sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Đem Nỗi Cô Đơn Đặt Dưới Chân Bà Greff

Tôi không thích Greff. Greff cũng không thích tôi. Ngay cả về sau, khi Greff làm cho tôi cái máy đánh trống, tôi cũng không thích ông ta. Cả đến bây giờ, khi mà Oskar thực sự không còn đủ kiên cường để duy trì những mối ác cảm dai dẳng, tôi vẫn không ưa gì Greff mặc dù ông ta đã ra khỏi cõi sinh tồn.

Greff là người buôn bán rau quả. Nhưng xin đừng mắc lừa. Giả không tin gì ở khoai tây cũng như bắp cải, song lại rất thạo nghề trồng rau, thích tự coi mình là người làm vườn, bạn của thiên nhiên và ăn chay. Nhưng chính vì Greff không ăn thịt nên giả không phải là một lái buôn rau quả đích thực. Giả không thể nói về rau quả như là rau quả. "Xin quý khách hãy nhìn kỹ củ khoai tây khác thường này," tôi thường thấy giả nói với khách hàng. "Cái chất thịt thực vật phổng phao, ngồn ngộn này không ngừng tạo những hình thù mới, thế mà vẫn trong trắng. Tôi yêu thích khoai tây vì nó nói với tôi." Hiển nhiên là chăng có tay lái buôn rau quả chân chính nào lại nói năng như thế làm khách hàng đâm bối rối. Ngay cả trong những năm được mùa khoai tây nhất, bà ngoại Anna Koljaiczek của tôi, người đã bạc đầu trên những cánh đồng khoai tây, cũng không bao giờ nói gì vượt quá một câu như thế này: "Chà, củ năm nay to hơn năm ngoái một tí." Vậy mà bà và ông anh trai Vincent Bronski thì trông chờ vào những vụ mùa khoai tây hơn Greff nhiều vì trong lĩnh vực kinh doanh của giả, một năm được mùa mận có thể bù lại một năm mất mùa khoai tây.

Ở Greff, mọi thứ đều thái quá. Thử hỏi giả có nhất thiết phải mặc một chiếc tạp-dề xanh trong cửa hiệu không? Con người ngạo mạn! Cái nụ cười sành sỏi khi giả giảng cho khách hàng bằng một giọng triết lý rằng miếng vải màu xanh rau dền giả mang chính là "cái tạp-dề xanh của người làm vườn của Thượng Đế". Tệ hơn cả là giả không sao bỏ được cái cung cách xì-cút. Năm 1938, giả đã buộc phải giải tán đội hướng dạo sinh của mình - người ta bắt bọn trẻ mặc sơ-mi nâu hoặc đồng phục đen mùa đông - nhưng đám cựu hướng đạo sinh, dù vận đồng phục mới hay đồ dân sự, vẫn đều đặn đến thăm huynh trưởng cũ của chúng để cùng hát những bài ca buổi sáng, những bài ca buổi tối, những hành khúc, những bài hát nhà binh, những ca khúc ngày mùa, những bài ca ngợi Đức Mẹ Đồng Trinh, những khúc dân ca trong nước và ngoài nước. Vì Greff đã kịp thời gia nhập Đoàn Cơ Giới Quốc Xã trước khi quá muộn và từ năm 1941 trở đi, không chỉ là chủ hiệu rau quả mà còn tự xưng là kiểm soát viên phòng không; hơn nữa, vì giả được sự ủng hộ của hai cựu hướng đạo sinh thời gian qua đã thăng tiến trong hàng ngũ Đoàn Thanh Niên Hitler - một gã là tiểu đội trưởng, gã kia là trung đội trưởng -, nên những cuộc hội hát dưới hầm chứa khoai tây của Greff dược Đảng bộ quận bỏ qua, nếu không phải là chính thức cho phép. Thậm chí Löbsack, trưởng ban huấn luyện của quận, còn đề nghị Greff tổ chức những cuộc liên hoan ca hát trong những lớp huấn luyện ở Lâu đài Jenkau. Đầu năm 1940, Greff và một giáo viên được quận Danzig-Tây Phổ giao nhiệm vụ biên soạn một tập ca khúc cho thanh niên dưới tiêu đề "Hát với chúng ta". Cuốn sách rất thành công, ông chủ hiệu rau quả nhận được một bức thư từ Berlin do thủ lĩnh Thanh Niên Đế Chế Đức ký và được mời dự một cuộc hội nghị quản ca ở Berlin.

Greff rành là người có năng lực. Giả thuộc tất cả lời của tất cả các bài hát, giả có thể dựng lều, nhóm và tắt lửa trại mà không gây cháy rừng và tìm thấy đường di trong rừng bằng một cái la bàn, giả thuộc tên cái của mọi vì sao nhìn thấy dược và có thể thao thao bất tuyệt tuôn ra các truyện vui tếu cũng như ly kỳ hồi hộp; giả biết vô số huyền thoại của vùng đất Vistula và đã nhiều lần thuyết trình về đề tài "Danzig và Liên đoàn Hanse". Giả có thể liệt kê tất cả các đại sư của dòng Hiệp sĩ Tơtông cùng những niên đại tương ứng và thậm chí như vậy cũng chưa đã; giả còn có thể nói hàng giờ liền về doàn truyền giáo Hhật Hhĩ Man trong những lãnh thổ của Dòng, và họa hoằn lắm mới thấy lộ ra những cụm từ sặc mùi xì-cút trong những bài thuyết trình của giả.

Greff thích đám trẻ. Giả thích con trai hơn con gái. Nói cho đúng, giả chẳng thích con gái, mà chỉ khoái con trai. Nhiều khi giả thích con trai tới mức mà ngay cả tiếng hát cũng không đủ để biểu đạt. Cũng có thể chính bà Greff, một phụ nữ nhếch nhác, đồ lót thủng lỗ chỗ, xú-chiêng nhờn mỡ, đã khiến đức ông chồng phải đi tìm một khía cạnh tinh khiết hơn của tình yêu ở nơi những cậu con trai mảnh dẻ, tươm tất. Nhưng mặt khác, có lẽ cái cây mà mỗi mùa trong năm, những đồ lót nhớp bẩn của bà Greff vẫn nở trên cành của nó, có một nhánh rễ khác. Nghĩa là có lẽ bà Greff trở thành một phụ nữ nhếch nhác là vì ông chủ hiệu rau quả và kiểm soát viên phòng không thiếu nhãn quan cần thiết để đánh giá cái nét phốp pháp cẩu thả và có phần ngẩn ngơ của bà.

Greff thích những gì rắn, căng, cuồn cuộn cơ bắp. Khi giả nói "tự nhiên", đó có nghĩa là "khổ hạnh". Khi giả nói "khổ hạnh", đó có nghĩa là một kiểu thể dục đặc biệt. Greff rất có ý thức về thân thể của mình. Giả chăm sóc nó chi li từng tí một, không những phơi nhiệt mà còn phơi lạnh với một tinh thần hết sức sáng tạo. Trong khi Oskar dùng tiếng hát tầm xa hay tầm gần đập vỡ thuỷ tinh, đôi khi làm tan chảy những đoá hoa băng giá trên cửa kính và làm những cục băng nhũ rơi lanh canh xuống đất, thì Greff-Rau-Quả là người đánh áp sát băng giá với khí cụ trong tay.

Greff đục lỗ vào băng. Trong ba tháng chạp, giêng và hai, giả dùng rìu đục lỗ vào băng. Khá lâu trước khi rạng sáng, giả đã vác chiếc xe đạp từ dưới hầm nhà lên và bọc chiếc rìu phá băng vào trong một cái bao tải đựng hành. Rồi giả đạp xe qua Saspe đến Brösen, từ đấy giả theo con dường đi dạo dọc biển phủ đầy tuyết về phía Glettkau. Đến quãng giữa Brösen và Glettkau, giả xuống xe. Trong khi trời dần dần sáng, giả đẩy chiếc xe đạp trên bãi tắm băng giá rồi quá nữa, thêm hai-ba trăm mét trên mặt biển Baltic đóng băng, cảnh vật chìm trong sương mù ven biển. Từ bãi tắm, không ai có thể trông thấy Greff đặt cái xe đạp nằm xuống, tháo rìu ra khỏi bao tải, và đứng im lặng thành kính một lúc, lắng nghe những hồi còi báo sương mù của những con tàu chở hàng bị kẹt băng trong vụng. Rồi giả cởi áo va rơi, tập vài bài thể dục và, cuối cùng, bằng những nhát rìu mạnh mẽ, đều đặn, bắt đầu khoét một lỗ tròn trên biển Baltic.

Greff mất khoảng bốn mươi lăm phút để hoàn thành cái lỗ. Xin đừng hỏi làm sao mà tôi biết được. Oskar biết hầu hết mọi chuyện hồi đó. Kể cả việc Greff mất bao nhiêu thời gian để đục một cái lỗ vào lớp băng. Những giọt mồ hôi muối đọng trên vầng trán dô, cao của giả và rơi xuống tuyết. Giả quai rìu thành thạo, bổ sâu thành một đường tròn. Rồi khi vòng tròn khép kín lại, giả dùng đôi tay không đi găng nhấc một cái đĩa dày bằng cả gang tay lên khỏi lớp băng mênh mông, dễ thường trải dài đến Hela, nếu không muốn nói là đến tận Thụy Điển. Nước trong lỗ này già và xám, loáng thoáng những mảnh băng, bốc hơi chút đỉnh tuy không phải là suối nước nóng. Cái lỗ thu hút cá. Có nghĩa người ta nói là những lỗ đục xuyên qua băng thường thu hút cá. Kể ra Greff đã có điều kiện bắt được nhiều cá mút đá hoặc một con cá tuyết ngót mười kí. Nhưng giả không câu. Giả bắt đầu cởi đồ và lát sau đã trần như nhộng vì một khi Greff đã cởi quần áo là cởi tuốt tuồn tuột. Oskar không muốn gợi cảnh đông hàn đe làm quý vị rùng mình lạnh sống lưng. Chỉ xin nói vắn tắt: trong những tháng mùa đông, Greff-Rau-Quả tắm mỗi tuần hai lần ở biển Baltic. Ngày thứ tư, giả tắm một mình vào lúc rạng đông - ra khỏi nhà lúc sáu giờ, sáu rưỡi đến, khoét lỗ xong là bảy giờ mười lăm. Tiếp đó, giả cởi bỏ quần áo bằng những động tác nhanh thoăn thoắt, xát tuyết khắp người, nhảy tùm xuống lỗ và bắt đầu la. Hoặc đôi khi tôi nghe thấy giả hát: "Ngỗng trời bay xuyên qua màn đêm” hay "Ta yêu bão dông..." Giả hát, la và tắm độ hai phút hay cùng lắm là ba. Rồi bằng một cú nhảy gọn ghẽ, giả đã đứng trên mặt băng, rõ nét một cách dễ sợ: một khối thịt đỏ như tôm luộc bốc hơi ngùn ngụt, chạy quanh cái lỗ, hừng hực, vẫn la hét. Cuối cùng, giả mặc đồ trở lại và lên xe đạp ra về. Trước tám giờ một chút, giả đã về tới Labesweg và mở cửa- hàng không sai một phút.

Buổi tắm lần hai hằng tuần của Greff được tiến hành tập thể, cùng với đám thiếu niên hoặc thanh niên choai choai. Điều này, Oskar không được mắt thấy, cũng không hề có ý mạo nhận là mình đã mục kích. Nhưng chuyện đã lan truyền khắp. Meyn-t’rompét biết nhiều chuyện về tay chủ hiệu rau quả và đã đem loa lên um xùm khắp trong khu phố. Một trong những chuyện anh loa lên um xùm là trong những tháng đông khắc nghiệt nhất, chủ nhật nào Greff cũng tắm cùng mấy chú choai choai. Tuy nhiên, ngay cả Meyn cũng không bao giờ nói rằng Greff đã bắt bọn chip ấy trần truồng nhẩy xuống cái lỗ khoét giữa lớp băng như chính giả. Dường như đối với giả, được thấy chúng, gần như trần truồng hoặc nửa mình trần, mềm mại và dẻo dai chạy nhảy trên băng và lấy tuyết kỳ cọ cho nhau, là đã thoả mãn rồi. Cái cảnh đám choai choai trong tuyết quyến rũ Greff đến nỗi trước hoặc sau khi tắm, giả thường nhảy tung tăng với chúng, giúp chúng cọ tuyết cho nhau hoặc để 'cho cả lũ xúm vào cọ tuyết cho giả. Meyn-t’rompét cả quyết rằng có lần di dạo dọc biển từ phía Glettkau, mặc dầu trời mù sương, anh đã thấy Greff trần truồng dễ sợ, vừa hát vừa la, bế bổng hai tên đệ tử trần truồng và cứ thế, trần truồng bồng bế trần truồng, như một chiếc xe trượt ba ngựa t’roika, vừa gào rú vừa lao như điên trên mặt băng rắn chắc của biển Baltic.

Mặc dầu ở Brösen và Neufahrwasser có nhiều dân chài mang họ Greff, ta vẫn dễ dàng đoán ra rằng Greff không phải con trai một người đánh cá. Nguyên quán Greff-Rau-Quả ở Tiegenhof, nhưng, giả gặp Lina Bartsch ở Praust. Tại đây, giả đã giúp một cha xứ trẻ năng nổ điều hành một câu lạc bộ học việc và Lina, cũng để giúp vị cha xứ này, thứ bảy nào cũng đến nhà giáo xứ. Bằng vào một tấm ảnh chụp chớp nhoáng mà chắc bà đã cho tôi (vì nó còn ở trong cuốn album của tôi), thì Lina, ở tuổi hai mươi, là một cô gái khoẻ mạnh, tròn trĩnh, có vẻ nhẹ dạ và hơi đần. Cha Lina khai thác một vườn rau quả lớn ở Sankt Albrecht. Theo lời bà kể lại sau này vào bất kỳ lúc nào thuận miệng, khi bà lấy Greff ở tuổi hai mươi ba theo lời khuyên của cha xứ, bà hoàn toàn ngờ nghệch, chưa từng trải. Bằng tiền của cha bà, hai vợ chồng mở một cửa hàng rau quả ở Langfuhr. Vì phần lớn rau và hầu hết trái cây đều do ông già cung cấp với giá rẻ, công việc kinh doanh của họ hồ như cứ thế tự động vận hành và Greff không gây tổn hại gì lớn.

Nếu Greff không có cái sở thích trẻ con là hí hoáy chế tác vặt, thì hắn giả đã có thể biến cái cửa hàng rất đắc địa ở một khu ngoại ô đông trẻ con, hoàn toàn không bị cạnh tranh này, thành một mỏ vàng. Nhưng khi viên thanh tra Phòng Đo Lường xuất hiện lần thứ ba hay thứ tư gì đó để kiểm tra việc bán hàng và tịch thu những quả cân, quyết định một loạt khoản phạt, một số khách quen bèn bỏ cửa hàng của Greff mà ra mua rau ngoài chợ. Rau của Greff thuộc loại hảo hạng, họ nói, và giá cũng không quá cao, nhưng một khi thanh tra cứ đến hoài như vậy, chắc phải có điều gì khuất tất.

Tuy nhiên, tôi dám chắc Greff không hề có ý định lừa lọc ai. Chuyện đã xảy ra là thế này. sau khi Greff ‘cải tiến’ vài chi tiết ở bàn cân to cân khoai tây, kết quả giả lại đâm thiệt. Do đó, ngay trước khi chiến tranh bùng nổ, giả gá vào chính cái bàn cân ấy một bộ chuông hoà âm cứ sau mỗi mẻ cân, lại tấu lên một nét giai điệu coi như phân thưởng cho khách mua hàng và giai điệu này thay đổi tuỳ theo trọng lượng cân được. Phần thưởng cho hai mươi ‘pao’ là điệu Bờ sông Saale tươi nắng, cho năm mươi ‘pao’ là Hãy mãi mãi thật thà và chính trực; một mẻ nửa tạ khoai tây mùa đông khiến bộ chuông ngân lên những nốt say đắm một cách hồn nhiên của bài Nàng Annchen von Tharau.

Tôi dễ dàng thấy là Phòng Đo Lường không ưa gì những trò ngông âm nhạc ấy, tuy nhiên cái ngón tiêu khiển này của ông chủ hiệu rau quả lại hợp ‘gu’ tôi. Ngay cả Lina Greff cũng rộng lượng đối với những trái thói của chồng bởi lẽ, phải, bởi lẽ cốt lõi và nội dung cuộc hợp hôn Greff là chịu đựng những nhược điểm của nhau. Xét từ góc độ ấy, cặp vợ chồng Greff có thể gọi là tốt đôi. Greff không đánh vợ, không bao giờ phụ bạc vợ vì những người đàn bà khác, không rượu chè cũng chẳng chơi bời trác táng; giả là một người đàn ông vui tính, ăn mặc chải chuốt và, do tính cách thích giao tiếp và hay giúp đỡ, được nhiều người cảm mến, không riêng gì bọn thanh thiếu niên choai choai mà cả những khách hàng đến mua khoai tây kèm theo nhạc.Cũng như vậy, bằng con mắt độ lượng, Greff bình thản nhìn cô ả Lina của minh, năm này sang năm khác, trở thành một mụ nhếch nhác càng ngày càng hôi hám. Tôi thường thấy giả mỉm cười khi nghe những người bạn đồng cảm nói toẹt ra rằng vợ giả là một mụ nhếch nhác. Đôi khi, tôi nghe thấy Greff đáp lại Matzerath khi ông chê vợ giả: "Cố nhiên, anh nói hoàn toàn đúng, Alfred. Lina nhà tôi quả có phần buông thả. Nhưng tất cả chúng ta ai chả có khuyết tật." Giả xoa vào nhau hai bàn tay thường xuyên vần vò khoai tây nhưng vẫn rất trau chuốt. Nếu Matzerath còn vặn vẹo thêm, Greff liền chấm dứt cuộc tranh cãi bằng một giọng thân ái nhưng kiên quyết: "Anh có thể đúng ở một số điểm, nhưng Lina cơ bản rất tốt bụng. Tôi hiểu Lina của tôi."Có thể là giả hiểu thật. Nhưng Lina thì hầu như không hiểu gì về giả. Cũng giống như những người hàng xóm và khách hàng, bà chẳng nhìn thấy ở quan hệ của Greff với đám thiếu niên thường xuyên đến thăm bất cứ điều gì khác ngoài sự nhiệt thành của lớp trẻ đối với một người bạn và thày dậy tuy không chuyên nghệp nhưng hết lòng hết sức vì tuổi trẻ.

Riêng phần tôi, Greff chẳng thể dậy gì cho tôi, cũng không cách gì khơi được lửa nhiệt tình trong tôi. Thực ra, Oskar không thuộc ‘týp’ của giả. Giá như trước đây tôi đã quyết định lớn thì có thể tôi đã trở nên hợp cạ với giả đấy bởi vì thằng con trai Kurt mảnh dẻ và dong dỏng của tôi, nay đã mười ba tuổi, đúng là hiện thân cho ‘týp’ của Greff, mặc dầu nó giống Maria là chính, chỉ hơi nhang nhác tôi và chả giống Matzerath tí nào.

Greff là một người làm chứng trong lễ thành hôn của Maria Truczinski và Alfred Matzerath, người kia là Fritz Truczinski về phép vào dịp.ấy. Vì Maria, cũng như chú rể, theo đạo Tin Lành nên họ chỉ đăng ký ở phòng hộ tịch toà thị chính thôi. Đó là vào giữa tháng chạp. Matzerath mặc đồng phục Đảng nói "Tôi đồng ý". Maria đã có mang ba tháng.

Bụng người tôi yêu càng tròn căng, mối hờn ghét của Oskar càng lớn. Tôi chẳng phản đối gì việc nàng có chửa. Nhưng việc cái thai do tôi gieo mầm mai đây sẽ phải mang họ Matzerath, tước đi hết của tôi niềm vui chờ đợi đứa con trai thừa tự. Khi Maria sang tháng thứ năm, tôi thực hiện cú đầu tiên trong mưu toan làm nàng xảy thai. Đó là vào dịp Hội hoá trang. Maria đang buộc những dải hoa giấy và một số mặt nạ hề có mũi bằng khoai tây vào thanh đồng phía trên quầy, nơi treo xúc xích và thịt xông khói. Mọi khi chiếc thang được bắc vững chắc vào những giá gỗ, lúc này lại chỉ dựa hờ vào quầy. Maria ở tít trên, tay đầy những dải hoa giấy. Oskar ở dưới chân thang. Dùng đôi dùi trống làm đòn bẩy, với sự hỗ trợ của đôi vai và lòng quyết tâm không lay chuyển, tôi nhấc chân thang lên rồi đẩy sang một bên. Bùng nhùng giữa mớ hoa giấy và mặt nạ, Maria khẽ kêu lên một tiếng khiếp hãi. Cái thang chao di, Oskar nhảy sang một bên và Maria ngã nhào xuống cạnh nó, kéo thểo cả giấy màu, mặt nạ lẫn xúc xích.

Nom thì dễ sợ nhưng hậu quả thực tế không đến nỗi tệ hại. Nàng chỉ bị sai mắt cá chân, phải nằm và giữ gìn cẩn thận, nhưng không có tổn thương nghiêm trọng nào khác. Nàng ngày càng sồ sề và thậm chí không hề nói cho Matzerath biết ai đã làm nàng sai mắt cá chân.

Mãi đến tháng năm năm sau, khoảng ba tuần trước hạn kỳ sinh nở, tôi mới làm cú thứ hai; lần này thì nàng có hơi hé ra với đức ông chồng Matzerath. Ngồi ngay trước mặt tôi trong một bữa ăn, nàng nói: “Oskar dạo này thô bạo ghê gớm. Đôi khi cậu ta đánh vào bụng tôi. Hay là ta để cậu ta ở với mẹ tôi một thời gian cho đến khi đứa bé ra đời. Chỗ bà còn rộng chán."

Matzerath nghe vậy thì biết vậy. Thực tế, một cơn khùng đầy sát khí đã gây ra một cuộc đụng độ khác hắn giữa Maria và tôi.

Nàng nằm dài trên đi-văng sau bữa ăn trưa. Matzerath đã rửa xong bát đĩa và đang ở ngoài cửa hàng bày biện tủ kính. Phòng khách tĩnh'lặng. Họa chăng chỉ có tiếng một con ruồi vo ve, tiếng đồng hồ tích tắc như thường lệ, tiếng đài vặn nhỏ loan tin chiến thắng của lính dù ở Crete. Tôi chỉ giỏng một tai lên khi họ truyền lời phát biểu của võ sĩ lừng danh Max Schmeling. Theo như tôi hiểu láng máng, thì nhà vô địch thế giới đã bị trẹo chân khi đáp xuống mặt đất đầy đá rắn cấc của đảo Crete và giờ đây phải nằm dài tự điều trị, giống như Maria phải nằm dài sau cú ngã từ trên thang vậy. Schmeling nói với giọng khiêm tốn bình thản; tiếp đó là những lính dù kém nổi tiếng hơn và Oskar thôi không nghe nữa; tịch lặng, họa chăng chỉ một tiếng ruồi vo ve, tiếng tích tắc đồng hồ như thường lệ, tiếng đài vặn nho nhỏ.

Tôi ngồi trên chiếc ghế băng nhỏ bên cạnh cửa sổ quan sát cái bụng của Maria trên đi-văng. Nàng thở nặng nhọc, mắt nhắm nghiền. Thi thoảng tôi gõ trống một cách bực dọc. Nàng không hề động đậy, tuy nhiên tôi vẫn buộc phải thở hít cùng một làn không khí với cái bụng của nàng. Cái đồng hỗ vẫn đó và con ruồi vo ve giữa ô kính cửa sổ và rèm trên nền của.tiếng đài phát thanh vẫn nói về cái đảo đá Crete. Nhưng tất cả những cái đó nhanh chóng bị chỉm lấp: tôi chỉ còn nhìn thấy cái bụng ấy. Tôi không còn biết cái bụng căng phồng ấy đang ở trong phòng nào, cũng như nó thuộc về ai, hay ai đã làm cho nó to thế. Tôi chỉ còn biết là tôi không thể chịu nổi nó: phải trừ bỏ nó đi, đó là một sai lầm, nó chắn tầm nhìn của mày, mày phải đứng dậy làm một cái gì đó! Thế là tôi đứng dậy. Mày phải tìm hiểu xem có thể làm gì được. Thế là tôi tiến lại gần cái bụng và tiện tay vớ lấy một cái gì đó. Đây là một khối sưng phồng ác tính cần phải làm cho xẹp đi. Tôi giơ cao cái vật tôi vừa vớ được và nhằm tìm một chỗ giữa hai bàn tay Marla đang nằm thở cùng một nhịp với bụng nàng. Đã đến lúc rồi đấy, Oskar, hành động đl kẻo Maria mở mắt ra bây giờ!

Lúc này, tôi đã cảm thấy bị theo dõi, nhưng tôi vẫn đứng ngây nhìn trân trân vào bàn tay trái hơi rung lên của Maria, tuy tôi có thấy tay phải nàng chuyển động, phải, tôi có thấy nàng định làm gì đó bằng bàn tay phải; cho nên tôi không quá ngạc nhiên khi bàn tay phải ấy giật lấy cái kéo khỏi tay Oskar. Có thể tôi đã đứng đó thêm mấy giây nữa, tay vẫn giơ lên nhưng không cầm gì cả, tai bất giác lại nghe thấy tiếng tích tắc đồng hồ, tiếng con ruồi vo ve, tiếng người phát thanh viên báo là bản tin về đảo Crete đã kết thúc. Tôi quay đằng sau và trước khi chương trình tiếp thèo - nhạc nhẹ từ hai đến ba giờ - bắt đầu, tôi đã rời khỏi cái phòng khách trở nên quá chật đối với tôi vì cái bụng choán hết không gian kia.

Hai hôm sau, Maria mua cho tôi một cái trống mới và đưa tôi lên căn hộ tầng ba sực mùi cà-phê thế phẩm và khoai tây rán của Mamăng Truczinski. Mới đầu tôi ngủ ở xôfa, không chịu nằm trên cái giường cũ của Herberrt vì sợ cái mùi va-ni còn vương lại đâu đó. Một tuần sau, già Heilandt mang cái giường ti hon bằng gỗ của tôi lên. Tôi đành để cho họ kê nó bên cạnh cái giường đã từng chứa chấp tôi, Maria và cái món bột sủi của hai chúng tôi.

Ở nhà Mamăng Truczinski, Oskar trở nên bình tĩnh hơn hay dửng dưng hơn, do khỏi phải nhìn thấy cái bụng kia vì Maria sợ phải leo cầu thang. Tôi tránh tất cả: căn hộ của chúng tôi, cửa hàng, đường phố, thậm chí cả sân chung cư, ở đó người ta lại bắt đầu nuôi thỏ vì thức ăn ngày càng trở nên khan hiếm.Phần lớn thời gian, Oskar ngồi ngắm những tấm bưu ảnh do trung sĩ Fritz Truczinski gửi hoặc trực tiếp mang về từ Paris. Tôi hình dung thành phố Paris theo cách của mình và khi Mamăng Truczinski đưa cho một tấm bưu ảnh có hình Tháp Eiffel, tôi bèn lấy đó làm chủ đề và bắt đầu thể hiện Paris trên trống, dạo một khúc muyzet[1] mặc dầu tôi chưa bao giờ được nghe một bản nhạc nào theo thể loại này.

Ngày 12 tháng sáu - sớm hai tuần so với tính toán của tôi - Kurt con trai tôi ra đời, cầm tinh Song Nam chứ không phải Bắc Giải như tôi dự đoán. Cha sinh vào một năm sao Mộc, con sinh vào một năm sao Kim. Cha thuộc cung xử Nữ, sao Thủy chiếu mệnh, tính hoài nghi và mưu trí, con cũng sao Thủy chiếu mệnh: nhưng lại cầm tinh Song Nam, do vậy được phú cho một trí thông minh lạnh lùng, đầy tham vọng. Những gì ở tôi được sao Kim cung Thiên Xứng trong phổ hoàng đạo đầu đời nơi chân trời đằng đông làm giảm nhẹ đi, thì ở con trai tôi lại đậm nét hơn bởi cung Dương Cưu trong cùng một phổ hoàng đạo; tôi sẽ gặp rắc rối với sao Hỏa của nó.

Phấn khích và lăng xăng như một con chuột nhắt, Mamăng Truczinski báo tin: "Này Oskar, con cò vừa mang đến cho cháu một đứa em trai đấy. Thế mà bác đã bắt đầu lo rằng ngộ nhỡ là một Thị Mẹt thì sau này lại sinh chuyện." Tôi hầu như không ngắt quãng khúc độc tấu trống của mình về Tháp Eiffel và Khải Hoàn Môn, chủ đề mới vừa chợt đến trong đầu. Cả ở cương vị mới là bà ngoại, Mamăng Truczinski dường như cũng không chờ đợi tôi ngỏ lời chúc mừng. Mặc dầu hôm đó không phải là chủ nhật, bà vẫn quyết định tô tí phấn hồng theo lối cổ truyền bằng cách lấy giấy gói rau diếp quăn thoa lên má và sau khi trang điểm như thế, xuống dưới nhà để giúp ông bố hờ Matzerath một tay.

Như tôi đã nói, đó là vào tháng sáu. Một tháng xảo trá. Chiến thắng trên khắp các mặt trận - nếu ta muốn gán cái tên kêu như vậy cho những thắng lợi ở vùng Balkan - nhưng người ta đang chờ những chiến thắng lớn hơn trên mặt trận phía đông. Một đạo quân lớn đang di chuyển theo hướng đó. Các tuyến đường sắt đang rất bận rộn. Fritz Truczinski, từ trước đến nay vẫn vui chơi thoải mái ở Paris, cũng buộc phải lao vào một cuộc Đông tiến có thể sẽ rất dài và không thể tưởng lầm là một chuyến đi phép được. Trong khi đó, Oskar bình thản ngồi ngắm những bưu ảnh bóng loáng, đắm mình trong tiết xuân êm dịu của Paris và khẽ dạo bài Ba chú bé đánh trống; chẳng hề có quan hệ gì với quân đội chiếm đóng, nó không có lý do gì để sợ du kích ném nó qua thành cầu sông Seine. Không, tôi mặc đồ dân thường mà leo lên Tháp Eiffel cùng với cái trống của tôi, thoải mải thưởng ngoạn toàn cảnh thành phố; tôi cảm thấy rất khoan khoái và mặc dầu ở độ cao đầy cám dỗ như vậy, không hề bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ tự sát vừa ngọt ngào vừa cay đắng, đến nỗi mãi tới khi xuống đứng ở chân tháp với tầm vóc chưa đầy một mét của mình, tôi mới nhớ ra rằng con trai tôi đã ra đời.Thế đấy, tôi nghĩ thầm, một đứa con trai. Khi nào lên ba, nó sẽ được một cái trống thiếc. Để xem ỏ đây ai là cha, cái ông Matzerath kia hay là tôi, Oskar Bronski.

Trong cái nóng tháng tám - đâu như người ta vừa loan tin cuộc bao vây Smolensk đã kết thúc thắng lợi - lễ rửa tội cho con trai Kurt của tôi được tiến hành. Nhưng bà ngoại Anna Koljaiczek của tôi và ông anh Vincent Bronski của bà đã được mời tới dự như thế nào nhỉ? Dĩ nhiên nếu quý vị chấp nhận như tôi rằng Jan Bronski là cha tôi và ông lão Vincent Bronski lầm lì và ngày càng trái tính là ông nội tôi thì việc mời họ là có lý. Vì nói cho cùng, ông bà tôi là cụ cố của Kurt con trai tôi.

Nhưng đương nhiên là Matzerath, người đứng ra mời, không hề nghĩ đến cách biện luận như vậy. Ngay cả trong những khoảnh khắc hồ nghi bản thân nhất như sau một chầu xi-cạt thua liểng xiểng, ông vẫn tự coi mình hai lần là người cha, người sinh thành và nuôi nấng. Còn có những lý do khác khiến Oskar có dịp được gặp bà ngoại và ông nội mình: hai cụ đã thành dân Đức, không còn là người Ba Lan nữa và chỉ còn nói tiếng Kashubes trong mơ mà thôi. Người ta gọi họ là công dân Đức, nhóm 3. Hơn nữa, Hedwig Bronski, vợ goá của Jan, đã tái giá với một người Đức gốc Baltic là thủ lĩnh địa phương của nông dân Ramkau. Họ đã làm đơn xin cho Marga và Stephan Bronski được mang họ của bố dượng. Stephan, hiện mười bảy tuổi, đã tình nguyện nhập ngũ, đang được đào tạo tại Trại Huấn luyện Bộ binh ở Gross- Boschpol và có triển vọng được thăm nhiều chiến trường của châu Âu trong khi Oskar, cũng sắp đến tuổi nghĩa vụ quân sự, đành phải ôm trống chờ đến khi nào hé mở cơ may cho một chú bé đánh trống lên ba có thể được nhận vào bộ binh hay hải quân, hoặc thậm chí không quân.

Chính thủ lĩnh nông dân địa phương Ehlers đã chủ động đi bước trước. Hai tuần trước lễ rửa tội, ông ta đã lái một chiếc xe hai ngựa cùng Hedwig đến phố Labesweg. Ông ta chân vòng kiềng, đau dạ dày và không thể chịu nổi bất cứ ai nhắc đến mình cùng lúc với Jan Bronski. Thấp hơn Jan cả một cái đầu, ông ta ngồi cạnh Hedwig-mắt-bò-cái ở bàn phòng khách nhà chúng tôi. Cung cách của ông ta khiến cho ngay cả đến Matzerath cũng phải ngạc nhiên. Cuộc trò chuyện không cách nào bắt đầu được. Họ nói về thời tiết, nhận xét rằng ở phương Đông đang xảy ra đủ mọi thứ chuyện, rằng quân ta đang đánh rất cừ - cừ hơn thời kỳ 1915 nhiều, theo như Matzerath, người đã từng tham chiến hồi đó, nhớ lại. Tất cả đều cố hết sức tránh nhắc đến Jan Bronski cho đến khi tôi giở quẻ phá thối cái trò rởm của họ bằng cách dẩu mỏ theo kiểu con nít ngộ nghĩnh mà lớn tiếng hỏi đi hỏi lại thế còn bác Jan của Oskar thì sao. Matzerath phải gồng mình lên nói đôi điều suy tư thương mến về người bạn cũ đồng thời là tình địch của mình. Ehlers nồng nhiệt phụ họa mặc dầu ông ta chưa bao giờ thấy người tiền nhiệm của mình. Hedwig thậm chí còn chắt ra được mấy giọt nước mắt chính hiệu từ từ lăn trên má và cuối cùng tìm được lời để khép lại đề tài Jan: "Anh ấy là một con người tốt, không làm đau đến cả một con ruồi. Ai ngờ một người sợ đến cả cái bóng của mình như anh ấy lại phải chịu một kết cục như vậy."

Sau những lời đó, Matzerath bảo Maria đang đứng đằng sau ông mang ra mấy chai bia và hỏi Ehlers có chơi xì-cạt không. Không, Ehlers lấy làm tiếc là mình không biết chơi, nhưng Matzerath hào hiệp bỏ qua cho tay thủ lĩnh nông dân cái thiếu sót nhỏ ấy. Thậm chí ông còn vỗ vai ông này và, sau khi bia đã rót đầy cốc, cam đoan rằng họ vẫn có thể là bạn tốt mặc dù Ehlers không biết chơi xì-cạt, cái đó chả thành vấn đề.

Thế là Hedwig Bronski, với tư cách là Hedwig Ehlers, tìm lại được đường trở về với chúng tôi và đưa đến dự lễ rửa tội của Kurt con trai tôi không chỉ vị thủ lĩnh nông dân địa phương của mình, mà cả ông bố chồng cũ và em gái Anna của ông nữa. Matzerath ồn ã và vồn vã chào đón hai ông bà già từ ngoài phố, ngay dưới cửa sổ các nhà hàng xóm và vào đến phòng khách, khi bà ngoại tôi lôi từ dưới bốn lần váy ra một con ngỗng béo đẹp, quà mừng nhân lễ rửa tội, ông nói: “Bà không phải làm thế. Bà cứ đến tay không, con cũng sung sướng lắm rồi." Nhưng bà ngoại tôi không chịu thế, bà muốn mọi người thấy rõ giá trị con ngỗng của bà. Đập tay vào con chim quý tộc, bà phản đối: "Đừng có vớ vẩn, Alfred. Đây không phải là một con ngỗng Kashubes, đây là một con ngỗng quốc tịch Đức, anh sẽ thấy thịt của nó có vị y hệt như hồi trước chiến tranh."

Như vậy, mọi vấn đề về quốc tịch được giải quyết và mọi sự đều trôi chảy cho đến giờ cử hành nghi lễ, thì Oskar nhất định không đặt chân vào nhà thờ Tin Lành. Họ lấy cái trống của tôi ra khỏi tắc-xi, định dùng nó để dụ dỗ tôi, cam đoan với tôi, không phải chỉ một lần mà nhiều lần, rằng người ta cho phép mang trống vào nhà thờ Tin Lành. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì bám chắc lấy đạo Thiên Chúa. Tôi thà, ngay lúc này, rót vào lỗ tai thánh tông đồ của Cha Wiehnke một lời xưng tội tổng quát và chi tiết còn hơn phải nghe một bài thuyết pháp Tin Lành trong lễ rửa tội. Matzerath đành nhượng bộ, có lẻ vì sợ tôi cất giọng gây đổ vỡ khiến ông phải bổi thường thiệt hại. Trong khi con trai tôi đang chịu lễ rửa tội, tôi ngồi lại trong tắc-xi, nhìn trân trân vào sau đầu người lái xe, xem xét kỹ từng nét mặt của Oskar trong gương chiếu hậu, nhớ lại lễ rửa tội của chính mình đã lùi vào quá khứ xa xăm và những cố gắng dũng cảm của Cha Wiehnke nhằm đuổi quỷ Xa-tăng ra khỏi hài nhi Oskar.

Sau đó là bữa ăn. Hai cái bàn được kê sát lại. Đầú tiên là món xúp giả ba ba[1]. Những người ở quê ra húp xùm xụp. Greff cong ngón tay út. Gretchen Scheffler khẽ đụng răng vào nước xúp. Guste cười toét miệng trên chiếc cùi-dìa của mình. Ehlers tiếp tục trò chuyện bên trên thìa xúp, ông già Vincent run run liếc sang bên cạnh. Chỉ có hai bà già, bà ngoại Anna và Mamăng Truczinski, là toàn tâm toàn ý với cùi-dìa của mình. Riêng Oskar thì buông thìa và, mặc cho những người khác vẫn múa cùi-dìa, lỉnh đi tìm cái nôi của con trai nó trong phòng ngủ vì Oskar muốn nghĩ về con trai mình trong khi, đằng sau những chiếc muổng, những người kia càng ních đầy xúp vào bụng thì càng đắm sâu vào một trống rỗng cạn kiệt mọi ý nghĩ.

Bên trên chiếc giỏ có bánh xe là một tán che bằng vải tuyn màu xanh da trời. Mép giỏ quá cao, nên thoạt đầu, tôi chỉ nhìn thấy một cái đầu xanh xanh đỏ đỏ nhăn nhúm, bé tí tẹo. Đặt cái trống xuống sàn nhà và đứng lên đó, tôi có thể quan sát con trai tôi đang thiêm thiếp, chốc chốc lại giật thon thót trong giấc ngủ. Ôi lòng kiêu hãnh của kẻ làm cha luôn luôn háo tìm những lời chữ to tát! Ngắm đứa con trai sơ sinh, tôi chẳng nghĩ ra điều gì khác ngoài, câu này: Khi nó lên ba, nó sẽ có một cái trống. Con trai tôi không chịu hé cho tôi thấy chút gì về tình hình trí tuệ của nó, và tôi chỉ có thể hy vọng rằng, cũng như tôi, nó thuộc vào loại hài nhi thính tai. Bối rối không biết làm gì tiếp, tôi nhắc.lại lời hứa sẽ tặng nó một cái trống vào dịp sinh nhật thứ ba, bước xuống khỏi cái bệ-trống và một lần nữa, thử cơ may với những người lớn ở trong phòng khách.

Họ vừa ăn xong món xúp giả ba ba. Maria mang tiếp vào món đậu cô-ve hộp với bơ nước. Matzerath, phụ trách món lợn quay, tự tay sắp thịt lên đĩa; ông cởi bỏ áo ngoài, mặc sơ-mi trần đứng thái từng miếng, cúi xuống đĩa thịt mềm dịu một gương mặt mềm dịu đến nỗi tôi phải quay mắt đi.

Greff ăn chay kiêng thịt, dược phục vụ riêng: măng tây hộp, trứng luộc và củ cải đỏ trộn kem, Cũng như mọi người, giả lấy một tảng khoai tây nghiền nhưng không rưới bằng nước thịt mà bằng bơ nâu mà Maria ân cần mang từ trong bếp ra trong một cái xoong kêu xèo xèo. Trong khi những người khác uống bia, giả xài nước táo. Người ta bàn tán về chuyện bao vây Kiev, tính số tù binh bắt được bằng đầu ngón tay. Ehlers, vốn quê gốc ở vùng Baltic, tỏ ra có năng khiếu đặc biệt trong việc đếm tù binh Nga; cứ được mười vạn, ông ta lại giơ một ngón tay lên; khi cả hai bàn tay xòe ra thành trọn một triệu, ông tiếp tục đếm bằng cách lần lượt cụp từng ngón một. Khi không còn gì để nói về đề tài tù binh do tổng số tăng vùn vụt khiến nó trở nên vô bổ và vô vị, Scheffler xoay sang nói chuyện tàu ngầm ở Gotenhafen và Matzerath thầm thì vào tai bà ngoại Anna rằng ở Schichau mỗi tuần, người ta hạ thuỷ hai chiếc. Thế là Greff-Rau-Quả bèn giải thích cho tất cả những ai có mặt rõ tại sao tàu ngầm khi hạ thuỷ lại phải xoay ngang chứ không lao đằng mũi xuống trước. Để trình bày thật rõ ràng, cụ thể, giả minh họa từng thao tác bằng những điệu bộ mà các vị khách mê thích tàu ngầm đều ra sức bắt chước một cách vụng về. Mô phỏng một chiếc tàu ngầm đang lặn, tay trái ông Vincent Bronski hất đổ cốc bia của mình. Bà ngoại tôi đã lên tiếng cự nự ông, nhưng Mania bèn xoa dịu, nói không sao, đằng nào khăn bàn cũng đã đến lúc phải giặt, tiệc tùng ăn mừng làm sao tránh khỏi giây bẩn. Mamăng Truczinski mang khăn vào lau sạch chỗ bia đổ; tay trái bà cầm một cái bát pha-lê lớn đầy bánh pút-đinh sô-cô-la rắc hạnh đào giã vụn.

Ôi chao, giá như cái bánh pút-đinh sô-cô-la có một thứ nước xốt nào khác hoặc đừng có nước xốt gì hết! Nhưng lại là nước xốt va-ni cơ chứ. Vàng vàng, đặc quánh: xốt va-ni! Có lẽ trên đời này không có gì vui bằng mà cũng không có gì buồn bằng xốt va-ni. Rất nhẹ nhàng, mùi va-ni lan toả khắp, bao bọc tôi mỗi lúc một sâu trong Maria đến nỗi tôi không đủ sức nhìn nàng đang ngồi cạnh Matzerath, tay nắm tay ông ta, nàng, nguồn gốc của mọi thứ va-ni.

Oskar bám lấy váy của Lina Greff tụt xuống khỏi chiếc ghế cao con nít dành cho nó, nằm dài dưới chân bà trong khi bà múa thìa ở bên trên. Lần đầu tiên tôi hít vào cái mùi đặc biệt của Lina Greff; nó lập tức át hẳn, nhận chìm và diệt sạch mọi mùi va-ni.

Bất chấp mùi hương mới có cay nồng đến mấy, tôi vẫn bám riết lấy nó cho đến khi mọi hồi ức liên quan đến va-ni dường như nhoà đi. Một cơn buồn nôn như sự giải cứu từ từ xâm chiếm tôi, lặng lẽ, không chút co thắt. Trong khi ói ra nào xúp giả ba ba, nào thịt lợn quay thái từng miếng, nào đậu cô- ve hộp gần như còn nguyên cùng mấy thìa bánh pút-đinh sô-cô-la với xốt va-ni, tôi chợt nhận chân ra trọn vẹn nỗi đơn côi của mình. Tôi đằm mình trong đơn côi. Nỗi đơn côi của Oskar trải ra dưới chân Lina Greff - và tôi quyết định từ đây trở đi, hằng ngày, tôi sẽ đem nỗi đơn côi của mình đến đặt dưới chân Lina Greff.

Chú thích:

[1] Loại nhạc đồng quê bắt chước tiếng kèn túi.

[2] Nguyên bản là xúp giả rùa.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx