên và xuyên vào khu vực phòng ngự của các trung đoàn tuyến đầu. Bất chấp nhiều xe tăng không bị súng chống tăng quân ta hạ, những người lính bộ binh tuyến đầu vẫn lao ra các tuyến chiến hào và sau đó tấn công chúng từ phía sau bằng mìn chống tăng. Trong ngày đầu tiên của trận đánh, quân Đức tiến được 800m. Nhưng đến tối, những cuộc phản công dữ dội của các đơn vị dự bị đã buộc chúng phải rút lui khỏi một số vị trí. một số nơi quân Đức chỉ tiến được 300m, một số nơi khác thì xa hơn một chút. Nhưng dù thế này hay thế khác, quân Đức cũng đã thực hiện được việc đóng một cái nêm vào tuyến phỏng thủ quân ta. Trận đánh lúc này hết sức ác liệt. Gần làng Samodurovka có một khẩu đội pháo 76mm của quân ta do đại uý Igishevo chỉ huy. Khẩu đội này trong ngày đầu đã tiêu diệt 17 chiếc tăng Đức trong hai cuộc tấn công. Khi những cuộc tấn công này chấm dứt, trong số 32 người và bốn khẩu pháo của khẩu đội khi bắt đầu trận đánh chỉ còn một khẩu pháo chưa bị phá huỷ và ba người còn sống sót. Bọn Đức tấn công tiếp lần thứ ba, khẩu pháo còn lại đã bắn hạ thêm ba chiếc tăng, nhưng chiếc thứ tư đã nghiền nát nó cùng với những người pháo thủ nhỏ bé dưới xích sắt, tiêu diệt nốt khẩu pháo cuối cùng và những người còn lại. Đại uý Igishevo được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, và kể từ trận đánh đó, làng Samodurovka được đặt tên danh dự là làng Igishevo.

Trong giờ đầu tiên bọn Đức tấn công, tiểu đoàn chống tăng của chúng tôi nhận lệnh di chuyển ngay lập tức về phía trước đến sát nơi xảy ra trận đánh. Vì vậy vào lúc 5h chiều ngày 5/7, tiểu đoàn đến khu vực phòng ngự của Sư đoàn 307 bộ binh và được đặt tạm thời dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn này. Tại Ban chỉ huy Sư đoàn, tiểu đoàn trưởng của chúng tôi nhận lệnh yểm hộ cho một trong số các trung đoàn bộ binh của Sư đoàn đang giữ khu vực nông trường quốc doanh 1/5, tiếp giáp Ponyrii về phía đông bắc.

Khoảng nửa đêm ngày 5/7, tiểu đoàn tôi di chuyển vào một vị trí dễ có khả năng bị xe tăng Đức tấn công – một dải đất rộng khoảng 800m dốc xuống hai rãnh hai bên, song song với các đường rãnh khác ở phía đông Ponyri. Khu vực này nằm giữa hai đường rãnh và bao bọc bởi những cánh đồng lúa mạch chưa cắt. Chúng tôi nguỵ trang hoả điểm và thiết lập khu vực bắn. Trong mọi trận đánh, mỗi khẩu pháo trong tiểu đoàn tôi đều được phân công khu vực riêng, nó trùng một chút với khu vực được phân của những khẩu pháo bên cạnh. Điều đó có tác dụng làm cho tất cả pháo không chọn cùng một mục tiêu và làm cho trận chiến đỡ lộn xộn.

Sáng ngày 6/7 trời nhiều mây thấp, bầu trời u ám gây trở ngại cho sự phối hợp của không quân. Khoảng 6h sáng, vị trí của chúng tôi bị tấn công trực diện bởi một lực lượng khoảng 200 tay súng máy và 4 chiếc tăng Đức, có vẻ là loại PzKw IV. Những chiếc tăng dẫn đầu, theo sát phía sau là bộ binh. Bọn Đức đang thử tìm một điểm yếu trên chiến tuyến quân ta. Quân Đức tiến qua cánh đồng lúa mạch chưa gặt thẳng về hướng những hoả điểm của chúng tôi, nhưng chúng không nhìn thấy chúng tôi. Chúng tôi dằn nỗi sợ hãi xuống đáy dạ dầy khi những cỗ xe tăng Đức gầm thét tiến về phía mình, dừng lại mỗi 50 đến 70m để quan sát chiến tuyến quân ta và nã đạn. Trong tiếng ầm ĩ hỗn loạn của trận đánh, chúng tôi hầu như không nghe thấy tiếng đạn pháo Đức nổ nhưng có thể nhìn thấy quả đạn lao xuyên qua không khí thẳng về hướng các hoả điểm quân ta. Nhưng những quả đạn đó đều bay qua đầu chúng tôi một cách vô hại, bọn Đức chưa phát hiện được chúng tôi và có vẻ đang xác định mục tiêu là các vị trí ở phía sau chúng tôi. Đầu gối và chân tôi bắt đầu run lên dữ dội cho đến khi nhận lệnh sẵn sàng chuẩn bị khai hoả. Sự run rẩy chấm dứt và chúng tôi trở nên tự chủ ngay lập tức, giờ chỉ còn khát khao lớn nhất là không để trượt mục tiêu. Khi bọn Đức tiến đến cách chúng tôi khoảng 300m, chúng tôi bắt đầu nổ súng vào những cỗ xe tăng. Khẩu Số một của chúng tôi bắn cháy một chiếc ngay phát đầu tiên, và sau đó hạ tiếp chiếc thứ hai, Khẩu Số 3 và Số 4 cũng phối hợp hạ chiếc tăng Đức thứ ba, chiếc tăng thứ tư bỏ chạy. Cho đến lúc đó chẳng có cỗ xe tăng Đức nào trong khu vực bắn của tôi, tôi bèn chuyển sang đạn nổ mảnh và ngắm vào bọn bộ binh đang tiến tới. Đám lính Đức mang súng máy vẫn ngoan cố tiếp tục tiến lên. Khi chúng đến gần hơn, chúng tôi đã thay xong đạn mảnh và bắt đầu nã đạn vào chúng. Không ít hơn một nửa bọn Đức ngã lăn ra đất, bọn còn lại lùi về chiến tuyến Đức nơi chúng đã xuất phát. Khi chúng tôi nhìn thấy bọn Đức rút lui và một cỗ xe tăng Đức vẫn tiếp tục cháy đùng đùng, ai cũng muốn nhảy lên vui sướng và hét lên “Urrah!” thật to; mọi người đều phấn khích vì thắng lợi. Sau khi đánh lui cuộc tấn công thăm dò của bọn Đức, một thượng sĩ mang bữa sáng của chúng tôi tới kèm 100g vodka để ăn mừng chiến thắng. Chúng tôi bắt đầu chén “súp Mỹ” – một chất lỏng sền sệt làm từ đậu và thịt gà. Khi ăn, chúng tôi không chú ý là bầu trời đang trở nên quang đãng, và đó lúc thích hợp cho không quân hai bên bắt đầu nhập cuộc.

Khoảng 10h sáng, một phi đội 10 chiếc Ju-87 “Stuka” bất thần xuất hiện trên đầu. Chúng tôi gọi chúng là “nhạc sĩ” vì âm thanh rú rít mà chúng tạo ra khi bổ nhào. Đám Stuka có vẻ không nhận ra được mục tiêu nhưng vẫn bay lượn trên chiến tuyến quân ta, và mỗi chiếc thả bốn quả bom 50kg. Chúng tôi chui xuống hầm, nhưng cũng không có quả bom nào ném trúng ụ pháo hay boongke nào, và tiểu đoàn tôi không gặp phải thiệt hại gì. Ba mươi phút sau, một phi đội “nhạc sĩ” khác xuất hiện và bắt đầu một trận oanh tạc mới. Lần này có vẻ như chúng đã xác định được vị trí tiểu đoàn chúng tôi và những trái bom đầu tiên nổ cách 50m-70m phía trước những khẩu pháo. Chiếc cuối cùng bổ nhào đúng vào vị trí tiểu đoàn và bỏ bom. một quả rơi thẳng vào hầm trú ẩn của tôi. Tôi nhìn thấy nó lao tới như nhìn thấy cái chết chắc chắn đang đến gần mà không thể làm gì để cứu lấy bản thân: Không đủ thời gian. Để lao sang một căn hầm khác cần 5-6 giây trong khi quả bom được thả từ gần sát mặt đất nên chỉ 1-2 giây là rơi đến đất – và đến tôi.

Trong vài giây ngắn ngủi khi tôi nhìn quả bom lao xuống, toàn bộ quãng đời trước đây lướt qua đầu óc tôi. Mọi thứ dường như xảy ra trong một đoạn phim quay chậm. Tôi rất không muốn chết vào tuổi hai mươi. Tôi thoáng nghĩ đến việc cầu xin Chúa cứu rỗi cuộc đời mình, nhưng sau đó tôi nhớ ra rằng mình là một đoàn viên Komsomol và vì thế tôi không thể làm những việc đại loại như cầu khấn. Ngay trước khi quả bom rơi xuống, tôi lăn về phía trước căn hầm nhỏ bé của mình và dùng hai tay che mặt. Khi mặt tôi quay lên trên, trong khoảnh khắc tôi nhận thấy một trận bão bụi đất đang lao thẳng vào mình từ khoảng cách độ 12m phía trên. Ngay khi ngừng lăn, tôi nghe thấy tiếng nổ, ngửi thấy mùi thuốc súng TNT kinh tởm, và cảm thấy hai cú đánh mạnh vào đầu. Tôi thấy đầu mình như bị xé toạc ra. một ý nghĩ thoáng qua: “Chết mà không đau là thế nào!”

Quả bom nổ rất gần hầm và tôi bị chôn vùi trong đống đất đá lùng nhùng. Tiểu đoàn trưởng Bondarev và các đồng chí của tôi phải đào bới điên cuồng để lôi tôi lên khỏi mặt đất ngay khi trận oanh tạc kết thúc. Họ lôi được đến ngang lưng và nghĩ là tôi đã chết vì khi họ nhẹ nhàng nâng đầu tôi lên và thả ra, đầu tôi lập tức gục xuống. Tôi lúc đó chỉ bị ngất. Họ cố gắng lay cho tôi tỉnh lại ba đến bốn lần. Cuối cùng một người lắc tôi một cú mạnh và tôi tỉnh lại. Khi tỉnh tôi nhớ đến cảm giác đầu mình bị xé toạc ra và nghĩ: “Xin đủ, mình còn sống!”

Tôi bắt đầu nhìn mọi vật xung quanh nhưng tất cả đều hoá thành màu đỏ. Mặt tôi đầy máu. một đồng chí của tôi nâng tay tôi lên mà lắc và tôi có thể nhìn thấy thêm màu trắng. Tay tôi cũng đầy máu. Máu thậm chí chảy ồng ộc ra từ tai và mũi nhưng tôi không quan tâm. Tôi quay đầu và nhìn thấy đạn pháo đang nổ ngay gần – những cột sáng mầu da cam, và 3m hay 4m phía trên chúng là những đụn khói đen đang bốc lên ngùn ngụt. một vụ nổ, rồi hai rồi ba – tôi ngắm nhìn chúng một cách vui thích và nghĩ: “Đẹp thật, y như phim.” Tôi nhìn chúng và cảm thấy sung sướng rằng mình còn sống, rằng tôi có thể nhìn, và rằng tôi có thể nghĩ nữa.

Đột nhiên tôi thấy một trong các đồng chí của mình bắt đầu chạy, rồi người thứ hai và thứ ba – chính là người đã moi tôi ra khỏi ngôi mộ chôn sớm. Tôi nhìn lên và thấy phía trước là cả tá Junker đang bay đến. Tôi nghĩ: “Lần trước mình sống sót nhưng lần này thì chúng nó giết mình mất.” Chẳng hiểu sao tôi chồm được khỏi đống đất đá lúc này vẫn còn đè lên chân và phi ra khỏi chiến hào. Tôi chạy thẳng về phía những chiếc Junker và vừa chạy vừa ước lượng xem những quả bom sẽ rơi ở đâu khi thấy chúng thả bom, nhờ đó biết được mình nên núp vào chỗ nào. Tôi chạy và chạy, sau đó nhào xuống một cái hố nhỏ trên mặt đất. Thành hố rung lên vì tiếng nổ và tôi bị đất cát tưới đầy người. Tôi nằm đó, và tôi đếm: “1, 2, 3…”. Trong số các nhiệm vụ mà tôi phải làm có việc đếm số bom ném vào vị trí tiểu đoàn để làm báo cáo sau trận đánh. Bọn Đức thường thả 6, 8 hoặc 12 quả bom. Chúng đã oanh tạc chúng tôi bằng loại bom nổ mảnh chống bộ binh cỡ nhỏ – 50kg. Loại bom này có một ngòi chạm nổ sẽ kích nổ trái bom ngay khi chạm đất, khi nó nổ, mảnh bom bay tứ tung đâm xuyên mọi thứ xung quanh và thậm chí cắt trụi cỏ trong khu vực nổ. Trận bom kết thúc, thành hố ngừng rung, bỗng nhiên tôi cảm thấy có gì đó lục đục bên dưới. Tôi nhận ra có người đang nằm dưới tôi. Cái hố này được đào để phục vụ thông tin đường sắt, chỉ nhỏ vừa đủ chỗ cho một thông tín viên. Cứ 1,5km lại có một trạm thông tin như vậy. Công việc của thông tín viên là nằm ghé tai vào đó, tức là nghe. Tiếng động trên đường dây mà ngừng có nghĩa là dây đứt, anh ta sẽ phải trèo lên khỏi hố đi tìm điểm đứt để sửa.

Tôi nhìn người thông tín viên và có thể thấy môi anh ta chuyển động. Tôi giải thích với anh ta rằng tôi chẳng nghe thấy gì cả. Chỉ đến lúc này tôi mới bắt đầu hiểu mình đã bị điếc. Tôi trèo lên khỏi hố và ngồi xuống bên cạnh. Tiểu đoàn trưởng đến gần tôi và qua khẩu hình tôi hiểu ông đang hỏi: “Có sao không?”. Tôi cố gắng trả lời “Mọi thứ vẫn ổn”, nhưng khi mở mồm nói, lưỡi tôi xuôi xị một cách vô dụng và tôi không thể làm nó hoạt động trở lại – thêm một hậu quả nữa của sự chấn động. Ông ta giơ tay kéo tôi dậy, đưa tôi ngồi vào ghế phải xe của ông và chở tới trạm xá. một bác sĩ kiểm tra tôi ở đó và viết một cho tôi một tờ giấy: “Đừng lo – trong vòng 4h đến 6h lưỡi của cậu sẽ trở lại vị trí phù hợp với nó, nhưng đừng cố nói trước khi bác sĩ cho phép nếu không lưỡi cậu có thể không chịu quay về đúng chỗ đâu.” Ông bác sĩ kê đơn thuốc giảm đau cho tôi và nói: “Loại thuốc tốt nhất cho cậu là thời gian, thời gian, thời gian.” Chúng tôi quay lại tiểu đoàn chống tăng và được đưa lại vào trạm xá tiểu đoàn. Tumarbekov (anh ta cũng bị chấn động do trận bom) và tôi ngồi cạnh đầu bếp giúp gọt khoai tây và giữ lửa trong bếp lò. Đêm đó, khoảng 2h sáng, tôi tỉnh dậy và cảm thấy mồm không thể ngậm lại được. Bên trong đó tưởng như có cả một gia đình nhím đang làm ổ, đó là vì cái lưỡi của tôi đang liệt và trên đó những mụn nước bắt đầu vỡ ra nhức nhối. Sau hai hay ba ngày, những miếng rộp đó bắt đầu tuột khỏi lưỡi. Vào ngày thứ ba khả năng nghe của tôi bắt đầu trở lại. Tôi đã có thể nghe thấy tiếng máy bay ném bom. Ngày thứ năm, bác sĩ cho phép tôi nói thử hai từ và khả năng nghe bắt đầu tiến triển. Sau một tuần rưỡi tôi đã nghe tốt trở lại nhưng vẫn nói lắp. Phải đến ngày 16-17/7 tôi mới quay trở lại khẩu đội của mình. Bây giờ không còn ở Ponyri nữa mà đã tiến tới nơi trước đây là vị trí xuất phát tấn công của bọn Đức. Tôi luôn luôn hối tiếc về vết thương vào ngày 6/7 đó. Tôi tự thẹn là đã chỉ tham chiến trong có hai ngày đầu của cuộc tấn công. Tiểu đoàn tôi được đặt dưới sự chỉ huy của Sư đoàn bộ binh 307 cho đến hết ngày 9/7, đó là lúc Sư đoàn 4 Đổ bộ đường không lên thay vị trí Sư 307 ở Ponyri và cúng tôi quay trở lại đội hình sư đoàn mình.

Các đồng chí của tôi cho biết các tin tức về trận đánh và những sự kiện mà tôi đã bỏ qua. Hôm 8/7, bọn Đức tiến được trên toàn tuyến khoảng 12km và đã chiếm được Poryni. Sư đoàn Đổ bộ đường không 4 của chúng tôi được ném vào Ponyri với lời dặn: “Các anh là những người lính mang danh hiệu Cận vệ – các anh được lệnh đẩy lùi bọn Đức ở đó và khôi phục lại tuyến phòng ngự.” Tối ngày 8/7, các trung đoàn 7 và 9 Đổ bộ đường không áp sát ga Ponyri ở khoảng cách 600m và chuẩn bị tấn công. Sáng hôm sau, 9/7, các trung đoàn này tấn công và chiếm lại được nhà ga và khu trường học ở giữa ga. Họ xông đến tận rìa phía bắc ga, ở đó họ dừng lại, hoàn thành mục tiêu của ngày hôm đó. Tuy nhiên bọn Đức lập tức phản công bằng một tiểu đoàn xe tăng và bộ binh cơ giới, chúng đã cắt rời tiểu đoàn một trung đoàn 9 (chỉ huy đại úy cận vệ A.P.Zhukov) khỏi đội hình quân ta. Tiểu đoàn một chọn cách dừng lại giữ chặt vị trí và thế là trận ác chiến điên cuồng diễn ra. Các đồng chí của tôi đã chiếm được một khẩu đội 6 khẩu đại bác chống tăng Đức. Họ quay chúng lại các ông chủ cũ và hạ sáu chiếc tăng Đức. Hầu như toàn bộ tiểu đoàn một đã chết ở đó. Chỉ những người đã bị thương và được mang ra khỏi bãi chiến trường từ trước là còn sống sót. Cả Zhukov và chính trị viên tiểu đoàn đều chết trong vòng vây và được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Họ là những người đầu tiên được phong Anh hùng của sư đoàn tôi. Cho đến năm 1989 ở đó vẫn có một đài kỷ niệm họ. Sau ngày 9/7 bọn Đức không tiến thêm được 1km nào nữa. Trong ba ngày chúng tôi chặn đứng các cuộc tấn công của chúng và đánh bật chúng khỏi những vị trí đã xuyên được vào tuyến phòng ngự Nga. Ngày 12/7, Phương diện quân Briansk mở cuộc tổng phản công ở khu vực phía bắc Orel, nơi bọn Đức đang chiếm giữ một mấu lồi sâu vào chiến tuyến quân ta giống như mấu lồi của ta ở Kursk. Cuộc phản công của Hồng quân khiến Tập đoàn quân 9 của Model phải rút khỏi các cuộc tấn công, và cùng với Phương diện quân Briansk chúng tôi bắt đầu dồn bọn Đức quay trở lại. Đó chính là nơi tôi đã quay lại với những đồng chí của mình ở mặt trận.

Các đồng chí của tôi cho biết các tin tức về trận đánh và những sự kiện mà tôi đã bỏ qua. Hôm 8/7, bọn Đức tiến được trên toàn tuyến khoảng 12km và đã chiếm được Poryni. Sư đoàn Đổ bộ đường không 4 của chúng tôi được ném vào Ponyri với lời dặn: “Các anh là những người lính mang danh hiệu Cận vệ – các anh được lệnh đẩy lùi bọn Đức ở đó và khôi phục lại tuyến phòng ngự.” Tối ngày 8/7, các trung đoàn 7 và 9 Đổ bộ đường không áp sát ga Ponyri ở khoảng cách 600m và chuẩn bị tấn công. Sáng hôm sau, ngày 9/7, các trung đoàn này tấn công và chiếm lại được nhà ga và khu trường học ở giữa ga. Họ xông đến tận rìa phía bắc ga, ở đó họ dừng lại, hoàn thành mục tiêu của ngày hôm đó. Tuy nhiên bọn Đức lập tức phản công bằng một tiểu đoàn xe tăng và bộ binh cơ giới, chúng đã cắt rời tiểu đoàn một trung đoàn 9 (chỉ huy đại úy cận vệ A.P.Zhukov) khỏi đội hình quân ta. Tiểu đoàn một chọn cách dừng lại giữ chặt vị trí và thế là trận ác chiến điên cuồng diễn ra. Các đồng chí của tôi đã chiếm được một khẩu đội 6 khẩu đại bác chống tăng Đức. Họ quay chúng lại các ông chủ cũ và hạ sáu chiếc tăng Đức. Hầu như toàn bộ tiểu đoàn một đã chết ở đó. Chỉ những người đã bị thương và được mang ra khỏi bãi chiến trường từ trước là còn sống sót. Cả Zhukov và chính trị viên tiểu đoàn đều chết trong vòng vây và được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Họ là những người đầu tiên được phong Anh hùng của sư đoàn tôi. Cho đến năm 1989 ở đó vẫn có một đài kỷ niệm họ. Sau ngày 9/7 bọn Đức không tiến thêm được 1km nào nữa. Trong ba ngày chúng tôi chặn đứng các cuộc tấn công của chúng và đánh bật chúng khỏi những vị trí đã xuyên được vào tuyến phòng ngự Nga. Ngày 12/7, Phương diện quân Briansk mở cuộc tổng phản công ở khu vực phía bắc Orel, nơi bọn Đức đang chiếm giữ một mấu lồi sâu vào chiến tuyến quân ta giống như mấu lồi của ta ở Kursk. Cuộc phản công của Hồng quân khiến Tập đoàn quân 9 của Model phải rút khỏi các cuộc tấn công, và cùng với Phương diện quân Briansk chúng tôi bắt đầu dồn bọn Đức quay trở lại. Đó chính là nơi tôi đã quay lại với những đồng chí của mình ở mặt trận.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx