sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Nhà Vua Trở Về - Quyển VI - Phụ Lục A - Phần 6

II

GIA TỘC EORL

“Eorl Trẻ Tuổi là chúa tộc Người Éothéod. Vùng đất của họ nằm gần đầu nguồn sông Anduin, giữa những nhánh xa nhất Dãy Núi Mù Sương và đầu Bắc rừng Âm U. Người Éothéod di cư vào đó trong thời Vua Eärnil II từ những miền đất dưới đồng bằng Anduin giữa hòn Carrock và sông Diên Vĩ, gốc gác vốn là họ hàng gần của con cháu Beorn cùng những người sống ở hiên Tây khu rừng. Tổ tiên Eorl tự nhận là dòng dõi các vua Rhovanion, lãnh thổ trải dài cả bên kia rừng Âm U trước khi quân Cưỡi Xe xâm lược, và vì thế coi mình có họ với cả các vua Gondor con cháu Eldacar. Họ yêu đồng cỏ, mê ngựa và chuộng tài điều khiển ngựa, nhưng các thung lũng khúc giữa sông Anduin độ ấy người sống đông đúc, mà cái bóng của Dol Guldur thì đổ dài thêm; khi nghe tin tên Vua phù thủy bị lật đổ, họ lấn thêm về phía Bắc mà đánh đuổi tàn dư còn sót lại của bọn người Angmar bên sườn Đông dãy núi. Nhưng tới thời Léod, cha của Eorl, họ đã sinh sôi nảy nở thêm và lại phải sống có phần chật chội ở quê hương.

“Năm hai ngàn năm trăm mười Kỉ Đệ Tam, mối đe dọa mới phủ bóng xuống Gondor. Một đoàn quân người hoang đông đảo từ phía Đông Bắc kéo qua Rhovanion, từ vùng Đất Nâu đổ xuống mà cưỡi bè qua sông Anduin. Cùng lúc đó, không rõ tình cờ hay chủ ý, bọn Orc (đây là trước cuộc chiến với Người Lùn nên còn rất hùng hậu) tràn từ dãy núi xuống. Đám này càn quét khắp Calenardhon, và Cirion Quốc Quản Gondor bắn tin lên Bắc cầu viện; vì trước nay vẫn có tình bằng hữu lâu dài giữa Con Người ở đồng bằng Anduin cùng dân chúng Gondor. Nhưng bên thung lũng sông người ít và rải rác, lượng viện binh ít ỏi cũng huy động rất chậm. Cuối cùng việc cần kíp ở Gondor cũng đến tai Eorl; dù lúc ấy xem ra đã muộn, ông vẫn dẫn đi một đoàn kị sĩ rất đông.

“Và vì thế ông đã lâm trận trên đồng Celebrant, là tên dải đất xanh nằm giữa các sông Mạch Bạc và Lim Sáng. Đạo quân Bắc của Gondor đang ở thế nguy. Sau khi thua trận trên thảo nguyên và bị cắt đứt dưới phía Nam, họ vừa bị đuổi chạy qua Lim Sáng, rồi bỗng gặp đám Orc tấn công tìm cách dồn họ xuống Anduin. Mọi hi vọng đã tiêu tan thì, không ai ngờ tới, đoàn Kị Binh từ miền Bắc kéo xuống đánh mạnh vào hậu quân kẻ thù. Rồi tình thế đổi chiều, kẻ thù bị truy sát ngược trở qua Lim Sáng. Eorl dẫn đầu đội quân tiễu trừ, nỗi sợ hãi trước tên tuổi các kị sĩ miền Bắc lớn đến nỗi cả bọn xâm lược thảo nguyên cũng cuống cuồng lánh hoảng, và đoàn Kị Binh săn lùng chúng suốt đồng cỏ Calenardhon.”

Vùng đất này vốn đã thưa dân từ sau trận Dịch Hạch, phần lớn những ai còn lại cũng chết thảm khi bọn người phương Đông đổ vào. Vì thế Cirion, làm món quà cảm tạ ơn cứu viện, đã trao Calenardhon từ Anduin đến Isen cho Eorl và đồng tộc; họ bèn báo tin về Bắc đưa gia quyến cùng của cải xuống định cư. Họ đặt tên mới là đất Mark của các kị sĩ, và gọi dân mình là Eorlingas; nhưng ở Gondor gọi nước họ là Rohan, và dân ở đó là Rohirrim (nghĩa là các Chúa Ngựa). Đấy là sự tích Eorl trở thành Vua đất Mark đầu tiên, và chọn làm nơi ở một quả đồi xanh ngay bên chân Dãy Núi Trắng làm tường chắn phía Nam cho vương quốc. Từ đó về sau, người Rohirrim sống đời tự do với vua riêng và luật lệ riêng, nhưng kết mối liên minh vĩnh hằng với Gondor.

“Rất nhiều vị chúa và chiến binh, rất nhiều người phụ nữ đẹp đẽ và quả cảm được nêu danh trong những bài hát Rohan vẫn còn vang lên trên miền Bắc. Frumgar, theo lời họ, là vị thủ lĩnh đã đưa dân tộc mình tới Éothéod. Con trai ông, Fram, như họ kể, đã kết liễu Scatha, con rồng lớn trên Ered Mithrin, giải phóng đất nước khỏi mối đe dọa từ lão rắn dài. Nhờ thế Fram nắm được khối tài sản lớn, nhưng lại gây thù chuốc oán với Người Lùn tới đòi kho tàng của Scatha. Fram chẳng chịu nhượng bộ một đồng xu chỉ gửi cho họ chuỗi răng Scatha xâu thành vòng cổ với lời nhắn: ‘Những món trang sức thế này sẽ chẳng có gì bì nổi trong ngân khố các ngươi, vì không phải thứ dễ mà có được.’ Nhiều người bảo Người Lùn đã giết chết Fram đáp lại cử chỉ lăng nhục ấy. Éothéod và Người Lùn chẳng quý mến gì nhau.

“Léod là tên cha của Eorl. Ông thạo nghề thuần hóa ngựa hoang; vì thời đó chúng còn rất đông trong miền đất. Ông bắt được một chú ngựa câu lông trắng muốt, chẳng mấy đã lớn phổng thành con ngựa vừa khỏe, vừa đẹp đẽ và rất đỗi kiêu hãnh. Chẳng ai thuần nổi con này. Khi Léod táo tợn nhảy lên, nó chở ông chạy mất rồi quật ông ngã xuống, khiến Léod đập đầu vào đá qua đời. Lúc đó ông mới bốn mươi hai, người con trai mới là một thiếu niên mười sáu.

“Eorl thề sẽ báo thù cho cha. Cậu săn tìm con ngựa rất lâu cuối cùng cũng bắt gặp nó; người cùng đoàn săn cứ ngỡ cậu sẽ tìm cách lại gần đủ tầm cung rồi bắn chết. Nhưng khi họ tới gần, Eorl đứng dậy lớn tiếng gọi: ‘Tới đây, hỡi Tai Ương của Con Người, mà nhận cho ngươi tên mới!’ Tất cả kinh ngạc thấy con ngựa nhìn về phía Eorl, rồi lại đứng trước mặt cậu, và Eorl nói: ‘Felaróf sẽ là tên mới của ngươi. Ngươi yêu quý tự do và cái đó ta không trách. Nhưng giờ ngươi đã nợ ta món nợ mạng khổng lồ, và ngươi sẽ phải nộp lại tự do cho ta tới hết đời.’

“Rồi Eorl nhảy lên mình nó, và Felaróf thuận theo; và Eorl cưỡi nó trở về chẳng cần cương hay hàm thiếc, và cứ cưỡi như vậy về sau. Con ngựa hiểu tất cả những điều người nói, dù không chịu để bất cứ ai ngoài Eorl ngồi lên lưng. Chính Felaróf đã đưa Eorl phi xuống Đồng Celebrant, vì con ngựa ấy sống lâu ngang Người, và con cháu nó cũng vậy. Chúng là các mearas, chẳng bao giờ chở ai ngoài Vua đất Mark hay các con trai, mãi cho đến Scadufax. Con Người đồn rằng hẳn chính Béma (mà dân Eldar gọi bằng tên Oromë) đã đưa thủy tổ chúng vượt đại dương từ phương Tây đến.

“Giữa Eorl và Théoden, vị Vua đất Mark để lại nhiều truyền thuyết nhất là Helm Tay Búa. Ông là một người nghiêm nghị có sức lực phi thường. Vào thời đó có một người tên Freca tự nhận là dòng giống Vua Fréawine, dù như người ta nói ông ta pha quá nhiều máu Dunland mà tóc thì đen. Ông ta trở nên giàu có và quyền thế, sở hữu nhiều đất đai hai bên bờ sông Adorn[1]. Gần nguồn sông ông ta cho xây thành đắp lũy riêng, chẳng đếm xỉa gì đến nhà vua. Helm nghi hoặc, nhưng vẫn cho triệu ông ta mỗi lần họp hội đồng, và ông ta tới tùy lúc nào mình muốn.

[1] Chảy vào sông Isen từ sườn Tây Ered Nimrais.

“Trong một buổi hội đồng như vậy Freca dẫn theo rất nhiều kị sĩ, tới hỏi con gái Helm về cho con trai mình tên Wulf. Nhưng Helm nói: ‘Từ lần gần nhất đến đây gan ngươi có vẻ to hơn; nhưng như ta thấy chủ yếu là do mỡ’; và xung quanh cả cười, vì Freca quả có vòng eo đẫy.

“Rồi Freca nổi cơn điên mà nhiếc mắng nhà vua, kết thúc bằng: ‘Lão vua già mà gạt gậy chống chìa cho thì sớm muộn cũng ngã quỵ.’ Helm đáp lời: ‘Nào! Hôn sự của con ngươi chẳng qua là chuyện vặt. Hãy để đó Helm và Freca giải quyết sau. Còn hiện thời đức vua cùng hội đồng còn nhiều chuyện khẩn cần bàn bạc.’

“Khi hội đồng giải tán, Helm đứng dậy đặt bàn tay lớn lên vai Freca mà nói: ‘Đức vua không cho phép ẩu đả trong nhà ngài, nhưng thường dân ra ngoài được tùy tiện’; và ông bắt Freca phải đi trước mặt mình ra khỏi Edoras tới đồng. Nhìn đám người của Freca tiến lại gần, ông nói: ‘Đi đi! Chúng ta không cần người nghe lỏm. Chúng ta sắp bàn chút việc riêng. Hãy đi mà nói chuyện cùng quân sĩ của ta!’ Và khi nhìn lên thấy quân sĩ và bạn hữu của nhà vua đông hơn hẳn số lượng mình, chúng lùi lại.

“ ‘Giờ thì, hỡi tên Dunlending,’ nhà vua nói, ‘ngươi chỉ phải đối phó với mình Helm, một mình, không vũ khí. Nhưng ngươi cũng đã nói nhiều lời, và giờ đến lượt ta lên tiếng. Freca, bụng ngươi lớn không bằng sự rồ dại của ngươi. Gậy chống ư! Nếu Helm không ưa thứ gậy cong queo bị ấn vào tay, thì ông bẻ. Như thế này!’ tới chữ đó ông giáng cho Freca một đấm mạnh đến nỗi ông ta ngã bật ngửa ra bất tỉnh, chẳng mấy lâu sau thì chết.

“Rồi đó Helm tuyên bố con trai Freca cùng họ hàng gần đều là kẻ thù của nhà vua; và chúng bỏ chạy, vì lập tức Helm đã cử đoàn người lớn cưỡi ngựa về biên Tây.”

Bốn năm sau (2758), Rohan lâm vào nhiễu loạn mà viện binh từ Gondor không tới được, vì đang bị ba đội tàu Hải Tặc tấn công gây chiến trên khắp miền duyên hải. Cùng lúc đó Rohan lại bị xâm lược từ phía Đông, và bọn Dunlending nhận ra cơ hội tốt, vượt dòng Isen đổ xuống từ Isengard. Nhanh chóng người ta được biết Wulf cầm đầu bọn chúng. Lực lượng chúng rất mạnh, hợp lực cùng đám kẻ thù Gondor đã đổ bộ ở cửa sông Lefnui và Isen.

Người Rohirrim bị đánh bại, quân thù càn khắp đất nước; những ai chưa bị sát hại hay bắt giữ đều trốn vào các thung trên núi. Helm bị đẩy lùi qua đoạn vượt sông Isen với tổn thất lớn, rồi rút vào trú lại Lũy Tù Và cùng khe núi đằng sau (mà sau này mang tên Hẻm Helm). Ở đó ngài bị bao vây. Wulf chiếm Edoras, ngồi trong Meduseld mà xưng vua. Chính nơi đó Haleth con trai Helm ngã xuống, người cuối cùng chống cự trước cổng cung điện.

“Ngay ít lâu sau bắt đầu Mùa Đông Dài Dặc, và Rohan phủ ngập tuyết suốt gần năm tháng (tháng mười một tới tháng ba 2758-2759). Cả người Rohirrim lẫn kẻ thù đều khốn khổ trong giá rét, lại thêm cảnh khan hiếm còn kéo dài sau đó. Hẻm Helm sau ngày Yule khổ sở vì nạn đói; và tuyệt vọng đẩy Háma, con thứ của nhà vua, trái ý ông mà dẫn một mũi tinh binh ra ngoài lùng sục, nhưng họ mất tích trong bão tuyết. Helm dữ tợn và khẳng khiu hẳn đi vì buồn đau và cái đói; và riêng nỗi sợ hãi khi thấy ông đi có giá trị gấp nhiều người lính phòng ngự Lũy. Ông thường ra ngoài một mình, mặc đồ trắng, lần đi như con quỷ tuyết giữa các khu trại kẻ thù, giết chết nhiều tên quân chỉ bằng hai tay không. Người ta bảo nếu ông không cầm vũ khí, thì cũng không vũ khí nào chạm được vào ông. Quân Dunlending bảo nếu không tìm được thực phẩm, ông sẽ ăn người. Chuyện đồn ấy vẫn còn ở Dunland mãi về sau. Helm có cây tù và lớn, và rất nhanh người ta đã nhận ra mỗi lần chuẩn bị xuất hành ông lại thổi một hồi lớn vang vọng sâu trong Hẻm; và khi đó nỗi sợ ập lên quân thù lớn tới mức thay vì dồn sức bắt hay tiêu diệt ông, chúng lại bỏ chạy xuống Lòng Chảo.

“Một đêm người ta nghe thấy tù và thổi, nhưng không thấy Helm trở về. Rồi tới buổi sáng một tia nắng rọi xuống, tia đầu tiên sau nhiều ngày u ám, soi cho tất cả thấy bóng người áo trắng đứng im phắc bên Hào, có một mình, vì chẳng tên Dunlending nào cả gan tới gần. Helm đứng đó, chết cứng như đá, nhưng chân vẫn không khuỵu xuống. Nhưng người ta bảo tiếng tù và đôi khi vẫn còn ngân vang trong lòng Hẻm, và hồn ma Helm vẫn ngang dọc giữa quân địch của Rohan mà giết chúng bằng nỗi sợ.

“Ngay sau đó mùa đông cũng dứt. Rồi lúc đó Fréaláf, con trai Hild, em gái Helm, ra khỏi Dunharg nơi nhiều người đã đổ về ẩn náu; và dẫn theo toán nhỏ quân cảm tử, ông đánh úp Wulf bất ngờ trong Meduseld, giết chết hắn chiếm lại Edoras. Khi tuyết tan khắp vùng ngập nước lũ, thung lũng sông Entwasc trở thành cái đầm mênh mông. Bọn xâm lược phương Đông hoặc chết hoặc rút quân; và cuối cùng viện binh Gondor cũng tới, trên đường cái từ cả Đông và Tây dãy núi. Trước khi hết năm (2759) người Dunlending đã bị đuổi đi, kể cả ở Isengard; và rồi Fréaláf lên làm vua.

“Helm được đưa về từ Lũy Tù Và đặt trong nấm mồ thứ chín. Mãi từ đó về sau hoa simbelmynë trắng mọc ở đó dày nhất, khiến gò mộ trông như tuyết phủ. Khi Fréaláf chết, một dãy gò mới bắt đầu.”

Người Rohirrim suy yếu đi rất nhiều sau chiến tranh, nạn đói, cùng tổn thất về đàn gia súc và đàn ngựa; và điều may mắn là họ không còn phải chịu nguy cơ lớn nào trong nhiều năm nữa, vì phải đợi đến thời Vua Folcwine họ mới khôi phục được sức mạnh như xưa.

Vào lễ lên ngôi của Fréaláf Saruman xuất hiện, mang theo quà cáp và nói lời ngợi khen lòng anh dũng của người Rohirrim. Ai cũng đón chào ông ta hết mực. Chỉ ít lâu sau ông ta đã vào trú ở Isengard. Chính Beren Quốc Quản Gondor đã cho phép ông ta, vì Gondor vẫn coi Isengard là thành trì thuộc lãnh thổ mình, chứ không thuộc về Rohan. Beren cũng trao cho Saruman giữ chìa khóa Orthanc. Tòa tháp đó chưa từng có kẻ thù nào phá hay vào nổi.

Đấy là cách Saruman bắt đầu thi hành quyền lực với Con Người; vì ban đầu ông ta chỉ quản Isengard với tư cách phụ tá cho Quốc Quản và giám quan của tháp. Nhưng Fréaláf cũng vui mừng như Beren vì sự dàn xếp ấy, vì nghĩ Isengard giờ nằm trong tay bằng hữu uy phong. Quả là rất lâu sau ông ta vẫn đóng vai bằng hữu, và có thể đã thực là như vậy, ban đầu. Dù về sau chẳng còn mấy ai ngờ rằng Saruman tới Isengard vì hi vọng thấy Quả Cầu còn ở đó, cũng như tính toán xây lực lượng của riêng mình. Có điều chắc là sau Hội Đồng Trắng cuối cùng (2953), ông ta đã nuôi mưu đồ xấu xa với Rohan, dù giấu kín. Đó là lúc ông ta chiếm Isengard làm của riêng và bắt đầu xây dựng thành một nơi có sức mạnh và hãi sợ trong vòng canh gác, như để đua tranh cùng Barad-dûr. Bạn hữu và nô lệ ông ta tìm kiếm từ tất cả những kẻ căm ghét Gondor và Rohan, dù là Người hay là những sinh vật xấu xa hơn nữa.

Các Vua đất Mark

Dòng đầu

Năm[2]

[2] Các năm ở đây tính theo lịch Gondor (Kỉ Đệ Tam). Bên lề là năm sinh và năm mất.

2485-2545

1. Eorl Trẻ Tuổi. Đặt tên này vì ngài kế nghiệp cha khi còn trẻ và tới tận khi mất vẫn giữ được mái tóc vàng và sắc mặt hồng hào. Ngài mất sớm trong trận tấn công tiếp theo của bọn người phương Đông. Eorl chết trận trên thảo nguyên, gò mộ đầu tiên được đắp. Felaróf cũng được táng chung.

2512-2570

2. Brego. Ngài đánh đuổi quân địch khỏi thảo nguyên, Rohan không bị tấn công suốt nhiều năm sau đó. Tới năm 2569 ngài cất xong cung điện lớn Meduseld. Trong tiệc mừng nhà mới Baldor con trai ngài thề sẽ đi vào “Lối Người Chết” rồi không thấy trở về. Brego mất năm sau đó vì thương tiếc.

2544-2645

3. Aldor Già Cả. Ngài là thứ nam của Brego. Ngài được đời sau đặt hiệu “Già Cả” vì sống rất thọ và làm vua suốt 75 năm. Trong thời ngài, người Rohirrim sinh sôi thêm và đánh đuổi hoặc khuất phục nốt những người Dunlending cuối cùng còn nán lại bên Đông dòng Isen. Người dân tới định cư ở Hargdal và các thung lũng núi. Ba vị vua tiếp đó không để lại nhiều sự tích, vì Rohan được thanh bình thịnh vượng trong thời họ.

2570-2659

4. Fréa. Trưởng nam nhưng là con thứ tư của Aldor; khi lên làm vua ngài đã tới tuổi già.

2594-2680

5. Fréawine.

2619-2699

6. Goldwine.

2644-2718

7. Déor. Vào thời ngài người Dunlending thường xuyên vượt dòng Isen cướp phá. Năm 2710 chúng chiếm cứ vòng thành Isengard bỏ hoang, không thể đánh bật ra được.

2668-2741

8. Gram.

2691-2759

9. Helm Tay Búa. Tới cuối triều đại ngài Rohan phải chịu tổn thất nặng nề do xâm lăng và Mùa Đông Dài Dặc. Helm cùng các con trai Haleth và Háma tử trận. Fréaláf, con trai em gái Helm, lên làm vua.

Dòng hai

2726-2798

10. Fréaláf Hildeson. Chính trong thời ngài Saruman tới ở Isengard, sau khi bọn Dunlending đã bị đánh đuổi. Người Rohirrim ban đầu được nhờ cậy nhiều ở tình bằng hữu với ông ta trong thời kì đói kém và suy yếu ngay sau đó.

2752-2842

11. Brytta. Được dân tộc mình gọi là Léofa, vì ngài được tất thảy chúng dân yêu mến; ngài có tính hào sảng và thường trợ giúp người cơ hàn. Vào thời ngài xảy ra chiến tranh với bọn Orc chạy vào trú ẩn trong Dãy Núi Trắng khi bị đánh khỏi miền Bắc. Khi ngài chết, người ta nghĩ chúng đều đã bị đuổi đi hết, nhưng không phải vậy.

2780-2851

12. Walda. Ngài chỉ làm vua được chín năm. Ngài bị sát hại cùng cả đoàn tùy tùng khi mắc bẫy Orc trên đường từ Dunharg đi qua núi.

2804-2864

13. Folca. Ngài là một thợ săn tài ba, nhưng có lời thề không săn thú hoang chừng nào ở Rohan còn sót một tên Orc. Khi đồn Orc cuối cùng đã được phát hiện và tiêu diệt ngài lên đường săn con lợn lòi lớn ở Everholt trong rừng Firien. Ngài trừ khử được nó, nhưng chết vì vết răng húc.

2830-2903

14. Folcwine. Ngài lên ngôi khi người Rohirrim đã phục hồi sức mạnh. Ngài tái chiếm vùng biên Tây (giữa Adorn và Isen) đã bị người Dunlending cướp mất. Rohan từng được Gondor hỗ trợ tận tình trong những ngày nguy khốn. Vì thế khi nghe tin người Haradrim đang kéo quân hùng hậu tấn công Gondor, ngài cử rất nhiều quân xuống ứng cứu Quốc Quản. Ngài muốn tự mình dẫn quân ra trận nhưng bị can ngăn, nên cử hai con trai sinh đôi Folcred và Fastred (sinh 2858) đi thay thế. Cả hai ngã xuống bên nhau khi đánh trận ở Ithilien (2885). Túrin II vương quốc Gondor đưa tới Folcwine một lượng vàng lớn làm quà thường mạng.

2870-2953

15. Fengel. Ngài là con trai thứ ba và con thứ tư của Folcwine. Ngài không để lại nhiều kỉ niệm tốt đẹp. Ngài tham lam cả về đường ăn uống và của cải, thường xuyên xung khắc với các thống chế và các con. Thengel, con thứ ba và là con trai độc của ngài, đi khỏi Rohan khi tới tuổi trưởng thành tới Gondor sống rất lâu, giành được danh tiếng lớn khi phụng sự Turgon.

2905-2980

16. Thengel. Ngài không lấy vợ tới khi tuổi đã cao, nhưng năm 2943 ngài kết hôn cùng Morwen vùng Lossarnach nước Gondor, dù bà trẻ hơn ngài mười bảy tuổi. Bà sinh hạ cho ngài ba người con ở Gondor, người con thứ Théoden là con trai độc. Khi Fengel chết, người Rohirrim vời ngài trở lại, và ngài miễn cưỡng quay về. Nhưng ngài là một vị vua nhân hậu và thông thái, dù trong nhà ngài dùng ngôn ngữ Gondor, một điều không phải ai cũng tán đồng. Morwen còn sinh thêm cho ngài hai con gái ở Rohan; và người con út, Théodwyn, là người xinh đẹp nhất, dù ra đời muộn (2963), đứa con lúc tuổi già. Anh trai nàng yêu quý nàng rất mực.

Ít lâu sau khi Thengel trở về, Saruman tự xưng là Chúa Isengard và bắt đầu quấy nhiễu Rohan, tiến gần tới biên giới và hỗ trợ kẻ thù của họ.

2948-3019

17. Théoden. Tích truyện Rohan gọi ngài lá Théoden Ednew, vì ngài đã yếu nhược đi do phù phép của Saruman nhưng lại được Gandalf chữa lành, và vào năm cuối đời đã vùng dậy mà dẫn quân đánh thắng trận Lũy Tù Và, rồi sau đó lại tới Đồng Pelennor, trận đánh vĩ đại nhất toàn Kỉ Nguyên. Ngài hi sinh trước cổng tháp Mundburg. Trong ít lâu ngài nghỉ lại tại vùng đất mình đã sinh ra, giữa những vì Vua Gondor quá cố, nhưng rồi được đưa về đặt yên nghỉ ở nấm mồ thứ tám dòng mình trước Edoras. Sau ngài một dòng mới bắt đầu.

Dòng ba

Năm 2989 Théodwyn kết hôn với Éomund ở Eastfold, trưởng Thống Chế đất Mark. Con trai bà, Éomer, chào đời năm 2991, con gái Éowyn năm 2995. Tới thời đó Sauron đã lại trỗi dậy, bóng đen Mordor vươn dài về phía Rohan. Orc bắt đầu quấy phá các đồng phía Đông, tới giết hoặc ăn cắp ngựa. Nhiều tốp khác từ Dãy Núi Mù Sương đổ xuống, phần đông là bọn uruk to con phục vụ Saruman, dù phải rất lâu sau người ta mới ngờ tới điều đó. Éomund phụ trách chủ yếu là các vùng biên Đông; ông yêu quý ngựa cũng không thua gì căm ghét Orc. Mỗi khi nghe tới chúng tới ông lại bừng bừng lửa giận phóng ngựa đi, mang theo ít người và rất thiếu thận trọng. Đấy là nguyên do ông bị sát hại năm 3002, sau khi đuổi theo một nhóm nhỏ tới chân khu đồi Emyn Muil và ở đó bị đánh úp bởi đội quân rất mạnh đang phục sẵn giữa các vách đá.

Không lâu sau đó Théodwyn lâm bệnh qua đời, khiến nhà vua rất đỗi xót thương. Hai con bà được ngài đưa về sống cùng, gọi là con trai con gái mình. Chính ngài chỉ có một người con đẻ, con trai Théodred, lúc đó hai mươi tư tuổi; vì hoàng hậu Elfhild đã mất khi sinh nở, còn ngài không tục huyền. Éomer và Éowyn lớn lên tại Edoras, chứng kiến bóng tối phủ xuống cung điện của Théoden. Éomer bề ngoài giống hệt họ nội; nhưng Éowyn thì cao và thanh mảnh, có vẻ duyên dáng và kiêu hãnh từ dòng máu miền Nam của Morwen vùng Lossarnach, mà người Rohirrim gọi là Nước Thép.

2991-63 KĐ4 (3084)

Éomer Éadig. Ngài được phong Thống Chế đất Mark từ rất trẻ (3017), nối tiếp cha mình ở biên Đông. Trong cuộc Nhẫn Chiến, Théodred tử trận khi chiến đấu với Saruman ở đoạn vượt sông Isen. Vì thế trước khi tắt thở trên Đồng Pelennor, Théoden chỉ định Éomer làm người kế vị và gọi ngài là vua. Cùng hôm đó Éowyn cũng rước lấy danh tiếng lùng lẫy, vì bà cũng chiến đấu trong trận đó, mặc giả nam trang; và sau đó ở đất Mark được gọi là Công chúa Tay Khiên[3].

[3] Vì cánh tay bà giơ lên làm khiên chắn đã bị gãy khi trúng chùy của tên Vua phù thủy; nhưng hắn bị tiêu diệt thành hư vô, và từ đó lời nói của Glorfindel với Vua Eärnur rất lâu trước kia đã thành sự thực: rằng tên Vua phù thủy sẽ không bị bàn tay người đàn ông nào đánh ngã. Vì các bài hát đất Mark kể rằng chiến công ấy của Éowyn có sự hỗ trợ của lính hầu cận Théoden, và cả ông cũng không phải “Người” mà là một người Tí Hon từ vùng đất rất xa xôi đến, dù Éomer đã vinh danh ông ở đất Mark và đặt cho ông cái tên Holdwine. [Người có tên Holdwine này chẳng phải ai khác mà chính là Meriadoc Mãnh tướng, Chủ Trấn Hươu.]

Éomer trở thành vị vua vĩ đại, và vì nối ngôi Théoden khi còn trẻ, ngài trị vì sáu mươi lăm năm, lâu hơn mọi vì vua trước đó trừ Aldor Già Cả. Trong cuộc Nhẫn Chiến ngài đã kết bạn cùng Vua Elessar và Imrahil chúa Dol Amroth; và ngài rất thường cưỡi ngựa tới Gondor. Năm cuối cùng Kỉ Đệ Tam ngài kết hôn với Lothíriel, con gái Imrahil. Con trai họ, Elfwine Tuấn Tú, là người kế vị.

Ở đất Mark dưới thời Éomer, những ai mong muốn hòa bình đều có được hòa bình, và dân cư đông đúc thêm cả trên đồng bằng lẫn thung lũng, đàn ngựa cũng nhân thêm gấp bội. Lúc này Vua Elessar đã trị vì Gondor và cả Arnor. Toàn bộ lãnh thổ các vương quốc cổ xưa đều do ngài cai trị, ngoại trừ đất Rohan; vì ngài xác nhận lại món quả của Cirion cho Éomer, và Éomer nhắc lại Lời Ước của Eorl. Ngài đã nhiều lần có dịp thực hiện lời ấy. Vì dù Sauron đã ra đi, hận thù và cái ác do hắn gieo rắc vẫn chưa tuyệt diệt, và Vua miền Tây vẫn còn phải trấn áp nhiều kẻ thù nữa thì Cây Trắng mới được mọc yên bình. Và nơi nào Vua Elessar ra trận, Vua Éomer cũng đi cùng; và mãi bên kia Biển Rhûn cùng những cánh đồng xa xôi dưới miền Nam đều nghe vang rền vó ngựa đất Mark, lá cờ Ngựa Bạch nền Xanh vẫy gió rất nhiều nẻo đất trước khi Éomer đến tuổi già.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx