sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Hai Tòa Tháp - Quyển III - Chương 08 - Phần 2

Và họ nhìn thấy ở chính giữa cù lao nổi lên một gò đất, xếp đá viền quanh, cắm xung quanh là rất nhiều giáo mác.

“Nằm đây là tất cả những Con Người đất Mark đã ngã xuống quanh khu vục này,” Gandalf nói.

“Hãy để họ an nghỉ lại đây!” Éomer nói. “Dù giáo mác của họ có bị mục nát và han gỉ, thì cầu mong mộ của họ vẫn đứng đó dài lâu để canh gác khúc cạn dòng Isen!”

“Đây cũng là công sức của ông sao, Gandalf, bạn tôi?” Théoden nói. “Chỉ trong một buổi tối và một đêm mà ông đã hoàn thành nhiều việc quá!”

“Cùng sự giúp đỡ của Scadufax - và nhiều người khác nữa,” Gandalf nói. “Tôi đã phi nhanh và xa. Tuy nhiên bên ngôi mộ tôi sẽ nói điều này để ngài thanh thản: nhiều người đã ngã xuống trong trận chiến quanh khúc cạn, nhưng vẫn ít hơn những lời đồn đại. Số lớn hơn đã tán loạn đi chứ không phải bị giết; tôi đã tập hợp lại tất cả những người tôi tìm được. Một số tôi cử đi cùng Grimbold ở Westfold để hội quân với Erkenbrand. Số khác tôi để tham gia việc chôn cất này. Giờ họ đã đi theo thống chế của ngài, Elfhelm. Tôi đã cử anh ta dẫn nhiều kị sĩ đến Edoras. Như tôi được biết Saruman đã phái đi toàn bộ lực lượng của ông ta để chống lại ngài, và tay chân của ông ta đã ngưng tất cả những nhiệm vụ khác để dồn về hẻm Helm: vùng đất dường như đã sạch bóng quân thù; tuy nhiên tôi e là đội quân cưỡi sói và lũ cướp bóc có thể sẽ đến Meduseld, trong khi không có ai phòng ngự. Nhưng giờ tôi nghĩ ngài không cần phải lo sợ: ngài sẽ thấy ngôi nhà của ngài vẫn chào đón ngài trở về.”

“Và tôi sẽ lấy làm mừng được thấy lại nó,” Théoden nói, “cho dù tôi không nghi ngờ rằng giờ đây thời trị vì của tôi ở đó chỉ còn ngắn nữa thôi.”

Tới đó đội quân nói lời từ biệt với cù lao cùng ngôi mộ, và vượt qua dòng sông, rồi trèo lên bờ phía bên kia. Họ tiếp tục lên đường, mừng lòng vì đã vượt qua được khúc cạn đau thương. Khi họ đi tiếng sói tru lại lần nữa vang lên.

Có một con đường cổ chạy từ Isengard xuống đến đoạn vượt sông. Một quãng dài nó chạy bên cạnh dòng sông, uốn lượn theo sông về phía Đông rồi phía Bắc; nhưng rồi nó cũng rẽ đi và dẫn thẳng tới cổng Isengard; cổng này nằm dưới mặt núi phía Tây thung lũng, khoảng mười sáu dặm hoặc hơn tính từ miệng thung. Họ men theo con đường này nhưng lại không đi trên đường; bởi mặt đất ở một bên đường rất chắc và bằng phẳng, suốt nhiều dặm còn phủ một lớp cỏ mềm mọc thấp. Giờ họ thúc ngựa đi nhanh hơn, và đến nửa đêm khúc cạn đã ở phía sau họ gần năm lí. Rồi họ dừng ngựa, kết thúc cuộc hành trình đêm, bởi nhà vua đã thấm mệt. Họ đã đến chân dãy núi Mù Sương, và những nhánh núi dài bao quanh Nan Curunír vươn xuống gặp họ. Màn đêm buông đầy thung lũng đằng trước họ, bởi một tảng đá trôi về phía Tây, và ánh trăng đã bị dãy đồi che mất. Nhưng từ trong sâu thẳm bóng đêm nơi thung lũng cuộn lên một cột khói và hơi nước khổng lồ; khi bốc lên cao nó bắt gặp những tia sáng của trăng đang lặn và tỏa ra thành những đụn mây cuồn cuộn lấp lánh, đen và bạc, lan khắp bầu trời sao.

“Ông nghĩ sao, Gandalf?” Aragorn hỏi. “Có thể nói toàn bộ thung lũng Phù Thủy đang bốc cháy.”

“Gần đây lúc nào cũng có khói bốc lên phía trên thung lũng đó,” Éomer nói, “nhưng tôi chưa bao giờ thấy cái gì như vậy. Đó là hơi nước chứ không phải khói. Saruman đang pha chế thứ quỷ thuật nào đó để chào đón chúng ta. Có lẽ hắn đang đun sôi toàn bộ nước dòng Isen, và đó là lí do tại sao dòng sông lại khô cạn. ”Có thể là thế,” Gandalf nói. “Ngày mai chúng ta sẽ biết ông ta đang làm gì. Giờ chúng ta hãy nghỉ ngơi đôi chút, nếu còn có thể.”

Họ hạ trại bên dòng Isen trơ đáy; dòng sông hoàn toàn tĩnh mịch và trống rỗng. Vài người trong số họ ngủ được chút ít. Nhưng đến đêm muộn lính canh chợt kêu to, khiến tất cả tỉnh dậy. Mặt trăng đã không còn. Sao sáng lấp lánh phía trên, nhưng trên khắp mặt đất một vùng đen còn tối hơn cả màn đêm đang lan đến. Dọc theo cả hai bên bờ sông nó cuộn thẳng về phía họ, về phía Bắc.

“Ở nguyên vị trí!” Gandalf nói “Đừng rút vũ khí ra! Hãy đợi! Rồi nó sẽ đi qua các anh!”

Một màn sương dồn lại xung quanh họ. Trên cao vài ngôi sao vẫn le lói mờ ảo; nhưng dựng lên cả hai bên họ là những bức tường bóng tối không thể xuyên thấu; họ đang ở trong một lối đi hẹp giữa những tòa tháp bóng tối đang dịch chuyển. Họ nghe thấy những tiếng nói, tiếng thầm thì, rên rỉ và một tiếng thở dài xào xạc bất tận; mặt đất rung chuyển bên dưới họ. Họ thấy mình cứ ngồi đó thật là lâu và họ sợ hãi; nhưng rồi bóng tối và tiếng rì rầm cũng trôi qua, biến mất giữa những nhánh núi.

Xa về phía Nam trên Lũy Tù Và, vào lúc nửa đêm người ta nghe thấy một tiếng động lớn, như cơn gió tràn qua thung lũng, rồi mặt đất rúng động; tất cả đều sợ hãi và không ai dám ra ngoài. Nhưng khi trời sáng họ đi ra và sửng sốt; bởi xác lũ Orc đã không còn ở đó, cả rừng cây cũng vậy. Xa tít bên dưới thung lũng hẻm cánh đồng cỏ bị nghiến nát chuyển sang màu nâu, cứ như thể những người chăn thả khổng lồ đã thả ra đó những đàn gia súc đông đảo; nhưng cách hào khoảng một dặm một hố lớn đã được đào trên đất, và trên đó đã được chất thành một quả đồi. Con Người tin rằng lũ Orc mà họ tiêu diệt đã được chôn dưới đó; còn những tên bỏ chạy vào rừng có nằm đó cùng không thì chẳng ai biết được, bởi không một ai dám đặt chân lên quả đồi. Sau đó nó được đặt cái tên đồi Chết, và chẳng cây cỏ nào mọc được ở trên đó. Nhưng những thân cây kì lạ không bao giờ thấy ở lòng chảo hẻm nữa; chúng đã quay lại trong đêm, và ra đi xa mãi về những thung lũng tối tăm của Fangorn. Chúng đã trả thù lũ Orc như vậy đấy.

Đêm hôm đó nhà vua và đội quân của ông không ngủ thêm được nữa; nhưng họ cũng không nhìn hay nghe thấy điều kì lạ nào khác, ngoại trừ một điều: tiếng dòng sông bên cạnh đột nhiên thức tỉnh. Có tiếng nước xiết hối hả tràn xuống giữa những tảng đá; và khi nó đi qua, dòng Isen lại chảy và lòng sông lại sủi bọt như vốn vẫn thế trước nay.

Lúc rạng đông họ lại sửa soạn lên đường. Ánh sáng tới xám xịt và mờ ảo, họ không nhìn thấy mặt trời lên. Sương mù chen dày đặc bầu không phía trên, còn khắp mặt đất xung quanh họ là mùi hôi thối nồng nặc. Giờ đây họ đi chậm rãi trên con đường cổ. Đường rộng và cứng, và được chăm sóc chu đáo. Mờ ảo sau màn sương họ nhìn thấy nhánh núi dài vươn lên ở bên trái. Họ đã đi vào Nan Curunír, thung lũng Phù Thủy. Đó là một thung lũng chìm trong cánh núi, chỉ mở ra về phía Nam. Nơi đây đã từng đẹp đẽ và xanh tốt, có dòng Isen chảy qua, sâu và xiết trước khi ra tới đồng bằng; bởi con sông được hợp thành từ biết bao dòng nước và những con suối nhỏ giữa khu đồi được mưa gột rửa, và trải ra khắp xung quanh nó đã từng là một vùng đất hiền hòa, màu mỡ.

Giờ thì không còn như vậy. Bên kia tường thành Isengard vẫn còn những thửa ruộng được canh tác nhờ công những nô lệ của Saruman; nhưng phần lớn thung lũng đã trở nên tiêu điều toàn cỏ dại và bụi gai. Mâm xôi bò lan khắp mặt đất, hoặc leo đầy trên các bờ bụi, tạo thành những hang rậm rạp cho những loài thú nhỏ trú ẩn. Không có cây cao nào mọc ở đó; nhưng giữa những luống cỏ vẫn thấy được những gốc cây bị đốt hoặc bị rìu đốn, còn lại từ những khóm rừng cổ đại. Đó là một vùng đất buồn thảm, giờ lặng im như tờ chỉ trừ tiếng đá ồn ào trong dòng nước xiết. Khói và hơi nước lởn vởn thành những đụn mây ảm đạm, lẩn khuất trong những vùng lòng chảo. Đội kị binh không nói gì. Nhiều người cảm thấy nghi ngại, tự hỏi liệu cuộc hành trình sẽ dẫn họ tới kết cục tối tăm nào.

Sau khi họ đi thêm vài dặm, con đường trở nên rộng như đại lộ, lát những phiến đá phẳng lớn được đẽo rồi xếp đặt bằng một tay nghề cao; không hề thấy lá cỏ nào mọc giữa những khe nối. Hai rãnh sâu, chứa đầy nước chảy róc rách, chạy xuống dọc hai bên đường. Đột nhiên một cây cột cao sừng sững hiện lên trước mặt họ. Cột màu đen, trên đỉnh đặt tảng đá lớn, được tạc và sơn thành hình một Bàn Tay Trắng dài. Ngón tay chỉ lên phía Bắc. Giờ họ biết cổng Isengard chắc chắn chẳng còn xa nữa, và trái tim họ nặng trĩu; nhưng mắt họ lại chẳng nhìn xuyên qua được màn sương phía trước.

Nằm qua suốt bao năm trường dưới nhánh núi trong thung lũng Phù Thủy là một công trình cổ xưa mà Con Người gọi là Isengard. Nó được tạo hình một phần trong thời kì hình thành dãy núi, thế nhưng Con Người từ Tây Châu từ thời xa xưa đã đổ vào đó công sức lao động vĩ đại; còn Saruman cũng đã cư ngụ ở đó từ rất lâu rồi, và cũng chẳng ngồi không.

Dáng dấp nơi đó thế này, trong thời gian Saruman đang ở đỉnh cao quyền phép, và được biết bao người coi là thủ lĩnh hội phù thủy: Một vòng thành đá khổng lồ, tựa như những vách đá chót vót, đứng nhô ra khỏi bóng che của sườn núi, nơi từ đó nó chạy ra rồi vòng trở lại. Chỉ có duy nhất một lối vào ở đó, một cổng vòm khổng lồ khoét vào bức tường phía Nam. Từ đây một đường hầm dài được đục xuyên qua vách đá đen; đóng lại ở cả hai đầu cửa hầm là những cánh cổng sắt đồ sộ. Cách chế tạo và gắn cổng trên những bản lề khổng lồ, những trụ thép đóng sâu vào đá sống, làm cho khi cổng không bị chốt thì chỉ cần tay đẩy nhẹ nhàng cũng khiến chúng mở ra mà không gây tiếng động nào. Nếu có ai đi vào và cuối cùng ra được khỏi đường hầm đầy tiếng vọng đó, người đó sẽ thấy một vùng đồng bằng, một hình tròn lớn, hơi trũng xuống như chiếc bát nông khổng lồ: khoảng một dặm đo từ mép này qua tới mép đối diện. Một thời nó từng rất xanh tươi và chằng chịt những con đường lớn, cùng những khóm rừng trĩu quả được tưới tắm nhờ những dòng suối chảy từ dãy núi vào một hồ nước. Nhưng vào thời kì sau này của Saruman chẳng còn thứ gì màu xanh mọc ở đây nữa. Những con đường được lát bằng đá phiến, tối màu và cứng; và dọc theo rìa đường thay vì cây cối là những hàng cột dài, một số làm bằng cẩm thạch, số khác bằng đồng và sắt, nối với nhau bằng những sợi xích nặng trịch.

Có rất nhiều nhà cửa ở đó, những căn phòng, những tòa sảnh, hành lang, được tạc và đào sâu vào mặt trong vòng tường thành, vì thế nhìn ra toàn bộ khoảng không gian tròn ở giữa là vô vàn những ô cửa và cửa sổ tăm tối. Ở đó đủ chỗ cho hàng nghìn người trú ngụ, công nhân, đầy tớ, nô lệ, lính tráng cùng kho chứa vũ khí rộng lớn; ở đó lũ sói cũng được nuôi nhốt trong những hang sâu bên dưới. Bản thân khoảng đồng bằng cũng bị đào bới. Những hố sâu đào xuống lòng đất; miệng hố đắp những gò thấp hoặc vòm đá che lên, vì thế dưới ánh trăng vòng thành Isengard trông như nghĩa địa những kẻ chết không thanh thản. Bởi mặt đất lúc nào cũng rung chuyển. Những hố sâu đổ xuống biết bao con đường dốc, rồi cầu thang xoắn, xuống những động sâu hơn nữa; dưới đó là những kho tàng, nhà kho, xưởng đúc vũ khí, xưởng rèn và lò luyện kim lớn của Saruman. Ở đó những guồng sắt quay không ngừng nghỉ, và búa nện liên hồi. Đêm xuống từng chùm hơi nước bốc lên qua các lỗ thông, hắt từ phía dưới lên ánh sáng đỏ, xanh lam, và cả màu xanh lục độc.

Mọi con đường giữa hai hàng xích đều chạy vào trung tâm. Đứng đó là một tòa tháp hình dáng phi thường. Nó được tạo hình bởi thợ xây dựng thời xa xưa, những người đã mài nhẵn vòng thành Isengard, song trông nó dường như không phải thứ được xây nên bởi bàn tay Con Người, mà được bóc ra từ xương của đất trong cơn vật vã ngàn xưa của dãy đồi. Nó là một chóp nhọn, một hòn đảo đá, đen đúa và láng bóng: bốn trụ đá nhiều mặt hợp liền làm một, nhưng lên đến gần đỉnh chúng mở toác ra thành những cái sừng, đầu sừng nhọn như mũi giáo, sắc cạnh như dao. Ở giữa bốn sừng là một khoảng không hẹp, lát một nền đá nhẵn bóng, trang trí những kí hiệu kì lạ, đủ để một người có thể đứng ở độ cao năm trăm bộ phía trên đồng bằng. Đó là Orthanc thành trì của Saruman, một cái tên (không biết vô tình hay cố ý) có tới hai nghĩa; theo tiếng Tiên orthanc có nghĩa là Đỉnh Răng Nanh còn theo ngôn ngữ cổ đất Mark thì có nghĩa là Tâm Trí Xảo Quyệt.

Isengard là một nơi hùng mạnh và siêu việt, đã từng đẹp đẽ trong suốt bao lâu; nhiều lãnh chúa vĩ đại từng sống ở đó, những người gác biên thùy phía Tây cho Gondor, và cả những nhà thông thái biết xem tinh tú. Thế nhưng Saruman đã dần dần hướng nó theo mục đích đảo điên của lão, và khiến nó tốt đẹp hơn theo quan niệm sai lầm của lão - bởi tất cả những tà thuật và thủ đoạn tinh vi mà vì chúng lão đã chấp nhận từ bỏ sự thông thái trước đây, những thứ mà lão mơ tưởng là của riêng lão, thực tế chẳng đến từ chốn nào khác ngoài Mordor; chính vì vậy thành quả lão tạo ra chẳng là gì ngoài sự sao chép lặt vặt, thứ mô hình trẻ con hay sự nịnh nọt nô bộc, bắt chước tòa lâu đài sừng sững, xưởng đúc vũ khí, nhà tù, lò luyện hùng mạnh Barad-dûr, tức tòa tháp Tối, nơi chưa từng bị bất cứ địch thủ nào thách thức, nơi cười nhạo với xu nịnh, vẫn đang chờ thời cơ, tự tin trong sự kiêu hãnh và sức mạnh không thể đo đếm của nó.

Đó là thành trì của Saruman, theo tiếng tăm đồn đại; bởi trong kí ức những ai còn sống, người Rohan không ai từng vượt qua cổng đó, có lẽ ngoại trừ một số ít, như Lưỡi Giun, đã bí mật lẻn vào đó và không kể lại cho ai những gì chúng thấy.

Lúc này Gandalf thúc ngựa về phía cây cột lớn có Bàn Tay, và đi qua nó; khi ông đi qua, đội kị sĩ kinh ngạc nhìn thấy Bàn Tay không còn màu trắng nữa. Nó ố như màu máu khô; và khi nhìn gần hơn họ thấy những móng tay màu đỏ. Gandalf chẳng thèm để ý cứ đi tiếp vào màn sương, và họ miễn cưỡng đi theo. Giờ đây khắp xung quanh họ, như thể vừa có một trận lũ bất ngờ tràn qua, là những ao nước rộng nằm dọc con đường, lấp đầy các chỗ trũng, những con lạch rỉ rách xuống giữa những tảng đá.

Cuối cùng Gandalf dừng ngựa ra hiệu gọi; họ đi tới, và thấy phía trước ông màn sương mù đã tan đi, và nắng nhạt đang tỏa xuống. Lúc này đã là quá trưa. Họ đã đến cổng Isengard.

Nhưng những cánh cổng đã bị vặn xoắn rồi quăng nằm dưới mặt đất. Và khắp xung quanh là đá, vỡ vụn thành vô số mảnh nham nhở, bị vứt tung tóe khắp nơi, hoặc chất thành những đống đổ nát. Chiếc cổng vòm lớn vẫn đứng, nhưng giờ nó mở bung vào khe đá không mái: đường hầm phơi ra trần trụi, trên những bức tường như vách núi toác ra những vết rách, lỗ hổng to tướng ở cả hai bên; những tháp canh bị đập nát thành bụi. Giả như Đại Dương có phẫn nộ dâng lên rồi đổ ào xuống dãy đồi cùng bão tố, thì cũng chẳng gây nên cảnh đổ nát lớn hơn.

Đồng bằng tròn bên kia mù mịt hơi nước: như một vạc lớn sôi sục, bên trong là cảnh tan nát những cột chống, những thanh rầm bị ném văng và trôi nổi, có cả những rương lẫn thùng và đồ đạc vỡ hỏng. Những cột trụ bị xoắn nghiêng ngả vẫn nhô thân rách toạc lên khỏi mặt nước ngập, nhưng toàn bộ đường sá đã bị nhấn chìm. Xa về phía trước, bị che khuất một phần trong mây cuộn, hiện ra sừng sững hòn đảo đá. Tòa tháp Orthanc vẫn vươn cao tăm tối, không bị phá hủy bởi cơn bão tố. Một vùng nước trắng táp quanh chân tháp.

Nhà vua và toàn đội quân ngồi lặng trên lưng ngựa, kinh ngạc, hiểu rằng quyền lực của Saruman đã bị quật đổ; nhưng bằng cách nào thì họ chẳng thể đoán ra. Và giờ họ quay nhìn về phía cổng vòm và những cánh cổng bị phá hủy. Họ thấy ở ngay bên cạnh đó có một đống đổ nát lớn; và đột nhiên họ nhận ra trên ấy có hai hình người nhỏ bé nằm dài ung dung, mặc đồ xám, khó nhìn thấy được giữa đống đất đá. Bên cạnh họ bày la liệt những chai cùng lọ và bát đĩa, như thể họ vừa chén một bữa no nê, và giờ đang nghỉ ngơi sau khi lao động. Một người có vẻ như đang ngủ; còn người kia đang khoanh chân, gối đầu vào tay, ngồi dựa lưng vào một tảng đá vỡ mà thổi ra từ miệng những làn dài cùng những vòng nhỏ khói xanh mỏng mảnh.

Théoden và Éomer cùng toàn bộ quân sĩ ngạc nhiên ngây ra nhìn hai kẻ đó một lúc. Giữa toàn bộ đống đổ nát Isengard, dường như đây là cảnh tượng kì lạ nhất đối với họ. Thế nhưng trước khi nhà vua kịp cất lời, hình người nhỏ nhắn thở ra khói đột nhiên nhận ra sự có mặt của họ, khi họ im lặng ngồi ngay trước bức màn sương mù. Anh ta vùng đứng dậy. Trông như một thanh niên trẻ tuổi, hoặc có vẻ là như vậy, cho dù chỉ cao chưa bằng nửa người thường; cái đầu tóc nâu xoăn tít của anh ta không mũ mão, nhưng trên người lại khoác áo choàng cũ kĩ bụi đường có cùng màu sắc và kiểu dáng với những đồ các bạn đồng hành của Gandalf đã mặc khi đến Edoras. Anh ta cúi người rất thấp, một tay đặt lên ngực. Rồi, dường như không để ý đến sư có mặt của thầy phù thủy và bạn bè ông, anh ta quay về phía Éomer và nhà vua.

“Xin chào mừng các ngài đến với Isengard!” anh ta nói. “Chúng tôi là lính giám môn. Meriadoc, con trai Saradoc là tên tôi; và bạn của tôi đây, người, than ôi! đã lả đi vì mệt mỏi” - nói đến đây anh ta lấy chân thúc cho người kia một cú - “là Peregrin, con trai Paladin, dòng dõi gia tộc Took. Xa tít về phương Bắc là quê hương chúng tôi. Chúa Tể Saruman đang ở bên trong; nhưng lúc này ông ta đang trốn trong phòng cùng một cái Lưỡi Giun, nếu không thì chắc chắn ông ta đã ra đây nghênh đón khách quý rồi.”

“Chắc chắn là thế rồi!” Gandalf cười nói. “Thế có phải Saruman đã sai các cậu ra canh cánh cổng bị phá hỏng của ông ta, và theo dõi khách đến, khi nào các cậu có thể bớt chút thời gian dành cho chai lọ và bát đĩa không?”

“Không, thưa quý ông, ông ta trót không nhớ ra điều đó,” Merry rầu rĩ trả lời. “Ông ta quá bận rộn. Lệnh cho bọn cháu đến từ Cây Râu, người đã tiếp quản quyền điều hành Isengard. Ông ấy đã yêu cầu bọn cháu chào đón Chúa đất Rohan bằng lời lẽ thích hợp. Cháu đã cố hết sức.”

“Thế còn bạn đồng hành của các ngươi thì sao? Ta và Legolas thì sao?” Gimli hét toáng lên, gã không thể kìm lòng lâu hơn nữa. “Đồ ranh con, đồ lêu lổng lông lá cả chân lẫn đầu! Các ngươi đã dẫn bọn ta vào một cuộc truy lùng được lắm! Hai trăm lí, qua đầm lầy và rừng sâu, qua chiến tranh và chết chóc, chỉ để giải thoát các ngươi! Và giờ thì bắt được các ngươi ở đây đang ăn không ngồi rồi - và hút thuốc! Hút thuốc! Các ngươi lấy thuốc ở đâu ra thế hả đồ quỷ sứ? Búa kìm ơi! Ta bị giằng xé giữa thịnh nộ và hân hoan, đến độ nếu ta không nổ tung ra thì sẽ là chuyện lạ đấy!”

“Anh nói thay tôi rồi đấy, Gimli,” Legolas cười to. “Cho dù tôi thì thèm biết họ lấy rượu ở đâu ra hơn.”

“Có một thứ các anh không bắt được trong cuộc truy lùng của các anh, đó là đầu óc lanh lợi,” Pippin vừa nói vừa mở một mắt. “Các anh tìm thấy bọn em ở đây ngồi trên trường chiến thắng, giữa đống chiến lợi phẩm, mà còn thắc mắc làm sao bọn em lại có được chút an ủi xứng đáng này!”

“Xứng đáng ư?” Gimli nói. “Không thể tin được!”

Đội kị sĩ cười phá. “Không nghi ngờ là chúng ta đang chứng kiến cuộc đoàn tụ của những người bạn thân,” Théoden nói. “Vậy đây chính là những người thất lạc trong hội đồng hành của ông sao, Gandalf? Mỗi một ngày lại được số phận đem đến những điều kì lạ. Tôi đã được chứng kiến quá nhiều điều kể từ khi rời khỏi nhà mình; và giờ đứng ngay trước mắt tôi lại thêm một giống người khác bước ra từ truyền thuyết. Đây chẳng phải là những người Tí Hon, mà vài người trong số chúng tôi gọi là Holbytlan đó sao?”

“Xin vui lòng gọi là Hobbit, thưa bệ hạ,” Pippin nói.

“Hobbit ư?” Théoden nói. “Ngôn ngữ của các ngươi thay đổi thật kì lạ; nhưng cái tên đó lại nghe không hề thiếu tương xứng. Hobbit! Chẳng có báo cáo nào ta từng nghe lại có thể sánh được với sự thật.”

Merry cúi người; và Pippin cũng đứng dậy cúi người thật thấp. “Ngài thật lịch thiệp, thưa bệ hạ; hoặc tôi hi vọng có thể hiểu lời nhận xét của ngài như vậy,” cậu nói. “Và đây là một điều kì lạ nữa! Tôi đã lang thang qua bao vùng đất, kể từ lúc rời khỏi nhà mình, và chưa bao giờ cho đến tận lúc này tôi gặp bất cứ ai biết một câu chuyện nào liên quan tới người Hobbit.”

“Người của ta vốn xuất thân từ phương Bắc từ lâu lắm rồi,” Théoden nói. “Nhưng ta không định lừa dối các ngươi đâu: chúng ta không biết câu chuyện nào về người Hobbit cả. Tất cả những gì truyền lại cho chúng ta chỉ là ở rất xa, qua biết bao sông bao núi, có một giống người tí hon sống trong những cái hốc trong đồi cát. Nhưng chẳng có truyền thuyết nào kể về chiến công của họ, bởi nghe nói rằng họ không làm nhiều, và luôn lảng tránh khỏi tầm mắt con người bằng cách biến mất trong nháy mắt; họ còn có thể cải giọng bắt chước tiếng chim hót. Nhưng có vẻ như vẫn còn có nhiều chuyện đáng nói hơn.”

“Chắc chắn là vẫn còn, thưa bệ hạ,” Merry nói.

“Ví dụ một điều,” Théoden nói, “ta chưa từng nghe nói rằng họ phun khói ra đằng mồm.”

“Điều đó không có gì ngạc nhiên,” Merry trả lời, “bởi đó là một nghệ thuật mà chúng tôi mới thực hành có vài thế hệ. Tobold Rúc Tù Và, thị trấn Dãy Dài ở Tổng Nam, là người đầu tiên trồng thứ cỏ hút đích thực tại vườn nhà, vào khoảng năm 1070 theo niên lịch của bọn tôi. Làm thế nào mà già Toby bắt gặp loại thực vật này…”

“Ngài không biết mối nguy của ngài rồi, Théoden,” Gandalf cắt lời. “Những anh chàng Hobbit này sẵn sàng ngồi trên đống đổ nát mà kể về niềm vui thích cỗ bàn, hay những việc vặt của cha họ, ông họ, cụ họ, và cả những người họ hàng cách xa cả chín hệ, nếu ngài khuyến khích họ bằng sự kiên nhẫn vô hạn độ. Để khi khác thích hợp hơn sẽ kể lịch sử tục hút thuốc. Cây Râu đâu rồi. Merry?”

“Cháu tin là ông ấy đang ở mặt Bắc. Ông ấy đi kiếm thức uống - là nước sạch. Đa phần người Ent đang đi cùng ông ấy, vẫn còn bận rộn dở công việc - ở đằng kia,” Merry khuơ tay về phía hồ nước bốc hơi; và lúc nhìn theo, họ nghe thấy vọng lại tiếng ầm ào và soàn soạt, cứ như thể đang có trận đá lở lao xuống từ vách núi. Ở tít phía xa vang lên tiếng hoom-hom, như tiếng tù và đang thổi đắc thắng.

“Và vậy là Orthanc bị bỏ mặc không có ai canh gác ư?” Gandalf hỏi.

“Có nước,” Merry nói. “Nhưng Cây Nhanh Nhảu và vài người khác nữa đang canh chừng nó. Không phải tất cả những cột và trụ dưới đồng bằng kia đều là do Saruman dựng lên đâu. Cháu nghĩ Cây Nhanh Nhảu đang ở cạnh tháp đá, gần chân cầu thang.”

“Phải rồi, một người Ent màu xám cao lớn đang đứng đó,” Legolas nói, “nhưng tay ông ấy đang buông thõng, và ông ấy đứng im như một thân cây làm cổng.”

“Đã quá trưa rồi,” Gandalf nói, “và chúng ta dẫu sao cũng chưa ăn tí gì từ sáng sớm. Song ta muốn gặp Cây Râu càng sớm càng tốt. Ông ấy không để lại lời nhắn nào sao, hay bát đĩa và chai lọ đã xóa sạch khỏi đầu các cậu rồi?”

“Ông ấy có để lại lời nhắn,” Merry nói, “cháu đã định thông báo, thế mà lại bị ngăn cản bởi bao nhiêu câu hỏi khác. Cháu được yêu cầu nói nếu Chúa đất Mark và Gandalf đi đến bức tường phía Bắc họ sẽ thấy Cây Râu ở đó, và ông ấy sẽ chào đón họ. Cháu xin được nói thêm rằng họ cũng sẽ thấy những thức ăn thượng hạng ở đó, đã được tìm ra và lựa chọn bởi những kẻ đầy tớ hèn mọn này.” Cậu cúi người.

Gandalf cười phá. “Vậy tốt hơn rồi đấy!” ông nói. “Nào, Théoden, ngài sẽ đi cùng tôi đến chỗ Cây Râu chứ? Chúng ta sẽ phải đi vòng xung quanh, nhưng không xa đâu. Khi nào gặp Cây Râu, ngài sẽ học hỏi được nhiều điều. Bởi Cây Râu là Fangorn, là lão làng và chỉ huy của người Ent, và khi nói chuyện với ông ấy ngài sẽ được nghe tiếng nói của kẻ già cả nhất trong số tất cả những gì đang sống.”

“Tôi sẽ đi cùng ông,” Théoden nói. “Tạm biệt, những người Hobbit của ta! Cầu mong chúng ta sẽ gặp lại nhau trong nhà của ta! Ở đó các ngươi sẽ ngồi bên cạnh ta và kể cho ta nghe tất cả những gì trái tim các ngươi mong muốn: những chiến công của tổ tiên các ngươi, từ thuở niên lịch các ngươi còn nhớ được; và chúng ta cũng sẽ nói chuyện về Già Tobold và kiến thức thảo mộc của ông ấy. Tạm biệt!”

Hai chàng Hobbit cúi người thật thấp. “Vậy đó là Vua Rohan đấy!” Pippin khẽ nói. “Một cụ già rất cừ. Lịch sự ra phết.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx