Năm Hồng Đức thứ tư[1]. Đông Kinh đã bước vào mùa đông, trời vẫn mưa tầm tã từ tháng chín đến tận bây giờ. Chuông điểm đầu giờ Tý, ngoại trừ cơn gió lạnh cắt da thịt vẫn không ngừng đập vào những cánh cửa đóng im lìm thì từ nửa đêm về gần sáng, người đường vắng tanh không một bóng người lẫn động vật. Gian dưới của mấy căn hàng quán gần bến Yên Hoa[2] bắt đầu tỏa vài ánh đèn chập chờn, giờ là lúc người trong nhà lục đục trở dậy nấu đồ để kịp sáng mai bán cho khách. Trong không khí ẩm ướt thoang thoảng mùi củi cháy và khói bếp lượn lờ bốc lên từ gian nhà dưới.
Phố Giai Tuân phường Đông Tác[3], tường cao nhà quý, chỉ các vị lục phẩm ngũ phẩm làm trong triều mới được Vua ban đất ở đây. Lúc này vẫn còn chưa đến giờ vào chầu, trong bầu không khí vẫn còn đương tĩnh lặng, từ căn nhà cuối phố, tiếng gõ cửa đột ngột vang lên khá dồn dập, chỉ thấy một bóng người đang đứng xoa hai tay vào nhau. Người làm trong nhà ra mở cửa, chưa nói được hai câu, người nọ đã nhanh chóng mất hút sau cánh cửa gỗ nước sơn hãy còn mới.
Tiếng đóng cửa kẽo kẹt vừa mới vang lên thì đã có một vị khách không mời khác tiến đến, lần này người làm không dám chậm trễ lập tức mời người đó vào. Thế nhưng thời gian còn chưa đủ để pha một ấm trà thì cả hai người khách và chủ nhà đều đồng loạt bước ra. Trời vẫn còn tờ mờ nhưng nếu để ý kỹ sẽ thấy rõ mặt mũi trang phục của cả ba. Người đi ngoài cùng là một nha dịch đang cẩn thận nghe dặn dò:
“Lý Thu, ngươi đi gọi người canh chừng cẩn thận, tuyệt đối không được để tin tức gì không hay lan truyền ra ngoài. Có người đến thì cứ theo tuần tự mà làm, tầm giờ Dần ta sẽ trở về.”
Người vừa mới cất tiếng là Đại Lý tự Tự thiếu khanh quyền Đông Các học sĩ tòng ngũ phẩm cửu tư Lê Quang Nguyên. Mắt thấy nha dịch vội vàng chạy đi, Quang Nguyên quay sang người còn lại, chính là hoạn quan họ Ngô thường hầu hạ trong nội điện của Vua.
“Chúng ta đi thôi, Thánh thượng vẫn còn đang đợi.”
Trong lòng Quang Nguyên ngổn ngang trăm mối, bên kia vừa báo tin có án mạng xảy ra ngay dưới chân thiên tử, bên này nhà Vua đã cho gọi, hai việc này có khi còn liên quan đến nhau.
Để tiện cho các quan vào chầu, phố Giai Tuân được xây khá gần với đường chính dẫn đến cửa Đại Hưng[4]. Vẫn chưa đến giờ mở cửa nên hai người bọn họ phải đi qua cửa ngách của Đoan Môn, dọc theo mé phải đi về phía nội điện. Dưới hiên có hai hàng hoạn quan và cung nữ đứng hầu sẵn, tất cả đều cúi đầu im lặng.
Hoạn quan họ Ngô mở cánh cửa, chỉ đứng bên ngoài đưa tay chỉ vào trong: “Mời quan lớn vào.”
Quang Nguyên cẩn thận lau khô giày, phủi đi giọt nước còn đọng trên quan phục đồng thời chỉnh lại cánh chuồn trên mũ. Xong xuôi tất thảy mới đẩy cánh cửa trong cùng bước vào cúi người làm lễ, Thư lại[5] của Điển khách thự[6] Lê Tòng đứng dậy từ ghế cũng quay người sang cúi chào Quang Nguyên. Ngồi trên ghế bên cạnh Lê Tòng là Hình bộ Thượng thư Trịnh Công Ngô, y nhìn Quang Nguyên gật đầu nhẹ một cái. Bầu không khí nghiêm trọng bao trùm lấy căn phòng kín tù mù ánh nến, Thánh Tông không biểu cảm gì chỉ là gương mặt thoáng nét sầu muộn.
Sau khi đợi Quang Nguyên được ban ngồi, Trịnh Công Ngô mới lên tiếng:
“Tôi đoán chắc là trước khi đến đây Thiếu khanh đã nghe nha dịch báo lại một vụ án mạng.”
“Đúng vậy, cũng chỉ vừa mới hay tin thì đã được vời vào cung. Tôi đã kịp cho người ngăn chặn những tin đồn thất thiệt lan truyền ra ngoài.”
Trịnh Công Ngô lắc nhẹ đầu: “Chậm mất rồi. Bây giờ trong ngoài kinh đều lao xao cả rồi.”
Quang Nguyên lướt tầm nhìn qua Thánh thượng ngự trên cao vẫn im lặng nãy giờ, cả căn phòng chỉ có Lê Tòng là bồn chồn nhất. Nhớ lại những lời gần đây đã vô tình nghe được ngoài phố, Quang Nguyên lên tiếng:
“Nếu Thượng thư đang nhắc đến những lời đại loại như án liên hoàn vậy thì khoan hẵng lo lắng, Đại lý tự vẫn đang xem xét lại tính đúng sai.”
Thánh Tông lúc này bỗng dưng lên tiếng, giọng Ngài dội lại từ những bức tường đá không nghe ra rõ bao nhiêu phần hoài nghi bao nhiêu phần tức giận:
“Kinh Bắc, Sơn Nam, mỗi nơi hai người, một nam một nữ, ra tay tàn nhẫn. Ở đây lại vừa mới có thêm một vụ y như vậy sao lại còn chưa chắc là do một người làm?”
Quang Nguyên đứng dậy chắp tay cúi người:
“Bẩm Thánh thượng, thần đã đọc qua các ghi chép của quan nơi đó gửi lên, qua điều tra thì vẫn chưa thấy điểm chung quen biết giữa các nạn nhân. Hơn nữa, một vụ là siết cổ, một vụ lại dùng dao thái rau, đều có vẻ là đột ngột phát sinh.”
Lê Tòng hỏi thêm: “Vậy Thiếu khanh giải thích thế nào về chữ viết trên tường và áo quần của đào nương?”
“Hiện này còn có quá nhiều điểm chưa đồng nhất, khẩn xin Thánh thượng cho thần thêm thời gian để tra án.”
Gió rít lên từng hồi ở bên ngoài song cửa sổ đóng kín. Ngoài là một vị Vua, Thánh Tông còn là một người cha tất nhiên không giấu nổi những lo lắng trong lòng.
“Các khanh đều biết thời gian này rất đặc biệt, nói trong Hoàng gia thì Trẫm và Thái hậu đều không muốn Công chúa gả đi mà mang nhiều điều tiếng, nói rộng ra thì chuyện này còn ảnh hưởng đến thái bình của dân chúng. Đại lý tự Tự thiếu khanh Lê Quang Nguyên, lệnh khanh trước trung tuần tháng Giêng phải điều tra cho ra hung thủ, một kẻ cũng được mà ba người khác nhau cũng vậy, phải bắt cho bằng hết. Hình bộ ở trên đốc thúc giám sát, nếu thấy thiếu người thì cử thêm qua. Ngăn chặn đồn đại còn không bằng diệt cỏ tận gốc.”
Trịnh Công Ngô và Lê Quang Nguyên đồng loạt quỳ xuống nhận lệnh.
Ngài ngự lại quay sang phía Lê Tòng: “Con cũng đừng lo lắng quá, việc gì nên làm thì cứ vẫn phải làm, đừng nên vì việc này mà trễ nải chuyện công cán.”
Lê Tòng cũng cúi người vâng dạ sau đó cùng Trịnh Công Ngô và Quang Nguyên rời đi.
Trưởng công chúa của Thánh Tông hiệu là Gia Thục húy là Toại, vì mất mẹ nên được Thái hậu nuôi dưỡng từ nhỏ, tháng Tám vừa rồi mới được ban hôn cho con trai trưởng của Thái bảo Kiến Dương hầu tên là Tòng. Lê Tòng tuy làm quan không cao nhưng là người đường hoàng lại được tính chăm chỉ, cả Thánh thượng và Thái hậu đều vừa lòng với mối hôn sự này. Tư thiên giám[7] tính toán xong ngày giờ tốt báo lại: “Tháng Ba trời ấm, muôn hoa đua nở, vừa hợp Thánh thượng bái miếu tổ[8] trở về, lúc này nâng kiệu hồng là vừa.”
Sân ngoài nội điện, Mặt Trời đã lên cao, nắng ấm nhẹ xua đi bớt cái giá lạnh của mùa đông, hai hàng nội thị và cung nữ vẫn đứng túc trực cạnh cửa. Bây giờ chắc đã gần qua giờ Sửu, chốc nữa sẽ phải lên chầu điện nên Trịnh Công Ngô chắp tay chào trở về trước, Quang Nguyên quay sang Lê Tòng đứng ngẩn người bên cạnh. Y năm nay chỉ mới mười lăm tuổi, vẫn còn quá trẻ để dễ dàng thích nghi với những chuyện đột ngột xảy ra, đặc biệt là khi lại liên quan đến đại sự chung thân với Hoàng gia.
Quang Nguyên đưa tay nhẹ vỗ vào một bên vai của Lê Tòng an ủi: “Công chúa phúc lớn, việc xấu ắt qua, cứ nghe theo lời dặn của Đức thánh thượng là được.”
“Mọi chuyện chỉ đành trông vào Thiếu khanh.”
Quang Nguyên gật đầu rồi bước xuống bậc thềm ra về, lúc đến cửa Đoan Môn không ngờ lại nhìn thấy Trịnh Công Ngô đứng dưới hành lang bên phải, dáng vẻ giống như đang chờ đợi. Y thấy Quang Nguyên bước đến thì sóng vai đi bên cạnh, cả hai người đi qua cả một đoạn dài vẫn không nói một lời nào, đến lúc nhìn thấy cổng Đại Hưng lấp ló từ phía đằng xa y mới lên tiếng:
“Mấy hôm trước, tôi có ghé ngang qua phủ của thầy…”, y thở dài thườn thượt, “Thầy yếu đến mức còn không ngồi dậy nổi vậy mà vẫn hỏi tôi Thiếu khanh dạo này thế nào. Trong đám học trò, thầy quý trọng nhất là cậu, thương mến nhất là cậu mà canh cánh khôn nguôi nhất cũng là cậu.”
Thấy Quang Nguyên nãy giờ không nói một câu, cứ đều đặn bước đi, Trịnh Công Ngô cũng không dài dòng nữa.
“Cũng chẳng còn lại được mấy. Tôi hy vọng sau này Thiếu khanh không hối tiếc điều gì.”
Nói rồi y đi thẳng bỏ lại Quang Nguyên đứng phía sau rốt cuộc cũng có nét chần chừ thoáng qua trên gương mặt vô cảm.
Tên nha dịch của Đại lý tự, tay giữ cương ngựa, cứ cách một chặp lại bồn chồn nhìn về phía cổng phụ của cửa Đại Hưng, đến lúc thấy Thiếu khanh bước ra thì liền kéo xe tới gần. Chỉ đợi Quang Nguyên yên vị bên trong xe liền hối hả quay đầu ngựa chạy về phía Đông thành, chẳng mấy chốc đã nghe tiếng huyên náo của bến Yên Hoa từ đằng xa vọng lại.
Xe ngựa dừng lại trên một con đường cái bình thường vẫn rất rộng nay lại chẳng đủ cho một chiếc xe ngựa lọt qua vì đám người đông như kiến đang tụ lại chắn ngay giữa lối đi. Hai người nha dịch khác đẩy đám đông dạt sang hai bên để đường cho Quang Nguyên đi vào, một trong hai tên là Lý Thu sớm nay đến nhà báo tin. Vừa bắt gặp hắn, Quang Nguyên đã kéo sang một bên hỏi chuyện.
“Không phải bảo ngươi canh chừng cẩn thận đừng để người ngoài biết, sao bây giờ lại lộn xộn thế này?”
Lý Thu vội thưa: “Bẩm quan lớn, đáng lý tôi đến nhà y quan Lý Nguyên để báo tin nhưng người nhà lại ra bảo ngài ấy ốm nặng không đi được. Tôi liền chạy một mạch sang nhà của y quan Lê Huy Triết, ai ngờ ngài ấy đi qua huyện khác thẩm tra đến lúc về thì trời đã sáng bảnh ra, có người qua đường nhìn thấy nên lan tin.”
Quang Nguyên nhìn hắn rồi thở hắt ra, cũng không thể nào hoàn toàn trách hắn được, Đại lý tự trước giờ vẫn luôn thiếu Hình y quan, người nào cũng sợ dị nghị nên không ai làm được dài lâu, quay đi ngoảnh lại cũng chỉ còn hai người Lý Nguyên và Huy Triết là trông cậy được.
“Đã tìm thấy người nhà chưa?”
“Bẩm quan, tìm thấy rồi ạ, là nhà họ Đoàn ở phố Hành, người mẹ nhìn thấy xác hai đứa con thì liền bất tỉnh mới được người nhà đưa về.”
“Lát nữa ngươi theo ta qua bên đó hỏi chuyện.”
Nói đoạn, Quang Nguyên quay lưng bước vào con hẻm nhỏ bên cạnh đường cái, là nơi tìm thấy hai cái xác kỳ lạ nhất mà y từng biết.
Con hẻm chật hẹp này vốn dĩ là khoảng cách giữa hai quán ăn lớn trùng hợp lại thông ra một con đường khác nên thường ngày cũng có người qua lại tuy nhiên không nhiều, hầu hết đều là những người đang vội cần đi đường tắt. Những người đàng hoàng không ai đi vào đây bởi vì hai bức tường cao hai bên đã che hết toàn bộ ánh nắng, ví như lúc này đã gần đến giờ Mão mà trong này vẫn tối om như hũ nút.
Lê Huy Triết lúc này đang quỳ xuống bên cạnh hai cái xác đã được đặt nằm xuống một tấm chiếu. Y cẩn thận khám xét từng thi thể một từ đầu đến chân, nha dịch phụ giúp đứng bên cạnh ghi lại những gì y nói.
“Đoàn Văn Anh, nam, tuổi Quý Dậu[9], dựa vào thân nhiệt thì có lẽ chết vào khoảng giờ Dậu ngày mùng Một tháng Mười Một năm Quý Tỵ Hồng Đức thứ tư. Phán đoán nguyên nhân chết là do bị siết cổ. Hai tai bị cắt đứt bằng dao nhọn một lưỡi, bị cắt sau khi chết.”
Huy Triết quay sang thi thể còn lại, tiếp tục khám xét.
“Đoàn Vân Anh, nữ, tuổi Đinh Sửu[10], là em gái cùng cha cùng mẹ với Đoàn Văn Anh. Thi thể lạnh hơn, có lẽ là bị giết trước vào khoảng giữa hoặc cuối giờ Thân cùng ngày. Cũng bị siết cổ với cùng một sợi dây. Miệng bị khâu lại bằng chỉ thô dùng khâu bao bố.”
Xong xuôi mới ra hiệu cho hai nha dịch bao bọc xác nạn nhân cẩn thận đưa về Hình y quán, Huy Triết đứng dậy quay lại thì bắt gặp Quang Nguyên đang xem xét xung quanh hiện trường. Y mới lên tiếng:
“Lúc tôi tới đây, cả hai người đều được đặt ngồi trên cái chiếu đằng kia, người nữ tay cầm phách mặc áo ca nương trang điểm rất kỹ, người nam tay cầm một thẻ trù trông rất kỳ lạ. Phải rồi, Thiếu khanh đã nhìn chữ trên tường chưa?”
Cả hai cùng đứng đối diện trước bức tường bên dưới có trải tấm chiếu còn mới lấm lem toàn máu đã khô đặc lại, trên tường ghi một chữ duy nhất – Pha.
“Triết nghĩ chữ Pha này có nghĩa là gì?”
Huy Triết ngẫm nghĩ một hồi rồi lắc đầu không đoán ra.
Quang Nguyên đưa tay chỉ vào đống đồ cũ thường được đặt dựa vào tường nay bị đá cho văng tứ phía: “Tôi nghĩ đây là do nạn nhân phản kháng lúc bị siết cổ gây ra, cho nên có thể đây là hiện trường đầu tiên. Hung thủ là nam hơn nữa còn rất khỏe, nếu không thì không thể chọn siết cổ Đoàn Văn Anh. Triết có ý kiến gì nữa không?”
Huy Triết gật đầu đồng ý với những phán đoán của Quang Nguyên, còn bổ sung thêm: “Hai người bị giết cách nhau chưa tới nửa canh giờ chứng tỏ hung thủ ra tay rất thành thạo. Hoặc là hắn đã lên kế hoạch ngay từ đầu, hoặc là đây không phải lần đầu tiên hắn giết người.”
“Hoặc là cả hai khả năng.”
Huy Triết thu dọn đồ nghiệm thi, chuẩn bị rời đi: “Tôi phải kiểm tra kỹ hơn rồi mới thông báo kết quả cho Thiếu khanh.”
Sau khi Huy Triết đi rồi, Quang Nguyên mới lệnh cho một ngục lại tên Lê Đán cẩn thận thu thập những vật khả nghi mang về Đại lý tự.
“Các ngươi mau đi giải tán đám người ngoài kia đi, nhớ thay phiên nhau canh giữ hiện trường không ai được phép lẻn vào cả. Lý Thu, ngươi theo ta đi đến nhà họ Đoàn.”
Vừa lúc chiếc xe ngựa chở theo Đại lý tự Thiếu khanh vừa rời đi, bên ngoài đám người ồn ào ngó nghiêng bàn tán, một bóng người nhỏ này giờ vẫn đứng im lặng quan sát cũng nhanh chóng quay người đi nhanh về phía hàng bánh nếp rán nổi tiếng nằm ở cuối bến Yên Hoa.
Người nọ bấy giờ mới lên tiếng giục đứa con gái hầu, giọng nói nghe ra chắc là một cô gái độ mới mười sáu mười bảy: “Thục Nhi, nhanh chân lên, không thì hết bánh mất!”
--------------------------------------------------------------------------------------------- [1] Năm Hồng Đức thứ tư: năm 1473[2] Bến Yên Hoa, nằm dọc theo sông Tô Lịch một phân lưu của sông Cái (sông Hồng), là nơi giao thương mua bán sầm uất có từ thời Lý.[3] Phường Đông Tác nằm trong huyện Vĩnh Xương thuộc phủ Phụng Thiên – Đông Kinh, nay là phường Phương Liên thuộc quận Đống Đa, các làng ở đây nhiều đời có người đỗ đạt khoa bảng.[4] Cửa Đại Hưng là cửa Nam của Hoàng thành.[5] Thư lại trật Bát phẩm hoặc Cửu phẩm dành cho Thư lại chưa nhập lưu chính thức[6] Điển khách thự là một trong hai quan nha của Hồng lô tự[7] Tư thiên giám là một cơ quan thuộc bộ Lễ chuyên lo việc đoán khí hậu, Mặt Trời, Mặt Trăng, các vì sao, tính toán lịch pháp, giữ sách thiên văn, tính nhật thực nguyệt thực, chọn ngày giờ tốt, suy lượng độ số của Trời mà tiên báo việc tai dị hay điềm lành, v.v.[8] Theo lệ, đầu năm vào khoảng tháng Hai hoặc Ba, Vua sẽ khởi hành một chuyến về Tây Kinh Lam Sơn để bái miếu tổ.[9] Quý Dậu: năm 1453[10] Đinh Sửu: năm 1457
@by txiuqw4