sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Hai Tòa Tháp - Quyển III - Chương 06 - Phần 1

Chương VI

NHÀ VUA TRONG CUNG ĐIỆN VÀNG

Họ phi mãi qua hoàng hôn, qua cảnh chạng vạng chậm rãi, và qua cả màn đêm nặng dần. Khi rốt cục họ dừng bước và xuống ngựa, ngay cả Aragorn cũng mỏi nhừ và kiệt sức. Gandalf chỉ cho phép họ nghỉ ngơi trong ít giờ. Legolas và Gimli ngủ, còn Aragorn ngửa người nằm duỗi thẳng ra đất; thế nhưng Gandalf vẫn đứng, tựa người trên trượng, nhìn dõi vào màn đêm, từ Đông sang Tây. Tất cả đều lặng im, không hề có dấu hiệu hay âm thanh nào của sự sống. Màn đêm còn phong kín bởi những dải mây dài, trôi theo cơn gió lạnh buốt, là họ đã trở dậy. Dưới trăng lạnh họ lại lên đường thêm một lần nữa, cũng nhanh chóng như dưới ánh sáng ban ngày.

Nhiều giờ trôi qua và họ vẫn phóng đi. Gimli ngủ quên suýt ngã khỏi lưng ngựa nếu Gandalf không chộp lấy lay gã tỉnh. Hasufel và Arod, mệt mỏi nhưng kiêu hãnh, vẫn bám theo thủ lĩnh không biết mệt của chúng, một bóng hình màu xám khó trông thấy ở phía trước. Những dặm đường cứ trôi về phía sau. Mặt trăng khuyết lặn dần xuống phía Tây mù mịt.

Cái lạnh thấu xương len vào trong không khí. Dần dần ở phía Đông bóng đêm nhạt đi thành màu xám lạnh. Những vệt sáng đỏ hắt lên phía trên những vách đen khu đồi Emyn Muil xa tít phía bên trái họ. Bình minh đến trong trẻo và rạng rỡ; một cơn gió quét ngang con đường của họ, cuốn qua những thân cỏ đổ rạp. Đột nhiên Scadufax đứng sững lại rồi hí vang. Gandalf chỉ tay về phía trước.

“Nhìn kìa!” ông kêu lớn, và họ nhướng những cặp mắt mệt mỏi lên. Đứng trước mặt họ là dãy núi miền Nam: đỉnh trắng và có những sọc đen. Thảo nguyên mấp mô lan đến sát cụm đồi chen chúc dưới chân dãy núi, cuộn lên cao thành nhiều thung lũng mờ ảo và tăm tối, khe thung lũng rộng nhất trong số đó ăn sâu vào như một cái vịnh dài giữa cụm đồi. Sâu bên trong họ thoáng thấy một khối núi lộn xộn với duy nhất một chóp núi cao, còn ở miệng khe thung lũng, như một viên lính gác, là một đỉnh cao vẫn chưa được ánh bình minh chạm đến, uốn lượn mà chạy vào tận trung tâm dãy núi sừng sững. Ngay trước mắt những người lữ hành đơn độc. Uốn lượn quanh chân đỉnh như dải bạc là dòng suối bắt nguồn từ trong thung lũng; dù vẫn còn rất xa, họ vẫn phát hiện thấy trên đỉnh ấy, trong ánh mặt trời mọc, một tia sáng lấp lánh sắc vàng.

“Nói đi, Legolas!” Gandalf nói. “Hãy nói cho chúng tôi biết anh nhìn thấy gì phía trước?”

Legolas nhìn chăm chú về phía trước, tay che mắt khỏi ánh mặt trời mới mọc ngang tầm mắt. “Tôi thấy một dòng nước trắng chảy xuống từ các ngọn tuyết phủ,” chàng nói. “Nơi dòng nước chảy ra khói bóng tối thung lũng mọc lên một quả đồi xanh ở phía Đông. Có một con hào, một tường thành lớn với bờ rào gai vây tròn lấy nó. Bên trong nhô lên rất nhiều mái nhà; và ở chính giữa, trên sàn hiên cao màu xanh, có một tòa nhà lớn của Con Người. Và trong mắt tôi, dường như tòa nhà ấy lợp mái bằng vàng. Ánh sáng từ đó tỏa ra khắp vùng đất. Những cột cổng cũng bằng vàng. Có vài người mặc giáp sáng ngời đang đứng đó tuy nhiên mọi người khác bên trong các sân đều đang ngủ.”

“Các sân triều đó được gọi là Edoras,” Gandalf nói, “còn Meduseld chính là tòa nhà vàng. Đó là nơi cư ngụ của Théoden con trai Thengel, Vua đất Mark có tên Rohan. Chúng ta đã đến đúng thời khắc ngày mới trỗi dậy. Giờ đây con đường đã trải ra rõ ràng ở phía trước. Nhưng chúng ta buộc phải cảnh giác mà đi tiếp; bởi chiến tranh đã lan rộng, và người Rohirrim, những Chúa Ngựa, không hề ngủ, cho dù trông có vẻ như vậy từ đằng xa. Tôi khuyên tất cả đừng rút vũ khí, đừng nói những lời ngạo mạn, cho đến khi chúng ta đến được trước ngai Théoden.”

Khi những người lữ hành đến được dòng nước, trời đã sáng bạch rõ ràng khắp xung quanh, chim chóc đang hót líu lo. Dòng nước chảy xiết xuống đồng bằng, ra đến phía ngoài cụm đồi nó vòng thật rộng cắt ngang con đường họ đi, rồi chảy về phía Đông tiếp nước cho dòng Luồng Ent bị sậy phủ đầy. Vùng đất thật xanh tốt: trong những đồng cỏ ngập nước và dọc hai bờ nước rậm cỏ mọc rất nhiều liễu. Ở vùng đất phía Nam này, liễu đã bắt đầu nhú đỏ ở đầu cành, vì cảm nhận mùa xuân đang đến gần. Vắt qua dòng nước có một khúc cạn giữa hai bờ thấp đã bị ngựa qua lại giẫm đạp nhiều. Những người lữ hành bèn vượt qua, rồi đến một lối đi rộng nhiều vết lún hướng lên khu đất cao.

Tới chân quả đồi có tường bao, con đường chạy dưới bóng mát của rất nhiều gò đất, cao và xanh, cỏ mọc trên các mặt gò phía Tây trắng muốt như thể vì tuyết đọng: những bông hoa nhỏ nảy ra như muôn vì sao giữa nền cỏ.

“Nhìn kìa!” Gandalf nói. “Đẹp làm sao những con mắt sáng trong cỏ! Hoa vĩnh kí là tên chúng, hay ở vùng đất này của Con Người thì gọi là simbelmynë, bởi chúng nở khắp các mùa trong năm, và mọc ở nơi người chết nằm xuống. Hãy xem! Chúng ta đã đến khu mộ lớn nơi cha ông Théoden yên nghỉ.”

“Bảy gò đất bên trái, và chín bên phải,” Aragorn nói. “Rất nhiều đời người đã trôi qua kể từ khi ngôi điện vàng được xây dựng.”

“Đã năm trăm lần những lá đỏ ở rừng Âm U quê tôi rụng xuống kể từ đó,” Legolas nói, “thế nhưng đối với chúng tôi chừng đó chỉ như trong chốc lát.”

“Nhưng đối với những kị sĩ đất Mark sự ấy có vẻ cách đây lâu lắm rồi,” Aragorn nói, “đến nỗi buổi dựng lên ngôi điện này chỉ còn là kí ức trong những bài ca, và những năm tháng trước nữa đã biến mất trong sương mù thời gian. Giờ họ gọi vùng đất này là quê hương của họ, của riêng họ, và ngôn ngữ của họ đã tách ra khỏi dòng dõi phía Bắc.” Rồi chàng bắt đầu nhẹ nhàng hát bằng một thứ ngôn ngữ chậm rãi mà chàng Tiên và gã Người Lùn không hề biết; song họ vẫn lắng nghe, bởi nó chứa nhạc điệu thật mạnh mẽ.

“Tôi đoán đó là ngôn ngữ của người Rohirrim,” Legolas nói; “bởi nó giống như chính vùng đất này; nhiều phần phong phú và trầm bổng, phần khác cứng rắn và lạnh lùng như dãy núi. Nhưng tôi không thể đoán ra ý nghĩa của nó là gì, trừ việc chứa chan nỗi buồn của Con Người Hữu Tử.”

“Trong Ngôn Ngữ Chung có nghĩa thế này,” Aragorn nói, “sát nghĩa nhất mà tôi có thể dịch được.

Đâu rồi tuấn mã cùng kị sĩ? Đâu rồi tù trỗi giọng oai hùng?

Đâu rồi khôi giáp đâu mâu đẹp, mái đầu tóc sáng xòa tung?

Đâu rồi tay lướt trên dây hạc, bên vuông bếp đỏ lửa bập bùng?

Đâu rồi xuân mới sang mùa gặt, bông lúa vươn mình vinh vung?

Qua rồi tất cả như mưa núi, như cơn gió vội tạt qua đồng;

Tháng ngày đã lặn sau đồi cuối về Tây chìm vào bóng không.

Rồi đây ai sẽ gom làn khói cuộn trên đám cháy những xác cây,

Ai sẽ ngóng nhìn năm cũ chảy từ Đại Dương quay về đây?

Đó là lời một nhà thơ bị lãng quên từ một thời rất xa ở Rohan, nhớ về chàng Eorl Trẻ Tuổi cao lớn và đẹp đẽ, đã phi ngựa xuống đây từ miền Bắc; và con tuấn mã của người mọc cánh dưới chân, Felaróf, cha của loài ngựa. Con người vẫn hát vậy vào buổi tối.”

Cùng những lời ấy các lữ khách đi qua những nấm mồ im lặng. Theo con đường quanh co dẫn lên bờ vai xanh của quả đồi, rồi họ cũng lên đến được những bức tường rộng dãi gió và cổng vào Edoras.

Rất nhiều người mặc giáp sáng choang đang ngồi đó, họ ngay lập tức bật dậy và chĩa giáo chặn đường. “Dừng lại, hỡi những người lạ mặt nơi đây không quen biết!” Họ thét lên bằng ngôn ngữ đất Riddermark, yêu cầu khai tên và mục đích của những người lạ mặt. Sự ngạc nhiên ánh lên trong mắt họ nhưng lại chẳng mấy thân thiện; và họ nhìn Gandalf tăm tối.

“Tôi hiểu rõ lời nói của các anh,” ông trả lời bằng ngôn ngữ ấy, “song không có nhiều người ngoài như vậy. Sao các anh không nói bằng Tiếng Nói Chung, như ở Miền Tây vẫn thường làm vậy, nếu muốn được trả lời?”

“Theo ý chỉ của Théoden Vương không ai được đi qua cổng đây, trừ những người biết ngôn ngữ của chúng ta và là bạn của chúng ta,” một người trong toán lính gác đáp lời. “Không ai được chào đón ở đây vào thời buổi chiến tranh trừ người của chúng ta, và những người đến từ Mundburg đất Gondor. Các người là ai mà liều lĩnh vượt bình nguyên và dù ăn mặc lạ mắt nhưng lại cưỡi ngựa giống in ngựa của chúng ta? Chúng ta đã canh gác ở đây từ lâu rồi và chúng ta cũng đã theo dõi các người từ xa. Chúng ta chưa từng thấy toán kị sĩ nào lạ lùng như vậy, cũng như chưa thấy bất cứ con ngựa nào kiêu hãnh như một trong những con đang mang các ngươi. Nó là một trong số Mearas, trừ phi mắt chúng ta bị câu thần chú nào đó đánh lừa. Nói đi, các người không phải là phù thủy, hay gián điệp của Saruman, hay ma quỷ gì từ tay hắn chứ? Hay nói ngay và nhanh lên!”

“Chúng tôi không phải là ma quỷ,” Aragorn nói, “và mắt các anh cũng không lừa các anh. Bởi những con ngựa chúng tôi cưỡi chính là của các anh, như tôi đoán là các anh đã biết rõ từ trước khi hỏi. Nhưng chẳng mấy khi trộm ngựa lại cưỡi ngựa trở về chuồng đâu. Đây là Hasufel và Arod, mà Éomer, Đệ Tam Thống Chế đất Mark, cho chúng tôi mượn mới chỉ hai ngày trước. Giờ chúng tôi đưa chúng về như hứa với anh ấy. Chẳng lẽ Éomer chưa về đây và báo trước rằng chúng tôi sắp đến sao?”

Vẻ bối rối hiện ra trong mắt tay lính gác. “Về Éomer tôi không có gì để nói,” anh ta trả lời. “Nếu điều anh nói với tôi là sự thật, thì không phải nghi ngờ Théoden đã nghe về nó. Có lẽ việc các anh đến đây không phải hoàn toàn không được dự liệu đâu. Mới hai đêm trước thôi Lưỡi Giun đến chỗ chúng tôi và nói rằng theo ý chỉ của Théoden không người lạ mặt nào được đi qua những cánh cổng này.”

“Lưỡi Giun ư?” Gandalf vừa nói vừa nhìn xoáy vào tay lính gác. “Đừng nói gì nữa! Mục đích của tôi không liên quan tới Lưỡi Giun, mà liên quan tới chính Chúa đất Mark. Tôi đang rất vội. Anh không định đi hoặc cử người đi báo rằng chúng tôi đã đến ư?” Mắt ông bừng sáng dưới cặp lông mày rậm khi hướng cái nhìn chằm chằm lên người kia.

“Được, tôi sẽ đi,” anh ta trả lời chậm rãi. “Nhưng tôi sẽ phải thông báo tên gì đây? Và tôi sẽ phải nói gì về ông? Lúc này trông ông có vẻ già cả và mỏi mệt, song ở bên trong ông lại lẫm liệt và đáng sợ, tôi thấy vậy.”

“Anh thấy và nói đúng đấy,” thầy phù thủy nói. “Bởi ta là Gandalf. Ta đã trở lại. Và nhìn xem! Ta cũng đem về con ngựa. Đây là Scadufax Vĩ Đại, mà không một bàn tay nào khác có thể thuần phục được. Và đây bên cạnh ta là Aragorn con trai Arathorn, người kế vị dòng Vua, anh ấy đang trên đường đến Mundburg. Đây nữa là Legolas người Tiên và Gimli Người Lùn đồng đội của ta. Hãy đi ngay mà nói với chủ nhân của anh rằng chúng ta đang ở trước cổng và mong được nói chuyện với ngài, nếu chúng ta được phép vào cung điện.”

“Những cái tên ông giới thiệu quả là lạ tai! Nhưng tôi sẽ thông báo lại theo yêu cầu của ông, để biết ý của chủ nhân tôi thế nào,” tay lính gác nói. “Hãy đợi ở đây ít lâu, rồi tôi sẽ mang đến cho ông câu trả lời nào mà người thấy thích họp. Đừng kì vọng nhiều quá! Giờ đang là những ngày đen tối.” Anh ta vội vã ra đi, bỏ những người lạ ở lại dưới con mắt canh chừng cảnh giác của đồng đội.

Một lát sau anh ta quay lại. “Hãy theo tôi!” anh ta nói. “Théoden cho phép các ông vào; nhưng mọi vũ khí các ông mang theo, kể cả chỉ là cây gậy, đều phải để lại ở lối vào. Người giám môn sẽ giữ chúng.”

Hai cánh cổng màu tối được mở ra. Đoàn lữ hành đi vào, bước hàng một phía sau người hướng dẫn. Họ gặp một con đường rộng rãi, lát bằng đá đẽo, lúc lượn vòng đi lên, lúc lại dẫn thẳng lên qua những đợt cầu thang ngắn được săp đặt vững chãi. Họ đi qua nhiều căn nhà gỗ cùng nhiều cánh cổng màu tối. Bên cạnh con đường có một suối nước trong chảy trong kênh đá, lấp lánh và róc rách. Cuối cùng họ cũng lên đến được đỉnh đồi. Ở đó có một thềm cao phía trên một sân hiên màu xanh, dưới chân hiên có một dòng nước sáng phun ra từ tảng đá chạm hình đầu ngựa; phía dưới có một chậu lớn để nước tràn ra lại nhập vào dòng suối đang đổ xuống. Dẫn lên sân hiên xanh là một cầu thang bằng đá, cao và rộng, hai bên bậc trên cùng có hai bệ ngồi tạc vào đá. Ngồi ở đó là một toán lính gác khác, kiếm tuốt trần đặt ngang đầu gối. Mái tóc vàng tết lại trên vai họ; ánh mặt trời tô điểm những tấm khiên màu xanh lục, những bộ giáp dài đánh sáng loáng, và khi đứng dậy họ dường như cao lớn hơn người trần.

“Cửa ở phía trước các ông đấy,” người dẫn đường nói. “Giờ tôi phải trở lại vị trí ở cổng. Tạm biệt! Cầu mong Chúa đất Mark nhân từ với các ông!”

Anh ta quay người rồi vội vã đi xuống con đường. Những người còn lại trèo lên cầu thang dài dưới ánh mắt theo dõi của toán cận vệ cao lớn. Họ giờ đứng im lặng trên cao không nói lời nào, cho đến tận khi Gandalf bước lên khoảng sân hiên lát đá trên đầu cầu thang. Rồi đột nhiên cất giọng trong trẻo họ cất lời chào nhã nhặn bằng ngôn ngữ của mình.

“Chào mừng, những người đến từ phương xa!” họ nói, rồi xoay chuôi kiếm về phía những người lữ hành để tỏ dấu hiệu hòa bình. Những viên ngọc xanh lóe sáng dưới ánh mặt trời. Rồi một người cận vệ bước lên và nói bằng Ngôn Ngữ Chung.

“Tôi là Giám Môn của Théoden,” anh ta nói. “Háma là tên tôi. Tôi phải yêu cầu các ông để vũ khí lại ở đây trước khi đi vào.”

Thế rồi Legolas đặt vào tay anh ta con dao cán bạc, bao tên và cây cung. “Hãy giữ gìn cho cẩn thận,” chàng nói, “bởi chúng đến từ khu Rừng Vàng và chính Phu Nhân rừng Lothlórien đã tặng chúng cho tôi.”

Vẻ kinh ngạc hiện lên trong mắt người kia, anh ta liền vội vã đặt chúng xuống cạnh bức tường, như thể sợ hãi phải tiếp tục cầm. “Sẽ không ai chạm vào chúng đâu, tôi hứa với ông như vậy,” anh ta nói.

Aragorn đứng ngập ngừng một lúc. “Không bao giờ ý nguyện của tôi,” Aragorn nói, “lại muốn để lại kiếm hay trao thanh Andúril vào tay bất kì người nào khác.”

“Đó là ý nguyện của Théoden,” Háma nói.

“Tôi không rõ tại sao ý nguyện của Théoden con trai Thengel, cho dù ông ấy là chúa đất Mark, lại có thể khuất phục ý nguyện của Aragorn con trai Arathorn, người kế vị Elendil vương quốc Gondor.”

“Đây là nhà Théoden, chứ không phải nhà Aragorn, cho dù anh ta có là Vua Gondor ngồi trên ngai vàng của Denethor,” Háma vừa nói vừa bước nhanh đến trước cánh cửa và chặn đường. Thanh kiếm đã nằm trong tay anh ta, mũi hướng về phía những người lạ mặt.

“Nói chuyện kiểu này không đi đến đâu cả,” Gandalf nói. “Mệnh lệnh của Théoden là không cần thiết nhưng chống lại cũng chẳng ích lợi gì. Mỗi nhà vua đều theo ý riêng trong cung điện mình, cho dù điên rồ hay sáng suốt.”

“Thật vậy,” Aragorn nói. “Và tôi sẽ làm như chủ nhân của ngôi nhà yêu cầu, kể cả nếu đây chỉ là cái chòi canh rừng, nếu thanh kiếm tôi mang là bất kì thanh nào khác chứ không phải Andúril.”

“Dù nó tên là gì đi nữa,” anh ta nói, “thì anh vẫn phải để nó lại đây nếu anh không muốn một mình chống lại toàn bộ quân Edoras.”

“Không một mình đâu!” Gimli vừa nói vừa lướt ngón tay trên lưỡi cây rìu, và sầm mắt nhìn tay cận vệ, như thể anh ta chỉ là một cây non mà Gimli sẵn lòng đốn hạ. “Không một mình đâu!”

“Nào, nào!” Gandalf nói. “Chúng ta đều là bạn bè ở đây. Hoặc nên là như vậy; bởi tiếng cười khoái trá của Mordor sẽ là phần thưởng duy nhất cho chúng ta, nếu chúng ta xích mích. Nhiệm vụ của tôi gấp gáp lắm. Ít nhất thì đây là thanh kiếm của tôi, Háma trung thành ạ. Hãy giữ nó cho cẩn thận. Nó được gọi là Glamdring, bởi người Tiên đã làm ra nó cách đây lâu rồi. Giờ hãy để tôi qua. Nào, Aragorn!”

Aragorn chậm rãi tháo thắt lưng rồi tự mình dựng thanh kiếm tựa lên tường. “Tôi đặt nó ở đây,” chàng nói, “nhưng tôi ra lệnh cho anh không được sờ vào nó, cũng không được cho phép ai đặt tay lên nó. Trong cái bao kiếm Tiên này có một Lưỡi Kiếm Gãy nhưng đã được rèn lại. Telchar là người đầu tiên rèn nó trong những tầng sâu thời gian. Cái chết sẽ đến với bất cứ ai rút thanh kiếm của Elendil mà không phải người kế vị Elendil.”

Người cận vệ lui lại nhìn Aragorn sửng sốt. “Dường như ngài đã tới đây trên đôi cánh một bài ca từ những tháng ngày bị lãng quên,” anh ta nói. “Sẽ là như vậy theo mệnh lệnh của ngài, thưa vương tử.”

“Chà,” Gimli nói, “nếu có Andúril làm bầu bạn với mình, thì cây rìu của ta có thể ở lại đây, mà không phải xấu hổ,” và đặt nó xuống sàn. “Rồi đấy, nếu tất cả mong muốn của ngươi đã xong, hãy để chúng ta đi nói chuyện với chủ nhân ngươi.”

Người cận vệ vẫn lưỡng lự. “Cây gậy của ông,” anh ta nói với Gandalf. “Xin thứ lỗi, nhưng nó cũng phải được để lại trước cửa.”

“Thật ngu xuẩn!” Gandalf nói. “Thận trọng là một chuyện, nhưng khiếm nhã lại là một chuyện khác đấy. Tôi già rồi. Nếu tôi không được chống gậy mà đi, thì tôi sẽ ngồi ngoài này, cho đến khi đích thân Théoden tập tễnh ra đây mà nói chuyện với tôi.”

Aragorn bật cười. “Ai cũng có gì đó quá quý báu chẳng thể trao vào tay người khác. Nhưng lẽ nào anh lại đi chia rẽ một ông già với chỗ dựa của ông ấy? Nào, anh định không để chúng tôi vào sao?”

“Cây gậy trong tay phù thủy có lẽ còn hơn cả chiếc nạng cho người già,” Háma nói. Anh ta săm soi nhìn cây trượng tần bì Gandalf đang chống. “Song lúc hoài nghi, một người hiểu biết sẽ tin vào xét đoán sáng suốt của mình. Tôi tin rằng các ông là những người bạn và là những người trọng danh dự, không có mục đích xấu xa. Các ông có thể vào.”

Toán cận vệ nhấc những thanh chắn cửa nặng nề lên rồi đẩy cửa từ từ vào trong, nó kêu ken két nơi những bản lề lớn. Các lữ khách đi vào. Ở bên trong có vẻ tối và ấm so với bầu không khí trong trẻo trên đồi. Cung điện dài và rộng, đầy bóng đổ và ánh sáng chập chờn; những cột trụ khổng lồ đỡ lấy phần mái cao ngất. Thế nhưng đây đó vẫn có những chùm tia mặt trời sáng chói chiếu xuống thành những vệt lấp lánh từ các ô cửa sổ phía Đông, cao tít dưới mái hiên sâu. Đằng sau những tấm mái hắt trên trần, bên trên những làn khói mỏng thoát ra, bầu trời hiện ra nhợt nhạt và xanh. Khi mắt nhìn rõ lại, đoàn lữ hành thấy nền điện lát những viên đá nhiều màu sắc; những chữ rune tỏa nhánh và những họa tiết kì lạ cuộn vào nhau dưới chân họ. Giờ họ mới thấy các cột trụ được chạm khắc rất tinh vi, le lói ánh vàng và cả những màu sắc khó nhận biết. Có nhiều tấm vải dệt treo trên tường, và diễu qua mặt vải rộng là những nhân vật từ huyền thoại cổ xưa, một số đã mờ đi vì năm tháng, số khác tối thui trong bóng tối. Nhưng ánh mặt trời chiếu sáng một trong số đó: một người trẻ tuổi cưỡi trên con ngựa trắng. Người đó đang thổi một chiếc tù và lớn, mái tóc vàng tung bay trong gió. Đầu con ngựa vươn lên, hai lỗ mũi mở to và đỏ vì đang hí vang, đánh hơi thấy chiến trận đằng xa. Quanh đầu gối nó mặt nước tung bọt, xanh và trắng, đổ ào và cuộn chảy.

“Hãy chiêm ngưỡng Eorl Trẻ Tuổi!” Aragorn nói. “Người đang phi khỏi miền Bắc để tham gia Trận Chiến trên đồng Celebrant.”

Lúc này bốn người lữ hành tiến lên trước, đi qua đống củi cháy sáng rỡ trên ô bếp dài chính giữa phòng. Rồi họ dừng lại. Tại đầu kia tòa nhà, phía bên kia ô bếp và quay ra cửa về phía Bắc, có một bệ lớn ba bậc; ở chính giữa bệ có một chiếc ngai lớn mạ vàng. Ngồi trên ngai là một người còng rạp vì tuổi tác đến nỗi trông gần như một Người Lùn; nhưng mái tóc bạc lại dài và dày, chảy xuống thành từng bím lớn từ dưới vành miện vàng đặt trên đầu. Chính giữa vành miện trên trán ông sáng ngời một viên kim cương trắng. Bộ râu ông trải ra như tuyết trên đầu gối; nhưng đôi mắt vẫn cháy như ngọn lửa sáng, lóe lên khi ông nhìn những người lạ mặt. Đứng sau ngài là một người con gái vận đồ trắng. Ngồi dưới chân ông, trên bậc bệ, là một hình người nhăn nheo, khuôn mặt tái khôn ngoan và đôi mắt có mi sùm sụp.

Tất cả đều im lặng. Ông già không hề cử động trên ngai. Cuối cùng Gandalf lên tiếng. “Xin kính chào, Théoden con trai Thengel! Tôi đã trở lại. Bởi hãy nhìn xem! Cơn bão đang đến, và giờ bạn bè cần phải tập trung lại cùng nhau, kẻo từng người riêng rẽ sẽ bị tiêu diệt.”

Ông già chậm chạp vươn người đứng lên, nặng nhọc tựa mình vào cây gậy ngắn màu đen tay cầm bằng xương trắng; và đến giờ những người lạ mặt nhận thấy, dù còng, nhưng ông ta vẫn cao và thuở còn trẻ chắc hẳn đã từng rất cao lớn và kiêu hãnh.

“Ta chào ông,” ông ta nói, “và có lẽ ông đang trông đợi một sự đón mừng. Nhưng sự thật là sự đón mừng đó ở đây không lấy gì làm chắc, lão Gandalf ạ. Ông lúc nào cũng là sứ giả đưa tin thống khổ. Những điều rắc rối theo chân ông như lũ quạ, càng lúc càng tệ hại hơn. Ta không lừa gạt ông đâu: khi ta nghe tin Scadufax quay về mà không người cưỡi, ta mừng vì ngựa trở về, nhưng còn vui mừng hơn vì không còn tay kị sĩ ; và khi Éomer báo rằng ông rốt cục đã ra đi về ngôi nhà dài của ông, ta cũng chẳng thương tiếc. Nhưng tin tức từ xa hiếm khi là sự thật. Giờ ông lại đến đây! Và đến cùng ông là những điều xấu xa còn tồi tệ hơn trước, đúng như dự đoán. Tại sao ta lại phải đón mừng ông, hả Gandalf Chim Lợn? Hãy nói xem.” Rồi ông ta lại từ từ ngồi xuống ngai.

“Người nói thật chính xác, thưa chúa công,” gã người tái mét ngồi trên bậc bệ ngai nói. “Vẫn chưa đến năm ngày kể từ tin báo cay đắng cho biết Théodred con trai người đã bị giết chết ở Tây Biên Thùy: cánh tay phải của người. Đệ Nhị Thống Chế đất Mark. Còn Éomer chẳng thể trông cậy nhiều. Nếu hắn được phép cầm quân, sẽ chẳng còn nhiều lính ở lại gác tường thành của người. Và ngay lúc này đây chúng ta đã hay tin từ Gondor rằng Chúa Tể Hắc Ám đang trở dậy ở miền Đông. Đó chính là thời khắc kẻ lang thang này cố tình trở lại. Đúng vậy, tại sao chúng ta phải đón mừng ông, hả lão Chim Lợn? Tôi đặt cho ông cái tên Láthspell, Tin xấu; và người ta nói tin xấu luôn là một vị khách xấu.” Hắn vừa cười cay độc, vừa nhướng hàng mí sụp trong chốc lát mà đưa cặp mắt tăm tối nhìn những người lạ mặt.

“Ngươi vẫn hằng được coi là khôn ngoan, anh bạn Lưỡi Giun của ta, và hẳn nhiên là chỗ dựa lớn lao cho chủ nhân ngươi,” Gandalf trả lời bằng một giọng nhẹ nhàng. “Song người ta có thể đến cùng tin xấu một trong hai cách. Người đó có thể là nguyên do cái xấu; hoặc có thể thuộc loại người chẳng dây vào lúc tốt, mà chỉ đến cứu giúp vào lúc khó khăn.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx