sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Thuốc Tẩy Uế

Dêm qua, tôi bị vây bọc trong những cơn mê vội vã. Chúng giống như những người bạn trong ngày thăm bệnh nhân. Cơn nọ tiếp cơn kia lần lượt đến rồi đi, sau khi kể với tôi những gì những cơn mê cho là bõ kể; những câu chuyện ngớ ngẩn đầy những điều lặp đi lặp lại; những độc thoại không thể bỏ ngoài tai được bởi vì chúng được trình bày bằng một giọng buộc người ta phải chú ý kèm theo những bộ điệu của những kép hát tồi. Khi tôi cố kể cho Bruno nghe vào lúc điểm tâm, tôi không sao tống khứ được chúng vì tôi đã quên hết mọi chi tiết; Oskar quả không có tài nằm mê.

Trong khi Bruno dẹp bữa điểm tâm, tôi hỏi như thể cho qua chuyện: "Bruno thân mến, chính xác thì tôi cao bao nhiêu?"

Bruno đặt đĩa mứt lên tách cà-phê của tôi và nói với giọng lo lắng: "Chà, ông Matzerath, ông không hề đụng đến đĩa mứt."

Tôi đã thuộc lòng những câu trách móc kiểu ấy. Ngày nào tôi cũng phải nghe chúng sau bữa điểm tâm. Mỗi buổi sáng, Bruno mang cho tôi cái món mứt dâu tây ấy chỉ để tôi lấy một tờ báo đậy lên. Thậm chí nhìn thấy mứt tôi còn không chịu nổi, huống hồ là ăn. Bởi thế, tôi. gạt bỏ lời trách cứ của Bruno với một thái độ cương quyết bình thản:

“Bruno, anh còn lạ gì tôi ngán mứt như thế nào. Hãy nói tôi cao bao nhiêu đi.

Mắt Bruno bỗng có cái vẻ của một con tuộc chết. Bao giờ gã cũng ngước cái nhìn tiền sử ấy lên trần nhà mỗi khi có điều gì phải suy nghĩ và nếu có điều gì cần nói, gã cũng hướng lên trần nhà. Vậy thì sáng nay, anh ta nói với trần nhà: "Nhưng đây là mứt dâu tây kia mà." Mãi đến khi sau một quãng ngưng kéo dài - bằng sự im lặng của mình, tôi muốn gặng thêm câu hỏi về kích thước của Oskar - cái nhìn của Bruno rời trần nhà hạ xuống để quấn quanh những chấn song giường tôi, gã mới đặc cách cho tôi biết là tôi cao một mét hai mốt.

"Anh có vui lòng đo lại giúp tôi không, Bruno? Để cho chắc mà."

Không chớp lấy một sợi lông mi, Bruno rút từ túi quần sau ra một cái thước gấp, lật chăn của tôi lên bằng một cử chỉ gần như thô bạo, kéo thẳng cái áo ngủ xuống, giở cái thước gấp màu vàng chói bị gẫy ở độ dài một mét bảy lăm xăng-ti-mét, đặt nó dọc theo người tôi, chỉnh lại, kiểm tra. Đôi tay gã chính xác, hiệu quả nhưng mắt gã vẫn ở tận thời kỳ khủng long. Cuối cùng, cái thước nằm im và gã tuyên bố như thể đọc kết quả: "Vẫn một mét hai mươi mốt."

Tại sao chỉ có việc gấp cái thước lại và cất khay điểm tâm của tôi mà gã làm rầm rầm như thế? Phải chăng kích thước của tôi không làm gã vừa lòng?

Sau khi rời phòng với cái khay điểm tâm, đựng cái thước gấp màu vàng chói bên cạnh màu đỏ phát ớn của đĩa mứt, Bruno còn ghé mắt nhìn lại qua cái lỗ nhòm ở cánh cửa - cái nhìn khiến tôi cảm thấy mình già bằng trái đất. Cuối cùng, gã để cho tôi yên với chiều cao một mét hai mốt của tôi.

Vậy là Oskar đã thực sự cao chừng nấy! Hầu như là quá lớn đối với một chú lùn, một người tí hon, một người chim chích? Sư phụ Bebra, hậu duệ trực hệ của Hoàng tử Eugene, đã giữ được cho mình dừng lại ở độ cao bao nhiêu? Bây giờ thậm chí tôi có thể nhìn Kitty và Felix từ trên xuống. Trong khi tất cả những người tôi vừa nhắc đến có thời đã từng nhìn Oskar - hai mốt tuổi vẫn chỉ hơn chín mươi phân! - từ trên xuống với một vẻ ghen tị thân ái.

Chỉ đến khi hòn đá ấy ném trúng tôi trong đám tang Matzerath ở nghĩa trang Saspe, tôi mới bắt đầu lớn.

Hòn đá, Oskar nói thế ư? Tốt hơn là tôi bổ sung nốt câu chuyện về những sự kiện xảy ra ở nghĩa trang hôm ấy.

Sau khi cái trò chơi ném vòng nọ đã chỉ cho tôi thấy rằng tôi không thể tiếp tục tự hỏi Tôi có nên hay không mà phải dứt khoát Tôi nên, tôi phải, tôi muốn, tôi đã tháo cái trống ra khỏi cổ, quăng nó xuống trọn bộ với cả dùi xuống huyệt chôn Matzerath và quyết định lớn. Lập tức tôi cảm thấy một tiếng vo vo mỗi lúc một lớn trong tai tôi. Đúng lúc ấy, một hòn đá bằng cái hột hạt dẻ choang vào chỏm đầu tôi do thằng con trai Kurt của tôi dang thẳng cánh ném với tất cả sức lực tuổi lên bốn của nó. Tuy cú đòn ấy không làm tôi bị bất ngờ - tôi vẫn ngờ là con trai tôi đang âm mưu một điều gì chống tôi - nó đã khiến tôi ngã nhào theo cái trống xuống huyệt. Già Heilandt kéo tôi lên, nhưng để trống và dùi lại nguyên chỗ. Rồi khi tôi bắt đầu đổ máu cam, ông ngả người tôi xuống, cho dựa gáy vào lưỡi cuốc. Cơn đổ máu cam, như ta đã biết, mau chóng dứt nhưng tôi tiếp tục lớn, tuy chậm đến nỗi chỉ có Leo Schugger nhận thấy, thế là anh ta bay lên như chim và la lớn tuyên bố cho toàn thế giới biết.

Đoạn bổ sung chỉ có thế và thực ra không cần thiết bởi vì tôi đã bắt đầu lớn từ trước khi bị hòn đá ném trúng và ngã xuống huyệt của Matzerath. Nhưng ngay từ đầu, Maria và ông Fajngold chỉ thấy một nguyên nhân khiến tôi lớn lên, mà họ nghĩ là một chứng bệnh, cụ thể là hòn đá ném vào đầu và cú ngã xuống huyệt. Trước cả khi chúng tôi rời nghĩa trang, Maria đã phết cho Kurt một trận nên thân. Tôi thấy thương hại nó. Vì nói cho cùng, có thể nó đã ném hòn đá ấy để giúp tôi, để làm tôi lớn mau hơn. Có lẽ, cuối cùng nó muốn có một ông bố thực sự là người lớn hoặc một thế phẩm thay vào chỗ Matzerath; bởi vì, nói tình thật, nó chưa bao giờ công nhận hoặc trân trọng một người cha ở nơi tôi.

Trong quá trình lớn lên của tôi, diễn ra suốt gần một năm trời, nhiều bác sĩ cả nam lẫn nữ đã xác nhận lời chẩn đoán đổ tội cho hòn đá và cú ngã đâm đầu xuống huyệt của tôi; họ nói và ghi trong hồ sơ bệnh án của tôi như sau: Oskar Matzerath trở thành một Oskar biến dạng vì bị một hòn đá ném trúng chỏm đầu, vân vân và vân vân.

Đến đây, có lẽ cũng nên nhắc lại lần sinh nhật thứ ba của tôi. Những người lớn đã nói gì về đoạn mở đầu tiểu sử đích thực của tôi? Đây là điều họ đã nói: Năm lên ba, Oskar Matzerath đã ngã từ trêu cầu thang hầm kho xuống sàn bê-tông, do đó không lớn được nữa, vân vân và vân vân.

Những lời giải thích này phản ánh mong muốn dễ hiểu của con người là tìm cách minh chứng mọi cái gọi là phép lạ bằng những lý do vật thể. Oskar phải thừa nhận rằng chính gã cũng xem xét những cái gọi là phép lạ hết sức cẩn thận trước khi bác bỏ chúng như là chuyện vớ vẩn.

Ở nghĩa trang Saspe về, chúng tôi gặp những người thuê nhà mới trong căn hộ của Mamăng Truczinski. Họ là những người khá tử tế, họ sẵn sàng để chúng tôi ở cho đến khi nào chúng tôi tìm được chỗ khác, nhưng ông Fajngold không chịu chấp nhận tình trạng chen chúc quá đáng như vậy và tuyên bố trả lại chúng tôi phòng ngủ dưới tầng trệt, còn ông tạm xoay sở với phòng khánh. Maria phản đối cách thu xếp ấy, nàng cảm thấy việc ở kề cận một ông độc thân trong tình trạng mình vừa mới góa chồng là bất tiện, ông Fajngold lúc đó không ý thức rằng mình là người độc thân, nhưng rồi sự hiện diện cương quyết của Luba khiến ông đành chịu thua lập luận của Maria. Để cho phải lẽ và cũng vì bà Luba nữa, họ đi đến một cách giải quyết khác: ông trả lại cho chúng tôi căn hầm kho. Thậm chi ông còn giúp chúng tôi sắp xếp lại kho, nhưng không chịu để tôi xuống ở dưới hầm vì tôi đang bệnh, một đứa bé ốm đau tội nghiệp, và thế là một chiếc giường được kê trong phòng khách cho tôi, ngay cạnh cây dương cầm của mẹ tội nghiệp của tôi.

Dạo ấy, thật khó mà tìm được một bác sĩ. Hầu hết các bác sĩ đã chạy cùng với quân đội, vì trong tháng giêng, quỹ bảo hiểm y tế của Tây Phổ đã chuyển về phía tây và bệnh nhân đã trở nên cực kỳ hiếm. Sau khi sục sạo khắp nơi, cuối cùng, ông Fajngold tìm ra được một nữ bác sĩ đang túi bụi cưa chân cưa tay cho các thương binh của cả hai bên, Wehrmacht và Hồng quân, nằm kề bên nhau trong trường Helene Lange. Bà ta hứa sẽ đến và quả nhiên, bốn hôm sau, đến thật. Bà ngồi bên giường bệnh của tôi, hút liền một lúc ba, bốn điếu thuốc lá trong khi khám cho tôi và đến điếu cuối cùng thì lăn ra ngủ.

Ông Fajngold sợ không dám đánh thức bà. Maria rụt rè thúc nhẹ bà một cái. Nhưng bà bác sĩ vẫn không tỉnh dậy mãi cho đến khi điếu thuốc cháy hết, lẹm vào ngón tay bà. Bà đứng dậy và giậm lên cái đầu mẩu trên thảm. Bà nói cộc cằn bằng một giọng bực bội: "Xin lỗi. Suốt ba tuần không nhắm mắt lấy một phút. Tôi ở Käsemark cùng một chuyến xe lửa toàn trẻ con sơ tán từ Đông Phổ. Không cách nào đưa các cháu xuống phà. Chỉ cho lính sang. Bốn nghìn đứa trẻ. Chết sạch, tan xương nát thịt." Vẫn cái vẻ cộc cằn ấy trong cách bà vuốt má tôi. Cắm môt điếu thuốc lá mới vào mặt, bà xắn tay áo trái và lấy từ trong cặp ra một ống tiêm. Trong khi tự tiêm cho mình một mũi, bà nói với Maria: “Tôi không thể nói với cô thằng bé có vấn đề gì. Phải đưa nó vào bệnh viện, nhưng không phải ở đây, mà bên phía tây kia. Các khớp cổ tay, đầu gối và vai của nó đều sưng. Cuối cùng rồi sẽ lan lên óc. Đắp băng xấp nước lạnh cho nó. Tôi để cho cô mấy viên thuốc phòng khi nó đau không ngủ Được."

Tôi thích bà bác sĩ cộc cằn này, bà không biết tôi bị bệnh gì và thừa nhận là thế. Trong mấy tuần tiếp theo, Maria và ông Fajngold đắp cho tôi hàng trăm lượt băng xấp nước lạnh; điều đó làm tôi đỡ đau nhưng không ngăn được các khớp-Cổ tay, đầu gối và vai và cả đầu tôi nữa ngừng sưng và nhức nhối. Điều khiến Maria và ông Fajngold hoảng nhất là cái đầu sưng, tướng của tôi. Maria cho tôi uống thuốc viên, nhưng chẳng mấy chốc đã hết. ông Fajngold bắt đầu lấy bút chỉ và thước kẻ vẽ những biểu đồ sốt, khoanh những hình kỳ ảo, táo bạo quanh thân nhiệt lên xuống của tôi mà ông đều đặn lấy mỗi ngày năm lần bằng một cái nhiệt kế đổi được ngoài chợ đen bằng mật ong nhân tạo. Biểu đồ sốt của tôi nom giống như một đãy núi với những khe nứt dễ sợ - tôi nghĩ đến dãy Alpes, đến những ngọn phủ tuyết của đãy Andes. Trên thực tế, thân nhiệt của tôi chẳng có gì kỳ ảo đến thế: buổi sáng thường là ba tám phảy một độ, buổi chiều lên ba chín và mức kỷ lục trong suốt thời gian tăng trưởng của tôi là ba chín phảy bốn. Trong những cơn sốt, tôi trông thấy và nghe thấy đủ mọi thứ. Tôi ngồi trên một vòng đu quay, tôi muốn xuống mà không được. Tôi cùng nhiều đứa trẻ khác ngồi trên những xe cứu hỏa, những con thiên nga rỗng, những con chó, mèo, lợn, và hươu, quay hết vòng này đến vòng khác. Tôi muốn xuống nhưng không được phép. Tất cả những đứa trẻ cũng kêu như tôi rằng chứng muốn ra khỏi xe cứu hỏa, thiên nga rỗng, nhảy xuống khỏi lưng những con chó, mèo, lợn, hươu, chúng không được phép xuống. Đức Chúa Trời đứng cạnh vòng đu quay và mỗi khi nó dừng,- Ngài lại trả tiền cho nó quay tiếp. Và chúng tôi cầu nguyện: "Lạy Đức Chúa Cha Người ở trên Lời, chúng con biết Người rất nhiều tiền lẻ, chúng con biết Người muốn đãi chúng con đi đu quay thật nhiều vòng, chúng con biết Người muốn chứng minh với chúng con rằng quả đất này tròn. Xin Người hãy cất ví đi, bảo xì-tốp, đứng lại, fertig, basta, stoi, đến giờ đóng cửa rồi - chúng con, những đứa trẻ tội nghiệp chóng mặt lắm rồi, bọn họ đã đem chúng con, bốn nghìn đứa, đến Käsemark bên bờ sông Vistula, nhưng chúng con không sang sông được vì cái vòng đu quay của Người, cải vòng đu quay của Người..."

Nhưng Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, chủ nhân chiếc đu quay, mỉm nụ cười hiền hậu nhất của Người và rút từ trong ví ra một đồng tiền nữa để làm cho chiếc đu quay tiếp tục quay, mang theo bốn nghìn đứa trẻ cùng với Oskar trong những xe cứu hỏa và thiên nga rỗng, trên lưng chó, mèo, lợn, hươu, quay tròn quay mãi và mỗi lần con hươu của tôi - đến giờ tôi vẫn dám chắc rằng mình cưỡi một con hươu - lướt qua chỗ Cha chúng ta ở trên Lời, chủ nhân chiếc đu quay, Người lại mang một bộ mặt khác: Người là Rasputin, cười ha hả và cắn cắn đồng tiền dành cho vòng sau bằng hai hàm răng thày mo của ông ta; rồi Người là Goethe, thi bá, tay cầm một túi tiền thêu rất đẹp và những đồng tiền ông rút trong đó ra đều in nổi hình bán diện của Cha chúng ta ở trên Lời; và rồi lại Rasputin say ngất ngư, và lại Herr von Goethe tỉnh táo. Một chút điên khùng với Rasputin và một chút duy lý với Goethe. Những kẻ cực đoan với Rasputin, những lực lượng của trật tự với Goethe. Những đám quần chúng rầm rộ quanh Rasputin, những danh ngôn trích in trên lịch với Goethe... cho đến khi, rốt cuộc, chiếc đu quay ngừng lại - không phải vì cơn sốt của tôi dứt, mà vì một sự hiện diện dịu dàng cúi xuống cơn sốt của tôi, bởi vì ông Fajngold cúi xuống tôi và hãm chiếc đu quay lại. ông hãm những chiếc xe cứu hoả, con thiên nga, con hươu lại, hạ giá những đồng tiền của Rasputin, trả Goethe về với các Mẹ, để cho bốn ngàn đứa trẻ chóng mặt quay cuồng ở Käsemark bay qua sông Vistula về nước thiên đàng - và nhấc tôi lên khỏi giường bệnh, đặt lên một đám mây Lysol, có nghĩa là ông tẩy uế cho tôi.

Việc này khởi đầu là vì rận, rồi sau trở thành một thói quen. Đầu tiên, ông phát hiện ra rận ở Kurt, rồi ở tôi, Maria và bản thân ông. Có lẽ đó là kỷ niệm để lại của cái gã Kalmouk đã cướp đi Matzerath của Maria, ông Fajngold đã la trời la đất ầm ĩ khỉ phát hiện thấy chúng, ông triệu tập vợ con, toàn gia; ông ngờ rằng tất cả bọn họ đã bị nhiễm sâu bệnh. Rồi sau khi đem bánh yến mạch và mật ong nhân tạo đổi lấy nhiều loại thuốc tẩy uế khác nhau, ông bắt đầu tẩy uế cho chính ông, cả gia đình ông, Maria và bản thân tôi (kể cả cái giường bệnh của tôi) hằng ngày, ông kỳ cọ cho chúng tôi, rảy nước, rắc bột cho chúng tôi. Và trong khi ông kỳ cọ, rảy nước, rắc bột, cơn sốt của tôi bừng bừng, và ông kể các thứ chuyện qua đó, tôi được biết ông đã phun, rắc, rảy hết hàng toa axít các-bô-líc, Lysol [1] và vôi bột hồi ông làm phu tẩy uế ở trại tập trung Treblinka. Hằng ngày vào lúc 2 giờ chiều, với tư cách là phu tẩy uế chính thức, Mariusz Fajngold có nhiệm vụ rảy nước pha lysol trên các đường phố trong trại, trong các lán, các phòng tắm vòi hoa sen, các lò thiêu, lên các đống quần áo, lên những người đang chờ tắm vòi hoa sen, lên những người nằm còng queo sau khi tắm vòi hoa sen, lên tất cả những người ra khỏi lò và tất cả những người sắp vào đó. ông kể tên những người ấy vì ông biết hết bọn họ. Ông kể cho tôi nghe về Bilauer, một ngày tháng tám nóng nực anh này đã khuyên người phu tẩy uế nên rảy các đường phố trong trại bằng dầu hỏa thay vì bằng Lysol. ông Fajngold chấp nhận lòi khuyên của anh ta. Và Bilauer có diêm. Tất cả đã tuyên thệ trước ông già Lew Kurland, đại diện của ZOB [2]. Kỹ sư Galewski là người phá cửa vào kho vũ khí. Bilauer bắn chết tên thiếu tá Kutner. Sztulbach và Warynski bóp cổ tên Zisenis; những người khác xử trí với bọn lính gác đến từ trại Trawniki. Một số bị điện giật chết khi cắt hàng rào cao thế. Schöpke, cái tên trung sĩ ss chuyên đùa cợt khi giải mọi người đi tắm vòi hoa sen, đứng ngay cổng trại và nổ súng. Nhưng vô ích, tất cả đồng loạt xông tới hắn: Adek Kave, Motel Levit, và Henoch Leter; Hersz Rotblat và Letek Zegel cũng có mặt, cả Tosias Baran với nàng Deborah của mình. Và Lolek Begelmann kêu lớn: "Phải đưa Fajngold ra khỏi đây trước khi máy bay chúng tới!" Ổng Fajngold còn đang đợi Luba, vợ mình. Nhưng tha hồ cho ông gọi, bà không đến được nữa rồi. Thế là họ cứ xốc nách ông, Jakub Gelernter bên trái và Mordechaj Szwarchard bên phải. Và chạy trước mặt ông là bác sĩ Atlas, ông này, hồi ở trại Treblinka cũng như về sau ở trong rừng xung quanh Vilna, đã khuyến cáo nên rẩy Lysol thật triệt để và khẳng định rằng Lysol còn quan trọng hơn cả sự sống. Điều này, ông Fajngold có thể xác nhận vì ông đã rẩy cho người chết, không phải một mà hàng đống, việc gì phải nêu con số; ông đã rẩy Lysol cho những người đàn ông chết và những người đàn bà chết, thế thôi. Và ông biết hàng mớ tên, nhiều dến nỗi phát nhàm, đến nỗi đối với tôi (giờ cũng đang bơi trong Lysol đây), vấn đề sự sống và cái chết của mười vạn cái tên trở nên không quan trọng bằng vấn đề là liệu sự sống - và nếu không phải sự sống thì là cái chết - của tôi có được tẩy uế chu toàn và kịp thời bằng những thứ thuốc tẩy uế của ông Fajngold hay không.

Dần dà cơn sốt rút khỏi tôi và lúc đó là tháng tư. Thế rồi nó lại trở lại, chiếc đu quay lại quay và ông Fajngold rẩy Lysol lên người sống và người chết. Rồi cơn sốt lại lui và sắp hết tháng tư. Đầu tháng năm, cổ tôi ngắn lại, ngực rộng ra và cao lên, đến nỗi tôi có thể lấy cằm cọ vào xương quai xanh của Oskar mà không phải cúi đầu. Lại sốt và lại Lysol. Và tôi nghe thấy Maria thì thầm những lời bồng bềnh trong nước Lysol: "Miễn sao cậu ta đừng thành dị dạng! Miễn sao cậu ta đừng có gù! Miễn sao cậu ta đừng có bị tràn dịch não!"

Ông Fajngold trấn an Maria, kể với nàng rằng ông biết nhiều người gù hoặc phù thũng nhưng rất thành công trong đời. Chẳng hạn, có một gã Roman Frydrych đã mang cái bướu của mình sang tận Argentina lập cơ sở kinh doanh máy khâu, sau phất lên thành một hãng lớn rất nổi tiếng.

Câu chuyện về thành công của anh gù Frydrych không trấn an được Maria, song lại khiến người kể chuyện hưng phấn đến nỗi ông quyết tâm tân trang lại cửa hàng tạp hoá của chúng tôi. Giữa tháng năm, ít lâu sau khi chiến tranh chấm dứt, những mặt hàng mới xuất hiện, ông bắt đầu bán máy khâu và phụ tùng máy khâu, nhưng để dễ dàng cho việc chuyên tiếp, ông vẫn duy trì các mặt hàng tạp hoá một thời gian. Một thời kỳ hoàng kim! Hàng lấy vào rất ít khi phải trả bằng tiền mặt, mà toàn qua trao đổi. Mật ong tổng hợp, đường, bột, mác-ga-rin, và những bao bột làm bánh cuối cùng của bác sĩ Oetker biến thành xe đạp; xe đạp và phụ tùng xe đạp chuyển thành mô-tơ điện rồi mô-tơ điện thành các loại dụng cụ; những thứ này thành lông thú và như thể phù phép, ông Fajngold biến lông thú thành máy khâu. Bé Kurt đâm được việc trong cái trò chơi đổi chác này; nó đưa khách hàng đến, làm môi giới và thích ứng với hướng kinh doanh mới mau chóng hơn Maria nhiều. Tình hình gần như thời Matzerath. Maria đứng ở quầy, phục vụ những khách hàng cũ còn ở lại thành phố và, đánh vật với dăm câu tiếng Ba Lan, cố hết sức để hiểu xem các khách hàng mới muốn gì. Kurt quả có năng khiếu bẩm sinh về ngôn ngữ. Nó có mặt khắp chỗ trong cửa hàng, ông Fajngold có thể trông cậy vào nó. Mặc dầu chưa đầy năm tuổi, nó đã thành một chuyên gia về máy khâu. Giữa hàng trăm kiểu khác nhau, từ trung bình đến tồi, bày ở chợ đen phố Bahnhofstrasse, nó chỉ liếc mắt một cái đã phát hiện ra những máy Singer hoặc Pfaff hạng nhất, ông Fajngold đánh giá cao tầm hiểu biết của nó.

Cuối tháng năm, bà ngoại Anna Koljaiczek đến thăm chúng tôi. Bà hổn hển gieo mình xuống đi-văng. Bà đã đi bộ suốt từ Bissau qua Brenntau. ông Fajngold khen bé Kurt hết lời và cũng không quên ca ngợi Maria, ông kể dài dòng với bà về bệnh tật của tôi, nhấn đi nhấn lại lợi ích của thuốc tẩy uế. Ông cũng có đôi lời khen Oskar đã tỏ ra rất ngoan, suốt thời gian ốm đau không khóc một lần nào.

Bà tôi cần dầu hỏa vì ở Bissau không có điện. Ông Fajngold kể cho bà nghe trải nghiệm của ông với xăng ở trại tập trung Treblinka và những thứ thuốc tẩy uế đa dạng ông đã dùng với tư cách là phu tẩy uế của trại, ông bảo Maria rót đầy dầu hoả vào hai chai lít, thêm vào đó một gói mật ong tổng hợp và cả một xê-ri thuốc tẩy uế. Ông lơ đãng gật đầu trong khi nghe bà tôi liệt kê tất cả những thứ đã cháy trụi ở Bissau và mỏ đá Bissau trong thời kỳ đánh nhau. Bà cũng mô tả những thiệt hại ở Viereck nay đã đổi tên thành Firoga như thời xưa. Và Bisau cũng được trả lại cái tên thời trước chiến tranh là Bysew. Gòn Ehlers, dạo xưa là thủ lĩnh nông dân ở Ramkau, cái thằng lấy con dâu của anh trai ba, Hedwig, vợ goá của Jan hy sinh ở Sở Bưu Chính, cái thằng ấy, nông dân đã treo cổ nó bên ngoài văn phòng của nó. Thiếu chút nữa thì họ đã treo cổ luôn Hedwig vì tội đã lấy Ehlers trong khi là vợ goá của một anh hùng Ba Lan và cũng vì Stephan là một trung uý và Marga thì tham gia Liên đoàn Thiếu nữ Đức.

"Thế đấy, "bà ngoại tôi nói, "họ không thể đụng đến Stephan được nữa bỏi vì nó đã chết ở trên Bắc cực rồi. Họ định bắt Marga tống vào trại. Nhưng rồi Vincent đã mở miệng và nói như chưa bao giờ nói hùng hồn thế trong cả đời ông. Và bây giờ, cả hai mẹ con, Hedwig và Marga, cùng ở với chúng tôi, giúp đỡ việc đồng áng. Nhưng Vincent, sau lần nói hăng như thế, đã quỵ và bà nghĩ có thể ông không đậu được bao lâu nữa. Còn bà đây, bà cũng có những rắc rối riêng của bà: đau khắp người, ở tim và nhất là ở đầu, như có ai lấy búa nện vào sọ"

Đó là những lời than thở của Anna Koljaiczzek. Bà ôm đầu mình, xoa cái đầu đang to lên của tôi, ngẫm ngợi sự đợi và đi đến câu triết lý sau đây: "Phải, Oskar ạ, phận của người Kashubes là thế. Họ luôn luôn bị đánh vào đầu. Các con rồi sẽ đi đến nơi nào sự thể tốt đẹp hơn, chỉ có bà ở lại. Người Kashubes không quen di chuyển, họ sinh đâu ở nguyên đó và giơ đầu ra cho mọi người đánh vì chúng ta không phải là người Ba Lan chính cống, cũng chẳng phải người Đức chính cống. Và nếu anh là người Kashubes, thì cả người Đức lẫn người Ba Lan đều coi anh là tép. Họ muốn cái gì cũng phải trăm phần trăm kia."

Bà tôi cười lớn và giấu hai chai dầu hoả, phần mật ong nhân tạo và thuốc tẩy uế dưới bốn lần váy vẫn giũ nguyên màu khoai tây, bất chấp những xáo động lịch sử, chính trị và quân sự kinh thiên động địa nhất.

Bà sắp sửa đi, nhưng ông Fajngold xin bà chờ một lát, ông muốn bà gặp vợ ông là Luba và gia đình ông. Khi Luba không xuất hiện, bà tôi bảo: "Không sao. Tôi cũng cứ gọi người thân luôn ấy mà: Agnes, tôi nói, Agnes, con gái của mẹ, đến giúp mẹ vắt quần áo tí nào. Mà nó chả đến, cũng như cô Luba nhà chú ấy. Và Vincent, ông anh trai tôi, đêm tối thui, ông ấy đứng ngoài cửa, bất chấp bệnh tật, đánh thức hàng xóm bằng những tiếng gào gọi con trai là thằng Jan làm thư ký bưu điện, đã bị giết."

Bà đã ra đến cửa, đang chít khăn lên đầu thì từ giường nằm, tôi lên tiếng gọi: "Babka, Babka," có nghĩa là Bà ơi, Bà ơi. Bà quay lại và nhấc váy lên một chút như cách để cho tôi chui vào và mang theo bà. Nhưng rồi có lẽ bà nhớ ra rằng dầu hỏa, mật ong nhân tạo và thuốc tẩy uế đã chiếm mất nơi trú ẩn đó rồi và bà đành đi mà không mang tôi, không mang Oskar theo.

Đầu tháng 6, những đoàn tàu đầu tiên đi về phía tây. Maria không nói gì, nhưng tôi có thể thấy là nàng đang từ biệt đồ dạc, cửa hàng, ngôi nhà, mồ mả của cả hai bên họ, đại lộ Hindenburg và cái gò ở nghĩa trang Saspe.

Đôi khi, buổi tối, trước khi xuống căn hầm với Kurt, nàng đến ngồi trước cây pi-a-nô của mẹ tội nghiệp của tôi bên cạnh giường tôi, tay trái đưa ac-mô-ni-ca lên miệng thổi, tay phải thử dạo pi-a-nô đệm theo bằng độc một ngón.

Khúc nhạc làm ông Fajngold buồn, ông yêu câu Mara ngừng chơi, nhưng rồi khi Maria cất chiếc ác-mô-ni-ca ra khỏi miệng và sắp đậy nắp pi-a-nô lại, thì ông lại yêu cầu nàng chơi thêm tí nữa.

Rồi ông cầu hôn nàng. Oskar đã thấy trước điều đó. Ông Fajngold càng ngày càng ít gọi Luba hơn và một buổi tối mùa hè đầy tiếng côn trùng và tiếng lá rì rào, khi ông chắc chắn là bà đã di hắn rồi, ông cầu hôn Maria, ông hứa sẽ chăm nom nàng và hai đứa trẻ, kể cả đứa ốm, Oskar, ông tặng nàng căn hộ và dành cho nàng một chân đối tác trong kinh doanh.

Maria đã hai mươi hai tuổi, vẻ đẹp của nàng, trước kia dường như ngẫu nhiên, nay trở nên chững chạc, thậm chí rắn rỏi hơn. Mấy tháng gần đây, trước và sau khi kết thúc chiến tranh, mái tóc lượn sóng mà Matzerath đã chi tiền cho nàng làm ngoài hiệu, đã duỗi. Nàng không tết bím như hồi gần gũi với tôi nữa; nay tóc nàng buông dài trên vai, đem lại cho nàng cái vẻ của một cô gái khá nghiêm trang, có lẽ hơi cay đắng nữa - và cô gái đó nói không, khước từ lời cầu hôn của ông Fajngold. Đứng trên tấm thảm xưa là của chúng tôi, với Kurt bên cạnh, Maria chỉ vào cái bếp lò gạch men. Ông Fajngold và Oskar nghe thấy nàng nói: "Không thể được. Tất cả ở đây đã đổ vỡ cả rồi, hết rồi. Bọn tôi sẽ về vùng Rhine, chỗ chị Guste tôi. Chị ấy lấy một trưởng bồi bàn tên là Köster. Anh ấy sẽ cho chúng tôi tá túc tạm, cả ba chúng tôi."

Ngay hôm sau, nàng gửi đơn và ba hôm sau nữa, chúng tôi đã có đủ giấy tờ. Sau đó, ông Fajngold không hé răng, ông đóng cửa hàng. Trong khi Maria gói ghém hành trang, ông ngồi trên quầy trong bóng tối, bên cạnh cái cân; ông chẳng còn bụng dạ nào mà xúc mật ong tổng hợp. Nhưng khi Maria đến chào tạm biệt, ông tụt xuống khỏi quầy, lấy chiếc xe đạp có moóc ra và bảo ông sẽ đưa chúng tôi ra ga.

Oskar và hành lý - chúng tôi được phép mang mỗi người hai lăm kí - được chất lên chiếc moóc hai bánh cao-su. Ông Fajngold đẩy xe đạp. Maria dắt tay Kurt và ngoái nhìn ngôi nhà lần cuối khi chúng tôi rẽ trái vào phố Elsenstrasse. Tôi không thể nhìn lại Labesweg vì ngoái cổ rất đau. Đầu Oskar phải giữ tư thế bất động giữa hai vai và tôi đành chỉ dùng đôi mắt vốn còn giữ được khả năng cơ động để tạm biệt phố Nữ Thánh Marie, suối Striess, công viên Kleinhammer, cầu chui (vẫn rỉ nước đến phát ớn!), phố Ga, Nhà Thờ Thánh Tâm vẫn nguyên vẹn của tôi và ga Langfuhr - Langfuhr nay gọi là Wrzeszcz, nhưng bố ai mà phát âm được cái tên đó?

Chúng tôi phải đợi. Cuối cùng khi một đoàn tàu đến thì đó là tàu hàng. Hàng đống người và quá nhiều trẻ con. Kiểm tra và cân hàng. Những gã lính quăng lên mỗi toa một bì rơm. Không có nhạc. Cũng không mưa. Trời lác đác mây. Gió đông.

Chúng tôi tìm được một chỗ trên toa thứ tư tính từ dưới lên. Ông Fajngold đứng ở đường tàu bên dưới chúng tôi, mái tóc thưa hung hung bay trong gió. Khi một cú dội mạnh báo cho biết đầu tàu đã đến, ông bước lại gần, đưa cho Maria ba gói mác-ga-rin (margarine)[3] và hai gói mật ong tổng hợp và khi những lệnh bằng tiếng Ba Lan kèm theo những tiếng kêu khóc báo hiệu tàu đã chuyển bánh, ông đưa thêm một gói thuốc tẩy uế bổ sung vào hành trang của chúng tôi -Lysol còn quan trọng hơn cả sự sống. Rồi chúng tôi đi, đề ông Fajngold lại sau lưng, ông đứng đó, mái tóc hung bay trong gió, nhỏ dần nhỏ dần như vẫn vậy khi tàu rời ga, cho đến khi chỉ còn một cánh tay vẫy và rồi mất hút.

Chú thích:

[1] Những loại thuốc tẩy uế thông thường.

[2] Zvdowska Orgamzacja Bojowa, viếi tắt là ZOB, tức Tổ chức Chiến đấu Do Thái, một phong trào bí mật hình thành ở các Ghetto trong thời kỳ 1942-43.

[3] Margarine là một loại bơ mà chất béo làm từ dầu thực vật và ( thường là hoa hướng dương hay trái olive) và nước.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx