sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Hai Tòa Tháp - Quyển III - Chương 07 - Phần 1

Chương VII

HẺM HELM

Mặt trời đã ngả về phía Tây khi họ bắt đầu khởi hành từ Edoras, và ánh nắng tràn đầy trong mắt họ, khiến mọi cánh đồng Rohan nhấp nhô nhuốm màu vàng mờ ảo. Có một con đường mòn hướng về phía Tây Bắc men theo chân dãy núi Trắng, và họ đi theo đường ấy, hết lên lại xuống trên vùng đất xanh ngắt, vượt rất nhiều khúc cạn qua những dòng suối nhỏ chảy xiết. Xa phía trước về bên phải, dãy núi Mù Sương hiện ra lừng lững; cứ mỗi dặm đường trôi qua nó lại thêm tối sẫm và cao vợi. Mặt trời chậm rãi lặn xuống phía trước họ. Buổi đêm buông xuống đằng sau.

Đoàn quân vẫn tiến lên phía trước. Sự cấp bách thúc giục họ. Sợ đến nơi quá muộn, họ phi với tất cả tốc lực, hiếm khi dừng lại. Nhanh nhẹn và trường sức là những chiến mã Rohan, nhưng có quá nhiều lí đường phải vượt qua. Khoảng bốn mươi lí hoặc hơn, tính theo đường chim bay, là quãng đường từ Edoras đến khúc cạn dòng Isen, nơi họ hi vọng bắt kịp những người lính của nhà vua đang kìm giữ đạo quân của Saruman.

Bóng đêm sập xuống quanh họ. Cuối cùng họ cũng dừng chân dựng trại. Họ đã phi suốt trong khoảng năm giờ và đã đi sâu vào bình nguyên phía Tây, song quá nửa cuộc hành trình vẫn còn ở phía trước. Lúc này bên dưới bầu trời đầy sao cùng mặt trăng khuyết họ đóng quân thành một vòng tròn lớn. Họ không nhóm lửa, bởi không nắm được tình hình xung quanh; nhưng họ lập một vòng kị sĩ gác xung quanh, và cử trinh sát tiến xa lên phía trước, lẩn đi như những cái bóng trong những nếp đất mấp mô. Buổi đêm chậm chạp trôi qua mà không hề có tin tức hay báo động nào. Tảng sáng tiếng tù và cất lên, và chỉ trong vòng một giờ họ đã lại lên đường.

Vẫn chưa có mây ở trên đầu, nhưng bầu không khí có vẻ nặng nề; trời nóng bất thường so với mùa này trong năm. Mặt trời mọc giữa quầng sương mù, và ở phía sau, bám theo mặt trời chầm chậm lên cao, có một vùng tối đang lớn dần, như một cơn bão lớn đang kéo đến từ phương Đông. Và xa tít về hướng Tây Bắc dường như có một vùng tối khác bao phủ xung quanh chân dãy núi Mù Sương, một bóng đen đang từ từ bò xuống từ thung lũng Phù Thủy.

Gandalf giảm tốc lui xuống gặp Legolas đang phi ngựa bên Éomer. “Anh có đôi mắt tinh tường của nòi Tiên, Legolas,” ông nói, “và có thể phân biệt chim sẻ với chim chích cách cả lí. Hãy cho tôi biết anh có thấy bất cứ gì đằng kia hướng Isengard không?”

“Có rất nhiều dặm đường nằm xen giữa,” Legolas vừa nói vừa chăm chú nhìn phía đó, bàn tay dài che mắt. “Tôi nhìn thấy một vùng tối. Có rất nhiều hình thù đang di chuyển bên trong những hình thù rất lớn ở xa hơn trên bờ sông; nhưng chúng là gì thì tôi không nhận ra được. Không phải là sương khói hay mây mù đã đánh bại mắt tôi: mà là quyền năng nào đó đã phủ tấm màn tối lên vùng đất, và nó đang từ từ đi xuống xuôi dòng. Như thể là ánh chạng vạng dưới đám cây cối bất tận đang chảy xuống từ dãy đồi.”

“Và ở đằng sau chúng ta chính cơn bão từ Mordor đang kéo đến,” Gandalf nói. “Sẽ là một đêm đen tối đây.”

Ngày thứ hai trong cuộc hành trình trôi qua, bầu không khí càng nặng nề hơn. Vào buổi chiều mây đen bắt đầu đuổi kịp họ: một bức vòm tăm tối với những mép viền cuồn cuộn điểm những đốm sáng chói. Mặt trời lặn xuống màu đỏ máu trong màn mây khói mờ ảo. Mũi giáo của đội kị sĩ như bịt lửa khi những vệt sáng cuối cùng ánh lên trên những mặt dốc đứng của ba đỉnh Thrihyme: giờ đã ở rất gần khi họ đứng trên nhánh cực bắc dãy núi Trắng, ba chỏm núi nhọn hoắt nổi bật trong ánh hoàng hôn. Trong ánh hừng đỏ cuối cùng những người trong đội tiên phong nhìn thấy một đốm đen, một kị sĩ đang phi ngựa ngược về phía họ. Họ dừng lại chờ anh ta.

Anh ta đến, một người mệt lử, mũ trụ đã méo và khiên đã bị chẻ. Anh ta từ từ xuống ngựa đứng thở dốc trong một lát. Rồi cuối cùng anh ta lên tiếng. “Có Éomer ở đây không?” anh ta hỏi. “Rốt cục các anh cũng đến, nhưng đã quá muộn rồi, và với lực lượng quá ít ỏi. Mọi thứ đều xấu đi kể từ khi Théodred ngã xuống. Ngày hôm qua chúng tôi đã bị đẩy lui qua khỏi dòng Isen với tổn thất nặng nề; nhiều người đã bỏ mạng trong lúc vượt sông. Rồi đến đêm lại có những đội quân mới vượt sông tấn công trại chúng tôi. Chắc hẳn toàn bộ Isengard đều được huy động; Saruman đã vũ trang cho lũ người hoang miền núi và bầy người vùng Dunland ở bên kia dòng sông, và hắn cũng sai bọn này tấn công chúng tôi. Chúng tôi đã bị chế ngự. Bức tường khiên bị phá vỡ. Erkenbrand chúa Westfold đã rút toàn bộ số quân còn tập hợp được đưa về căn cứ của ngài ở hẻm Helm. Số còn lại đã chạy tán loạn hết.

“Éomer đâu rồi? Hãy nói với ngài chẳng còn hi vọng nào ở phía trước nữa đâu. Ngài nên trở lại Edoras trước khi lũ sói của Isengard đến được đó.”

Théoden nãy giờ vẫn ngồi im lặng, khuất khỏi tầm nhìn của người kia phía sau toán lính gác; giờ ông thúc ngựa lên phía trước. “Nào, hãy đến đứng trước mặt ta, Ceorl!” ông nói. “Ta đây rồi. Đội quân cuối cùng của Eorlingas đã tiến bước. Chúng ta sẽ không trở lại mà chưa tham chiến.”

Khuôn mặt người lính sáng lên hân hoan và kinh ngạc. Anh ta đứng thẳng dậy. Rồi anh quỳ sụp xuống, dâng thanh kiếm sứt mẻ về phía nhà vua. “Hãy ban lệnh, thưa chúa công!” Anh ta kêu lớn. “Và xin người thứ lỗi! Thần tưởng...”

“Ngươi tưởng ta vẫn còn ở Meduseld lọm khọm như một cái cây già dưới tuyết mùa đông. Đúng là như vậy khi ngươi ra chiến trường. Thế nhưng một cơn gió Tây đã làm lung lay cành lá,” Théoden nói. “Hãy mang đến cho người này một con ngựa mới! Chúng ta hãy tiến quân trợ giúp Erkenbrand!”

Trong khi Théoden nói chuyện, Gandalf đã cưỡi ngựa lên phía trước một quãng ngắn, và ông ngồi đó một mình, nhìn chăm chú lên phía Bắc hướng Isengard rồi phía Tây nơi mặt trời lặn. Giờ ông quay lại.

“Đi thôi, Théoden!” ông nói. “Hãy đến hẻm Helm! Xin đừng đi tiếp đến khúc cạn dòng Isen, và đừng nán lại trên đồng bằng! Tôi phải chia tay các ngài trong ít lâu. Giờ Scadufax phải chở tôi đi một công chuyện khẩn cấp.” Quay sang Aragorn và Éomer cùng gia binh của nhà vua, ông hô lớn: “Hãy chăm sóc chu đáo Chúa đất Mark, cho đến khi tôi trở lại. Hãy đợi tôi ở cổng Helm! Xin từ biệt!”

Ông nói gì đó với Scadufax, rồi như một mũi tên rời dây cung con ngựa cao lớn lao vút đi. Họ còn chưa kịp nhìn rõ thì nó đã đi mất: một ánh bạc lóe trong hoàng hôn, một cơn gió thổi qua thảm cỏ, một cái bóng thoắt đã lướt khỏi tầm mắt. Snawmana phì hơi chồm lên, nóng lòng đuổi theo; thế nhưng chỉ có chim én vẫy đôi cánh mới có thể theo kịp.

“Như vậy có nghĩa là sao?” một người trong toán cận vệ hỏi Háma.

“Nghĩa là Gandalf Greghama cần phải khẩn trương,” Háma trả lời. “Lúc nào ông ấy đi hay đến cũng chẳng ai lường được.”

“Lưỡi Giun, nếu hắn có ở đây, có lẽ sẽ chẳng khó tìm lời giải thích,” người kia nói.

“Cũng đúng đấy,” Háma nói, “nhưng về phần mình, tôi sẽ đợi đến khi nào gặp lại Gandalf.”

“Có lẽ anh phải đợi lâu đấy,” người kia nói.

Giờ đoàn quân rời khỏi con đường dẫn đến khúc cạn dòng Isen mà chuyển hướng xuống phía Nam. Đêm xuống, và họ vẫn tiến bước. Dãy núi tiến lại gần, thế nhưng những chóp cao cụm Thrihyme đã mờ đi trên nền trời đang sầm tối. Vẫn còn cách vài dặm nữa, nơi đầu kia thung lũng Westfold khổng lồ ăn vào trong dãy núi, có một lòng chảo xanh tốt, ở trong cùng lòng chảo một hẻm núi mở ra. Người dân vùng này gọi đấy là hẻm Helm, theo tên vị anh hùng trong những cuộc chiến xa xưa từng đến đó ẩn náu. Càng luồn lách vào sâu bên trong, từ phía Bắc dưới tầng bóng đổ của Thrihyme, hẻm núi càng dựng dứng và hẹp dần cho đến khi những sườn đá quạ ám vươn lên như những tòa tháp sừng sững ở cả hai phía, che khuất cả ánh sáng.

Tại cổng Helm, đặt trước miệng hẻm, có một gót đá đâm ra dưới vách núi phía Bắc. Trên triền gót đá sừng sững những vòng tường cao bằng đá cổ, trong cùng là một tòa tháp cao vút. Người ta nói rằng vào những ngày vinh quang xa xưa của Gondor, các vị vua biển đã xây dựng căn cứ này nhờ tay những người khổng lồ. Nó được gọi là Lũy Tù Và, bởi mỗi khi tiếng kèn đồng cất lên trên tòa tháp sẽ vang vọng trong hẻm phía sau như thể những đoàn quân bị lãng quên từ lâu đang đổ ra tham chiến từ những hang sâu dưới lòng núi. Người xưa còn xây một bức thành kéo dài từ Lũy Tù Và đến vách núi phía Nam, chắn ngang lối vào trong hẻm. Luồn dưới chân thành, suối hẻm chảy ra qua một lòng cống rộng. Dòng suối lượn quanh chân Hòn Lũy, rồi chảy thành con kênh cắt qua khoảng đất rộng xanh tốt trải xuống thoai thoải từ cổng Helm đến hào Helm. Từ đó nó đổ xuống lòng chảo hẻm rồi chảy vào thung lũng Westfold. Lũy Tù Và tại cổng Helm là nơi cư ngụ của Erkenbrand, chủ nhân Westfold trên biên cương đất Mark. Khi ngày tháng trở nên đen tối vì những điềm báo chiến tranh, ông đã sáng suốt sửa chữa tường thành và gia cố căn cứ vững chắc hơn.

Đoàn kị sĩ vẫn ở dưới lũng thấp trước miệng lòng chảo, khi họ nghe thấy những tiếng hò hét và tiếng tù và của toán trinh sát đi phía trước. Tên từ bóng tối bay ra vèo vèo. Rất nhanh đã thấy một trinh sát quay lại báo rằng bọn cưỡi sói đã tràn tới đáy thung lũng, và rằng một đội quân Orc lẫn người hoang đang hăm hở tiến về phía Nam từ khúc cạn dòng Isen và có vẻ như đang hướng tới hẻm Helm.

“Chúng thần tìm thấy rất nhiều người của chúng ta nằm chết trên đường tháo chạy khỏi đó,” người lính trinh sát nói. “Và chúng thần cũng gặp những toán tàn quân, chạy nháo nhác không có ai chỉ huy. Có vẻ như chẳng ai biết điều gì đã xảy ra với Erkenbrand. Rất có thể ngài sẽ bị đuổi kịp trước khi đến được cổng Helm, nếu ngài còn chưa tử trận.”

“Có dấu hiệu nào của Gandalf không?” Théoden hỏi.

“Có, thưa chúa công. Nhiều người đã nhìn thấy một ông già mặc đồ trắng cưỡi trên lưng ngựa, phi qua hết chỗ này đến chỗ khác trên bình nguyên như cơn gió thổi qua đồng cỏ. Vài người tưởng đó là Saruman. Có tin nói rằng trước khi màn đêm buông xuống ông ấy đã bỏ đi về phía Isengard. Cũng có vài người nói họ nhìn thấy Lưỡi Giun trước đó, đi về phía Bắc cùng một đội quân Orc.”

“Sẽ không hay cho Lưỡi Giun, nếu Gandalf đuổi kịp hắn,” Théoden nói. “Dù thế nào thì ta cùng đã lỡ mất cả hai người cố vấn, một cũ một mới. Thế nhưng trong hoàn cảnh này chúng ta chẳng có lựa chọn nào hay hơn ngoài việc đi tiếp, như Gandalf đã nói, đến cổng Helm, cho dù Erkenbrand có ở đó hay không. Có biết quân số của đội quân đến từ miền Bắc không?”

“Vô cùng đông đảo,” người lính trinh sát nói. “Vẫn biết những người bỏ chạy thường kể gấp đôi kẻ thù. Song thần đã nói chuyện với những người can đảm, và thần không nghi ngờ rằng lực lượng chủ lực của kẻ thù đông gấp nhiều lần toàn bộ những gì chúng ta có ở đây.”

“Vậy thì chúng ta phải khẩn trương lên,” Éomer nói “Chúng ta hãy mở đường qua đám kẻ thù đang đứng đợi sẵn giữa chúng ta và căn cứ. Có nhiều hang động ở hẻm Helm mà hàng trăm người có thể nằm ẩn náu; và cả những con đường bí mật dẫn từ đó lên dãy đồi.”

“Đừng có tin những con đường bí mật,” nhà vua nói. “Saruman từ lâu đã do thám vùng đất này rồi. Nhưng chúng ta vẫn có thể phòng vệ lâu dài ở đó. Chúng ta đi thôi!”

Lúc này Aragorn và Legolas đi cùng Éomer trong đội quân tiên phong. Họ phi không nghỉ qua đêm tối, tốc độ mỗi lúc một giảm vì bóng tối dày đặc hơn và con đường bắt đầu dốc lên về phía Nam, mỗi lúc một cao vào những nếp đồi mờ ảo quanh chân dãy núi. Họ không thấy nhiều kẻ thù phía trước. Đây đó họ chạm trán những toán quân Orc lẩn quất; nhưng chúng đều bỏ chạy trước khi đội kị sĩ kịp bắt hoặc tiêu diệt chúng.

“Tôi e là chỉ ít nữa,” Éomer nói, “thủ lĩnh của kẻ thù chúng ta sẽ biết đội quân của nhà vua đang đến, dù đó là Saruman hay bất cứ tên chỉ huy nào mà hắn phái đi.”

Những thanh âm chiến tranh bắt đầu vang lên phía sau họ. Giờ họ đã nghe được, vẳng đến qua bóng tối, những tiếng hét chói tai. Họ đã leo được lên khá sâu vào lòng chảo hẻm thì mới quay lại nhìn. Và họ thấy rất nhiều ngọn đuốc, những đốm lửa hung tợn nhiều không đếm xuể trên những cánh đồng tối đen phía sau, chỗ lốm đốm như những bông hoa đỏ, chỗ quanh co đi lên từ vùng đất thấp thành những đường sáng dài lập lòe. Đây đó còn có những ngọn lửa to hơn bùng lên.

“Đúng là một đoán quân đông đảo đang quyết đuổi theo chúng ta,” Aragorn nói.

“Chúng mang theo lửa,” Théoden nói, “và đi đến đâu chúng đốt phá đến đó, rơm rạ, nhà cửa, cây cối. Đây vốn là một thung lũng trù phú với biết bao ấp trại. Thương thay người dân của ta!”

“Giá ban ngày đã tới để chúng ra tràn xuống như cơn bão từ núi đổ lên đầu chúng!” Aragorn nói. “Tôi thật đau lòng phải bỏ chạy trước bọn chúng.”

“Chúng ta không cần phải chạy xa hơn nữa,” Éomer nói. “Giờ không xa phía trước đã là hào Helm, con hào và bức thành cổ đại vắt qua lòng chảo, cách hai sải phía dưới cổng Helm. Đến đó chúng ta có thể dừng lại chiến đấu.”

“Không được, chúng ta có quá ít quân để phòng thủ hào,” Théoden nói. “Nó dài đến một dặm hoặc hơn, mà lối cầu qua hào lại rộng.”

“Tại cầu vào đội quân bọc hậu của chúng ta buộc phải trụ lại, nếu chúng ta bị dồn đuổi,” Éomer nói.

Chẳng hề có sao hay trăng khi đoàn kị sĩ đến được lối cầu bắc qua hào, nơi dòng suối từ phía trên chảy ra, và con đường cạnh suối chạy xuống từ Lũy Tù Và. Bức thành bất chợt hiện lên trước mặt họ, một bóng đen sừng sững phía sau miệng vực đen. Khi họ phóng tới một lính canh tiến ra đòi phải báo danh.

“Chúa đất Mark hành quân đến cổng Helm,” Éomer trả lời. “Ta, Éomer con trai Éomund, đang lên tiếng.”

“Đây quả là một tin tốt chẳng ai ngờ,” người lính canh nói. “Khẩn trương lên! Kẻ thù ở sau gót các ngài rồi.”

Đoàn quân đi qua cầu vào rồi dừng lại trên triền cỏ dốc phía trên. Giờ đây họ vui mừng nghe tin Erkenbrand vẫn còn để lại nhiều quân phòng ngự cổng Helm và còn nhiều nữa đã chạy thoát được về đó.

“Có lẽ chúng tôi có khoảng một nghìn quân đủ sức đánh bộ,” Gamling, thủ lĩnh già của đội quân canh hào nói. “Nhưng đa phần họ đã sống qua quá nhiều mùa đông, giống như tôi, hoặc quá ít giống như con trai của con trai tôi đây. Có tin tức gì của Erkenbrand không? Hôm qua có tin ngài sắp rút về đây cùng tất cả những gì còn lại của đội Quân Kị tốt nhất Westfold. Nhưng ngài vẫn chưa đến nơi.”

“Ta e rằng giờ ông ấy sẽ không đến nữa,” Éomer nói. “Trinh sát của chúng ta không thu thập được tin tức nào về ông ấy, còn kẻ thù thì đã tràn đầy thung lũng phía sau chúng ta.”

“Ta mong là ông ấy đã thoát được.” Théoden nói. “Ông ấy là một người mạnh mẽ. Lòng can trường của Helm Tay Búa đã hồi sinh trong con người ông ấy. Thế nhưng chúng ta không thể chờ ông ấy ở đây. Giờ chúng ta phải rút toàn bộ lực lượng về phía sau tường thành. Các ông có dự trữ tốt không? Chúng ta chỉ mang một chút lương thực, bởi chúng ta tiến quân để tham chiến chứ không phải để cố thủ.”

“Phía sau chúng thần bên trong những hang động sau hẻm có ba phần dân Westfold, cả trẻ lẫn già, trẻ em và phụ nữ,” Gamling nói. “Nhưng một lượng lớn lương thực dự trữ, rất nhiều ngựa và cỏ khô cho chúng cũng được tập trung ở đó.”

“Vậy thì tốt rồi,” Éomer nói. “Chúng đang đốt phá hoặc cướp bóc tất cả những gì còn lại trong thung lũng.”

“Nếu chúng đến nhòm ngó của cải của chúng ta tại cổng Helm này, chúng sẽ phải trả giá đắt,” Gamling nói.

Nhà vua và đội kị sĩ đi tiếp. Họ xuống ngựa trước khi đến con đường đắp cao qua dòng suối. Họ dắt ngựa thành một hàng dài đi lên bờ dốc và qua cổng vào Lũy Tù Và. Ở đó họ lại được đón mừng nồng nhiệt vì niềm hi vọng mới nhen lại, bởi giờ đây đã đủ người bảo vệ cả tháp chính lẫn tường thành.

Éomer nhanh chóng cắt đặt quân sĩ xong xuôi. Nhà vua cùng gia binh của ông đóng tại Lũy Tù Và, ở đó cũng cắt thêm nhiều lính Westfold. Nhưng ở trên thành hẻm cùng tháp canh trên thành, và ở cả phía sau tường thành, Éomer bố trí gần hết lực lượng trong tay, bởi ở đây phòng bị khó khăn hơn một khi bị tập trung tấn công với quân số lớn. Lũ ngựa được đưa vào sâu trong Hẻm và được những quân sĩ ít ỏi còn lại canh giữ.

Thành hẻm cao hai mươi bộ, dày đến nỗi bốn người có thể cùng nhau sóng bước dọc mặt trên thành, được che chắn bởi tường phòng hộ chỉ người cao lớn mới có thể nhìn được qua. Đôi chỗ trên tường có khoảng hở để quân lính bắn ra. Có thể lên tường thành này qua cầu thang chạy xuống từ một cổng nơi sân ngoài Lũy Tù Và; cũng có ba cầu thang dẫn lên mặt thành từ Hẻm phía sau; nhưng mặt phía trước lại nhẵn nhụi, những phiến đá lớn được ghép khéo léo đến nỗi không thể tìm thấy mấu nào đặt chân được giữa những lằn ráp nối, và những phiến trên cùng nhô ra ngoài như một vách núi bị biển khoét.

* * *

Gimli đứng tựa vào bờ tường bảo vệ trên thành. Legolas ngồi cao hơn trên tường phòng hộ, mân mê cây cung, và nhìn chăm chú vào bóng đêm.

“Thế này là tôi ưa hơn,” gã lùn vừa nói vừa giậm chân lên nền đá. “Trái tim tôi rộn lên khi chúng ta tiến gần đến dãy núi. Chất đá ở đây thật tốt. Vùng đất này có được bộ xương thật vững chãi. Tôi cảm nhận được đá dưới chân khi chúng ta đi lên từ dưới hào. Cứ cho tôi một năm và một trăm người bà con của tôi xem, tôi sẽ biến đây thành một nơi mà kẻ thù đập vào sẽ tan ra như nước.”

“Tôi không nghi ngờ điều đó,” Legolas nói. “Nhưng anh là Người Lùn, mà Người Lùn lại là một giống người kì lạ. Tôi không thích nơi này, và tôi cũng không thích nó hơn trong ánh sáng ban ngày đâu. Thế nhưng anh khiến tôi yên tâm, Gimli ạ, và tôi mừng vì có anh đứng bên cạnh với đôi chân rắn và cây rìu cứng. Ước gì có thêm những người họ hàng của anh ở đây với chúng ta. Thế nhưng tôi còn mong muốn có một trăm tay thiện xạ rừng Âm U hơn. Chúng ta sẽ cần đến họ. Người Rohirrim có nhiều tiễn thủ tốt theo kiểu họ, nhưng ở đây lại có quá ít, quá ít.”

“Hơi tối cho tiễn thủ đấy,” Gimli nói. “Thực tình là đã đến giờ ngủ rồi. Ngủ! Tôi thấy thèm ngủ, thèm đến mức tôi chưa bao giờ nghĩ Người Lùn lại có thể thèm như vậy. Cưỡi ngựa quả là một công việc mệt nhọc. Song cây rìu của tôi vẫn đang ngứa ngáy trong tay. Hãy cho tôi một hàng cổ Orc và đủ không gian để múa rìu, tất cả mệt nhọc sẽ trút khỏi tôi!”

Thời gian chậm chạp trôi qua. Xa tít phía dưới thung lũng những đốm lửa vẫn cháy rải rác. Những đội quân Isengard giờ đang lặng lẽ tiến tới. Đèn đuốc của chúng đang quanh co trườn lên lòng chảo thành nhiều hàng.

Đột nhiên từ phía hào nổi lên tiếng hò hét, và những tiếng hô xung trận của con người. Lửa đuốc xuất hiện bên bờ hào và dồn lại dày đặc nơi lối vào. Nhưng rồi chúng lại tản ra và biến mất. Một toán người phi ngựa quay lại, băng qua cánh đồng, phóng lên sườn dốc, đến cổng Lũy Tù Và. Đội quân bọc hậu của Westfold đã bị đẩy lùi vào trong.

“Kẻ thù đến gần lắm rồi!” Họ nói. “Bọn tôi đã bắn toàn bộ số tên hiện có, và rải đầy Orc xuống hào. Nhưng như vậy vẫn chẳng thể cản được chúng lâu. Chúng đã bắt đầu leo lên bờ hào ở nhiều chỗ, dày đặc như một đàn kiến. Nhưng bọn tôi đã dạy cho chúng biết rằng không nên mang theo đuốc.”

Lúc này đã quá nửa đêm. Bầu trời đen kịt, và sự im ắng trong bầu không khí nặng nề dự báo sắp có bão tố. Đột nhiên những đám mây bị thiêu đốt bởi một ánh chớp chói lòa. Những tia sét tỏa nhánh đánh xuống dãy đồi phía Đông. Trong phút chốc chăm chú lính canh trên các tường thành thấy toàn bộ khoảng không giữa họ và con hào đều bừng lên sáng lòa: ở đó đang sôi lên, lúc nhúc những hình thù đen tối, một số béo lùn và to bè, một số cao lớn và gớm ghiếc, cùng mũ trụ cao và khiên đen đúa. Hàng trăm cùng hàng trăm tên khác đang tràn qua lối vào vượt qua hào. Cơn thủy triều đen đổ dồn về phía các tường thành từ vách đá này sang vách đá khác. Sấm chớp rền lên khắp thung lũng. Mưa rạch trời đổ xuống.

Tên dày đặc như mưa vun vút lao qua tường phòng hộ, rồi rơi lách cách và loang loáng trên mặt đá. Một vài mũi đã tìm đến được mục tiêu. Cuộc tấn công vảo hẻm Helm đã nổ ra, nhưng không hề nghe thấy tiếng động hay sự kháng cự nào từ phía trong, cũng không thấy loạt tên đáp trả nào.

Đội quân tấn công dừng lại, hoang mang trước bầu im lặng đầy đe dọa của đá và tường thành. Thỉnh thoảng lại có tia chớp lóe lên xé toạc màn đêm. Rồi lũ Orc gào thét, khua gươm múa giáo, và bắn cả một đám mây tên lên bất cứ mục tiêu nào chúng phát hiện đang đứng trên bờ thành; và những con người đất Mark sửng sốt nhìn ra, trước mắt họ, dường như là cánh đồng ngũ cốc đen mênh mông đang bị xới lên bởi cơn giông tố chiến tranh, từng ngọn lúa lóe lên trong ánh sáng gai góc.

Dàn kèn cất tiếng chát chúa. Kẻ thù ào lên phía trước nhiều tên áp sát thành hẻm, nhiều tên khác thẳng hướng con đường đắp cao và bờ dốc dẫn lên cổng chính Lũy Tù Và. Ở đó tập trung lũ Orc to lớn nhất, cùng đám người hoang từ đồng trống Dunland. Chúng chần chừ trong chốc lát nhưng rồi lại tiến bước. Chớp lại lóe lên, tô điểm sáng ngời hình bàn tay Isengard gớm ghiếc được vẽ trên từng chiếc mũ, chiếc khiên. Chúng đã lên được đỉnh triền gót đá; chúng xô ào vào cổng.

Rồi rốt cục câu trả lời cũng xuất hiện: một cơn bão tên lao vào chúng, và cả một trận mưa đá. Chúng rúng động, tan hàng, quay đầu tháo chạy; rồi lại tấn công, tan hàng rồi lại tấn công tiếp; và cứ mỗi lần như vậy, giống như thủy triều dâng, chúng lại chiếm được một điểm cao hơn. Tiếng kèn đồng lại cất lên, một toán những con người gầm rú lao tới. Chúng giơ những chiếc khiên lớn che trên đầu như mái lợp, còn giữa hàng quân, chúng vác hai súc cây khổng lồ. Đằng sau chúng quân tiễn thủ Orc đứng đông đặc, bắn trả những tay cung trên tường thành cả một cơn mưa tên. Chúng tiến sát cổng. Những súc cây, lao tới trên những cánh tay chắc khỏe, thúc vào mặt gỗ vang tiếng nện xé tai. Nếu có gã nào gục xuống, do trúng đá từ bên trên ném xuống, lại có hai tên khác nhảy lên thay thế. Hai súc gỗ phá thành khổng lồ cứ lao tới rồi đâm sầm hết lần này tới lần khác.

Aragorn và Éomer đứng bên nhau trên thành hẻm. Họ nghe thấy những tiếng gào thét cùng tiếng đâm rầm rầm của súc gỗ phá thành; và rồi trong ánh chớp bất chợt lóe lên, họ nhận thấy mối nguy bên cổng.

“Nào!” Aragorn nói. “Đây chính là giờ khắc chúng ta cùng nhau tuốt kiếm!”

Nhanh như lửa, họ chay dọc bờ thành, lao lên những bậc thang, phóng tới vòng sân ngoài trên Hòn Lũy. Vừa chạy họ vừa tập hợp thêm được vài tay kiếm kiên cường. Có một cổng phụ mở ra trên vòng thành ngoại chéo góc về phía Tây, nơi vách núi nhô ra nối vào thành. Ở phía đó một con đường mòn hẹp chạy vòng về phía cổng chính, giữa vòng thành ngoại và bờ Hòn Lũy dốc đứng. Éomer và Aragorn cùng nhảy qua cổng phụ, quân của họ theo sát phía sau. Cùng một lúc hai thanh kiếm lóe sáng rời khỏi vỏ.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx