sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 9: “Bí Mật Trên Đảo”

Tiếng la thất thanh của gã thanh niên lái xe đua Honda 800 bị chàng quẹt móp trước trụ sở du hí của hội Zombie. Văn Bình đinh ninh phát atémi của chàng làm hắn nhũn như con chi chi. Chàng không ngờ hắn chực sẵn dưới sân để chỉ điểm cho cảnh sát. Nếu chàng chịu khó đọc kỹ lịch sử nước Đan Mạch chàng đã nặng tay với hắn hồi nãy và đã ngăn ngừa được hậu hoạ. Người Đan Mạch thích cười, thích vui thật đấy, song họ khét tiếng về đức tính không chấp nhận sự lép vế, và có nghị lực vô tận. Đất đai của họ rất xấu, ai cũng tưởng họ chẳng trồng trọt được gì. Thế mà họ chiếm địa vị đàn anh về xuất cảng nông phẩm. Họ lại xuất cảng nhiều sản phẩm kỹ nghệ mặc dầu họ không có tí ti nguyên liệu nào hết. Người Đan Mạch còn một quốc tính khác: khi hiếu hòa thì không ai bằng, nhưng hễ đánh nhau thì hăng ra phết. Bằng chứng là ngày xửa ngày xưa họ dám xâm lược Anh quốc và gây chiến không ngừng với láng giềng Na Uy, Thụy Điển.

Gã thanh niên lái xe Honda quả là dân Đan Mạch thuần túy. Cổ họng hắn bầm tím mà hắn vẫn gào thét điếc tai. Nơi Văn Bình rớt xuống là cái sân hậu, ba phía có tường cao, trổ một khung cửa nhỏ dẫn ra đường hẻm. Khung cửa này mở rộng, và gã thanh niên đứng chềnh ềnh một bên với hai người đàn ông khác, chắc là nhân viên hộp đêm. Cả ba người đều cách Văn Bình một tầm phi cước. Vì vậy, phản ứng tất nhiên của chàng ngay sau khi chạm đất là phóng thăng thiên cước bằng chân trái. Lần này, chàng không tiết chế như trước nữa. Gã thanh niên trúng đòn ngang bả vai, lộn nhào qua khung cửa ra hẻm. Hai người cùng đứng với hắn lùi lại, nổ súng.

Thì ra họ không phải là nhân viên hộp đêm. Họ là an ninh chìm.

Không rõ phát súng đầu tiên chỉ để cảnh cáo hay là họ bắn tồi, Văn Bình chỉ biết là sau hai tiếng đoàng liên tiếp chàng vẫn còn sống phây phây, không một mảng da bị trợt. Và chàng đã phản công cấp thời để triệt hạ hai khẩu súng lục. Chàng thộp cánh tay tên ở gần nhất, lắc nhẹ một cái, nạn nhân xoay tròn như con quay rồi đâm sầm vào bạn hắn. Sức va chạm của hai khối thịt quá mạnh, chỉ nghe “bốp” một tiếng ngắn là cả hai gã đàn ông cân nặng gần hai tạ đã lăn kềnh trên đất.

Nửa tích tắc đồng hồ sau đó, Văn Bình đã thót vào một đường hẻm.

Một chiếc xe díp của công an đậu trước bin đinh của hội Zombie. Đám đông hiếu kỳ chỉ gồm lơ thơ vài chục người. Không khí chẳng có gì căng thẳng. Một cảnh sát viên mặc đồng phục chặn ngay cửa ra vào hộp đêm. Văn Bình chưa chịu đi vì còn nặng nợ với cái xe hơi sơn đen của gã gày nhom được gọi là “ông Ba”. Còn 40 phút nữa mới đến giờ hẹn. Văn Bình không cần hối hả. Từ xa, chàng ngắm nghía cái xe hơi đen quen thuộc. Té ra nó là sản phẩm của hãng AC, một hãng chế tạo xe hơi nhỏ bé ở Anh Quốc, nhưng chỉ khoái ráp xe hơi phóng nhanh như hỏa tiễn. Văn Bình tỏ vẻ khoan khoái vì đây là xe AC 428, động cơ khổng lồ mua của xưởng Ford ở Hoa Kỳ, tốc độ tối đa của nó nhiều khi còn làm đệ nhất thần mã cơ khí Ferrari xanh mắt và đổ bồ hôi hột. Chiếc 428 vẫn đậu nguyên ở chỗ cũ, khuất trong bóng tối mờ mờ. Trên xe không thấy ai. Chung quanh cũng không thấy ai. Văn Bình vòng sang bên kia đường, đi một quãng ngắn rồi lộn lại, trông trước trông sau một tích tắc trước khi phóc vào xe. Nó là xe mui trần, lại lùn tịt nên Văn Bình nhảy vào dễ dàng. Trong chớp mắt, chàng đã lái chiếc 428 lên phía bắc, nơi có hộp đêm kỳ lạ Skousen. Chàng không ngừng xe gần hộp đêm. Chàng tắt máy cách một trăm mét. Rồi, như tài xế đợi chủ chàng gác chân lên thành cửa bình thản kéo giấc ngủ bù trừ.

Chàng ngủ đúng 30 phút thì tỉnh dậy. Tinh thần và thể xác chàng trở nên nhẹ nhõm. Chàng hút thuốc, chăm chú quan sát khoảng đèn sáng trước mặt, nơi dạ khách đậu xe trước khi vào hộp đêm. Đúng kỳ hạn 40 phút, Văn Bình chạy xe từ từ dọc lề đường. Chàng lái thật chậm, cốt cho kẻ đợi chàng phải nhìn thấy. Chàng không biết hắn là ai nhưng chàng có linh cảm hắn từ hộp đêm Skousen ra. Ra đúng giờ. Chàng lại có linh cảm hắn đã biết “ông Ba” đến nơi hẹn bằng chiếc 428 sơn đen. Hình thù xe 428 hơi lập dị nên từ đằng xa người cận thị cũng phải trông thấy nó. Miệng Văn Bình nở nụ cười thỏa mãn vì một gã đàn ông vạm vỡ giơ tờ báo cầm tay vẫy chàng rối rít. Chàng xả hết tốc độ, đến sát gã đàn ông vạm vỡ mới thắng xe lại. Bản tâm chàng không muốn cho hắn có hoàn cảnh nhận diện ra chàng. Cửa xe vừa mở, hắn đã cúi đầu xuống, chắc hắn cần nhìn rõ mặt tài xế rồi mới trèo lên. Văn Bình đã kéo mui xe, lại giương kính kín mít nên hắn không thể ngó thấy chàng. Và trong khi hắn còn loay hoay, chàng nắm tay hắn kéo mạnh vào xe. Chiếc 428 động cơ gần 7.000 phân khối chồm lên, biến khỏi vùng ánh sáng của đèn nê ông. Gã đàn ông phản đối:

- Anh Ba làm cái gì kỳ cục vậy?

Văn Bình lái xe bằng tay trái, bàn tay phải của chàng xòe ra quạt ngang mặt đối phương. Chàng đánh thật ngọt, đối phương hự một tiếng cụt lủn rồi dập đầu vào táp lô. Văn Bình nhằm hướng Dương viên trực chỉ.

Du khách ghé Đan Mạch thường đọc thấy một khẩu hiệu rí rỏm của sở Du lịch “Hãy giải trí 24 giờ trên 24 trong thời gian lưu lại Copenhay, chừng nào qua nước khác thì hãy ngủ bù”. Khẩu hiệu này rất đúng. Trời sắp sửa sáng mà nhiều khu vực còn thức. Đường lên Dương viên vắng vẻ hoàn toàn, tuy nhiên Văn Bình lại có cảm tưởng là tứ phía có người. Sở dĩ không nhìn thấy ai là vì các cặp trai gái ôm nhau trong bóng tối. Đến tấm bảng lớn sơn trắng chữ đỏ “Đường riêng đến biệt thự Olsen, người lạ cấm vào”, Văn Bình đậu xe. Nền đường đen bóng nổi bật giữa khoảng trống mênh mông, rập rình cát trắng và vù vù gió mặn. Chàng đã đến gần biển. Hòn đảo thuộc quyền sở hữu của tỉ phú Olsen nằm thưỡn bên phải, bị màn sương trắng che phủ, cách nơi chàng đậu xe 5 cây số đường chim bay. Văn Bình mở đèn táp lô, quan sát gã đàn ông đang gục đầu mê man. Chàng lật hắn nằm ngửa. Hắn trạc 35, da trắng, mặt hiền lành như thể hắn là giáo sư đại học, không phải nhân viên một tổ chức giết người thâm độc và tàn bạo. Đòn atémi của chàng chạm huyệt yết hầu nên hắn bất tỉnh tức khắc. Chàng điểm huyệt giải mê rồi nắn bóp bả vai hắn cho máu chạy đều. Hắn mở mắt ngơ ngác.

Chàng hỏi hắn:

- Anh biết tôi?

Hắn thều thào:

- Biết.

- Anh Ba đã bị tôi giết chết. Nếu anh không muốn chung số phận, anh phải dẫn tôi đến gặp ông Olsen.

- Đường hầm ban đêm đóng cửa.

- Tôi sẽ mở ra.

- Vô ích. Hệ thống cung cấp dưỡng khí được điều khiển từ trên đảo. Ban an ninh trên đảo cúp máy điện là đường hầm trở thành địa ngục. Không có ôxygen, lấy gì mà thở?

- Anh đã biết đường hầm bị đóng cửa và cúp hệ thống cung cấp dưỡng khí, tại sao lại gọi điện thoại cho anh Ba bắt hắn tháp tùng anh lên đảo?

- Tôi lừa hắn.

- Nghĩa là anh lừa hắn ra khỏi thành phố thì…

- Vâng. Lệnh trên buộc tôi thanh toán hắn. Hắn làm việc dưới quyền tôi. Tôi rất thương hắn, song lệnh là lệnh, không ai được quyền trái lệnh. Trái lệnh, tôi cũng bị mất xác như chơi.

- Lệnh trên là lệnh của ai?

- Ông đừng hỏi nữa, tôi không nói đâu. Thà bị ông giết còn hơn bị nội bộ giết. Với lại tôi muốn nói cũng không nói được vì tổ chức tôi chỉ biết nhau bằng mã số. Cấp trên không khi nào giáp mặt tôi. Nói rõ hơn, cấp trên biết mặt tôi, biết rõ đời tư của tôi, nhưng về phần tôi, tôi hoàn toàn mù tịt.

- Anh là nhân viên R.U.?

Gã đàn ông ngậm thinh. Văn Bình vung cao bàn tay, hăm dọa:

- Tôi lặp lại: anh là nhân viên R.U.?

Gã đàn ông tiếp tục ngậm thinh. Hắn cứng đầu là đúng. Bất cứ điệp viên nào cũng cứng đầu khi bị sa vào tay đối phương. Còn cứng đầu được bao lâu lại là chuyện khác. Những kẻ am tường nội ngoại công với hơn 10 năm tập luyện quyền cước còn không cứng đầu nổi đối với chàng, phương chi hắn chỉ là điệp viên thư sinh mặt trắng. Chàng bèn gõ nhẹ khớp xương vai. Hắn nghiến răng chịu đau, mắt chớp láo liên, bồ hôi vã đầm đìa. Chàng gia tăng thêm công lực. Lần này hắn đành há miệng buột ra tiếng rên thảm thiết. Văn Bình ghé miệng sát tai hắn, gằn giọng:

- Anh là nhân viên R.U.?

Hắn đáp “vâng” lí nhí. Văn Bình vui như mở cờ trong bụng. Hiệp hội Người chết Hồi sinh đã có liên hệ với do thám Xô Viết R.U. Đan Mạch ở gần Liên Xô, và từng được coi là giang sơn của R.U. Ông Hoàng phái chàng đến khuấy động nên R.U. không thể khoanh tay nhìn chàng múa gậy vườn hoang. Điều này rất dễ hiểu. Tuy nhiên, chàng không hiểu R.U. thủ tiêu chàng vì lý do thù hằn cố hữu hay lý do nào khác. Bất giác, trán chàng cũng vã bồ hôi đầm đìa. Ông Hoàng gớm thật. Vụ làm công cho tỉ phú Olsen chắc chỉ là cái cớ để ông vào tận hang sâu bắt cọp dữ.

- Thượng cấp của anh trên đảo là ai?

Gã bạch diện thư sinh lại nín lặng. Khi thấy chàng vung tay, hắn hoảng hồn khai ngay:

- Ông đừng đánh nữa, tôi chết mất. Thượng cấp của tôi là Riga. Cô Riga, bí thư của ông già Olsen.

Té ra nàng là Riga. Văn Bình nhớ lại giọng nói chua lòm như mẻ trong điện thoại. Nghe đâu Riga mới hăm mấy xuân xanh. Trong giây nói, giọng nàng lại khô khan như giọng cô gái ế chồng đã vượt cấm địa… tứ tuần.

- Nội đêm nay anh phải lên đảo trình diện cô Riga?

- Thưa ông, không. Làm xong nhiệm vụ, nghĩa là hạ sát anh Ba xong, tôi trở về thành phố, kêu điện thoại báo cáo.

- Anh lên đảo bao nhiêu lần rồi?

- Thưa, khoảng nửa tháng một lần, tùy theo chỉ thị của cô Riga. Thật ra, tôi không phải là nhân viên chính thức. Nhân viên chính thức đều từ Liên Xô tới, và mang quốc tịch Xô Viết, hoặc dùng sổ thông hành một nước Bắc Âu, như cô Riga. Tôi sinh trưởng ở Đan Mạch, tôi được họ kết nạp vào tổ chức theo thể thức khẩu ước.

- Anh lên đảo bằng đường nào?

- Đường hầm, nếu đi ban ngày. Còn ban đêm thì đi thuyền máy.

- Thuyền máy đậu ở đâu?

- Sau trạm gác của đường hầm, có bãi cát dài hai cây số, thuộc quyền sở hữu của ông Olsen. Tại đó có sẵn nhiều ca nô, giành cho khách quen đến bơi lội, trượt nước, hoặc săn bắn dưới biển. Ca nô không thể lại gần đảo vì cách đảo 500 mét là khu sóng ngầm. Khu này luôn luôn được cắm cờ đen, cấm vượt qua. Nhiều người đã bị đắm thuyền và chết đuối trong quá khứ. Ông Olsen tậu hòn đảo này làm nhà riêng vì khu sóng ngầm đã biến nó thành pháo đài bất khả xâm phạm. Cho dẫu người lạ vượt qua khu sóng ngầm an toàn thì cũng đừng hòng đổ bộ lên đảo vì chung quanh đảo có bức tường thành bằng đá ong cao 10 mét.

- Anh làm cách nào ghé đảo bằng thuyền máy?

- Cô Riga chờ tôi đúng giờ phút đã định tại nơi cắm cờ đen.

- Nghĩa là cô Riga vượt qua khu sóng ngầm an toàn?

- Vâng. Tôi đoán có một hành lang không gặp nước xoáy, và cô Riga lái theo hành lang này.

- Cô Riga rời đảo bằng thuyền máy, thế tất có bến đậu hẳn hoi, chứ không phải chỉ có bức tường 10 mét bất khả xâm phạm. Bến đậu ca nô nằm về hướng nào?

- Tôi chưa ghé đảo lần nào bằng ca nô.

Văn Bình nhún vai:

- Thôi được. Chúng ta đi.

Gã bạch diện thư sinh toan nhích sang trái để cầm vô lăng, nhưng Văn Bình đã gạt:

- Khỏi cần anh lái xe.

Gã bạch diện tranh lái xe không phải là điều lạ. Lệ thường, người ta bắt địch cầm vô lăng để dễ kiểm soát phản ứng. Không ai dại gì lái xe trong khi địch được ngồi thảnh thơi, rình rập cơ hội chuyển bại thành thắng. Ban đêm, trời tối om, một con thú nhỏ băng qua đường khi ôm “cua” hơi gắt, một luồng gió mạnh, một lằn chớp xẹt đủ làm tài xế lơ đễnh – không lơ đễnh nhiều, chỉ lơ đễnh phần trăm tích tắc đồng hồ - và địch có thể giành lại chủ động dễ như chơi. Văn Bình đã biết như vậy. Chàng không khinh địch mặc dầu chàng đã có hoàn cảnh thử tài địch. Võ thuật của hắn còn ở trình độ trung bình. Hắn chỉ hy vọng chiếm ưu thắng nếu chàng bị tấn công xuất kỳ bất ý.

Gió rạng đông thổi ào ào. Văn Bình lái xe rẽ vào con đường nhựa nhẵn thín, mỗi bên được trồng một tấm bảng “đường ra biển Olsen, cây số”. Chàng tắt luôn ngọn đèn xanh táp lô. Trong xe tối om. Tuy vậy, Văn Bình vẫn thấy rõ. Vừa lái chàng vừa theo dõi gã bạch diện bằng đuôi mắt.

Đến một khúc quanh. Văn Bình phóng thật nhanh, đoạn thắng gấp trước khi bẻ quẹo vô lăng. Gã bạch diện ngã nhào vào vai chàng. Đúng ra, hắn chủ tâm ngã nhào vào vai chàng. Và chàng cũng chủ tâm tạo điều kiện cho hắn quạt atémi vào cuống họng chàng. Lối phát đòn của hắn khá gọn gàng và nhậm lẹ. Đáng tiếc là hắn gặp chàng. Gặp người khác, hắn có thể lật ngược thế cờ. Tiếng gió từ bàn tay hắn phát ra gần át được tiếng gió biển, chứng tỏ hắn đã mất trên 5 năm tập luyện chưởng phong Trung Hoa. Văn Bình không né đòn. Chàng chỉ hơi thay đổi thế ngồi để khỏi trúng yếu huyệt. Hắn tưởng chàng bị tử thương. Hắn không ngờ đòn chết của hắn lại gây ra tiếng “bình” như thể cổ Văn Bình là trái bóng cao su bơm căng. Hắn biết dại thì đã quá muộn. Văn Bình không thể không giết hắn. Chẳng qua chàng lừa hắn ra tay trước để lương tâm chàng đỡ cắn rứt. Bàn tay phải của Văn Bình bật ngược như chớp xẹt. Đánh atémi bằng cạnh bàn tay, võ Nhật gọi là đòn sihon-nukitê vốn là sở trường của điệp viên Z.28. Với tài nghệ đai đen đệ tứ của chàng thì đòn sihon-nukitê ác liệt như con dao rựa chẻ củi, phương chi chàng còn phối hợp phép đánh cổ truyền nhu đạo với Quan âm chưởng của Thiếu Lâm tự, một bí kíp võ lâm dùng sống bàn tay tiện chặt những cây gỗ lớn như trò đùa. Bởi vậy, nạn nhân bị đập nát yết hầu, ngã rụp vào thành cửa. Văn Bình mở cửa xe, hất xác hắn xuống đường, đoạn tiếp tục lái về phía bãi cát riêng của tỉ phú Olsen.

Từ xa, chàng nhìn thấy một giẫy nhà nhỏ sơn trắng. Chắc đây là cabin bằng gỗ giành cho khách nghỉ ngơi và thay quần áo, dội lại nước ngọt. Văn Bình đậu xe ở xa, đi băng qua rừng thông ra biển. Biển ở phía dưới, rừng thông chạy dài trên sườn đồi thoai thoải. Trời sắp sáng, màu cây thẫm in cắt những chấm lớn trên nền biển trắng. Văn Bình ngần ngừ một phút trước giãy ca nô. Chàng không muốn ra đảo bằng ca nô vì sợ lộ. Giờ này bãi biển vắng hiu. Người gác còn ngủ. Vả lại, chẳng có gì để cần canh phòng cẩn mật. Khu vực sóng ngầm hiểm nghèo và bức thành đá ong cao 10 mét an toàn đã quá đủ để làm nản chí những kẻ giang hồ vặt mắc bệnh tò mò bất trị…

Từ đây ra đảo khoảng 4, 5 cây số. Bơi là tiện nhất. Nghĩ vậy, chàng tiến thẳng ra biển. Hơi nước mát rợi làm chàng thoải mái. Chàng quan sát sau lưng hồi lâu. Tuy không thấy ai chàng vẫn cẩn thận bơi ngửa hầu tiếp tục kiểm soát bãi cát và đồi thông. Chẳng mấy chốc bãi cát trắng và đồi thông đen được thu nhỏ lại thành con đường thẳng lẫn lộn. Vầng đông bắt đầu chuyển sang màu sữa cà phê loãng.

Khi bóng đêm tan non nửa trên mặt biển đầy sương và khói nước trắng xóa thì Văn Bình đụng giãy phao cắm cờ đen. Đây là ranh giới báo hiệu gần đến khu sóng ngầm.

Đang bơi craw1, chàng xoay ngửa lại như hồi nãy. Chàng mặc cho giòng nước cuốn chàng đi. Trước khi xâm nhập khu sóng ngầm, chàng phải hít thở thật nhiều dưỡng khí dự trữ, đồng thời tập trung chân khí hầu đối phó hữu hiệu với những nguy hiểm ghê gớm có thể xảy ra. Chàng đã có kinh nghiệm về cách chế ngự sự tác hại của sóng ngầm. Sở dĩ nhiều người bơi giỏi vẫn chết như thường là vì họ thiếu điềm tĩnh. Sự sợ hãi bất thần này làm họ bất tỉnh hoặc làm tứ chi họ cứng lại. Thiếu điềm tĩnh cũng chưa dễ chết bằng thiếu kiến thức về xoáy nước. Đợt sóng ngầm xoáy tròn cuồn cuộn như trôn ốc, nạn nhân bị kéo tuột xuống đáy biển, và chết vì hôn mê bất tỉnh, dưỡng khí thiếu hụt và bị chặn nghẹt, không bơm kịp lên óc. Do đó, muốn hóa giải sóng ngầm phải luôn luôn tỉnh táo, luôn luôn giữ cho lá phổi khỏi bị ngập nước và khí thở được đầy đủ. Riêng Văn Bình đã học được một bí kíp của dân chài sinh sống ở dọc biển Hồng Kông. Tại đây, có từ 130 ngàn đến 200 ngàn người Tàu, một phần là giòng giõi đám giặc biển ngày xưa lộng hành ven bờ Nam Hải. Trước kia, số thủy dân quen với nếp sinh hoạt trên nước, cuộc đời của họ từ khi lọt lòng mẹ đến khi nhắm mắt suôi tay hoàn toàn diễn ra trong con thuyền bồng bềnh. Những ai ghé thăm khu Aberdeen đều gặp họ, gặp những con thuyền lênh đênh ngày đêm. Là thủy thủ, họ không thể không quen với sóng ngầm. Ngoài khơi Cảng Thơm lại là một trong những nơi có nhiều nước xoáy. Một số thủy dân am tường võ nghệ đã coi sóng ngầm như trò đùa nhờ một bí kíp gọi là xuyên ba công. Nôm na, xuyên ba công là môn vận kình giúp người bơi trên biển động vượt xuyên sóng dữ. Nó phát xuất từ phép phi thiềm tẩu bích của Thiếu Lâm tự. Giới Sơn Dông mãi võ giỏi phi thiềm tẩu bích nên có thể nhào xa 5, 6 mét, chui qua những cái vòng nhỏ đốt lửa rần rần hoặc cắm dao nhọn tua tủa mà không bị hề hấn. Với xuyên ba công, một số thủy dân gần Hồng Kông chỉ rướn nhẹ là chọc thủng được hàng rào sóng ngầm, từ chỗ nguy hiểm ra nơi an toàn trong chớp mắt. Văn Bình chưa đạt tới trình độ thượng thừa về xuyên ba công, tuy nhiên chàng không mấy sợ nước xoáy. Chàng bỏ bơi ngửa, áp dụng lối bơi chân phương của loài nhái, mắt nhìn thẳng những đợt sóng lớn như tòa nhà nhiều tầng đang rầm rộ kéo đến.

Như chàng tiên liệu, chàng vừa chui vào con sóng thì gặp ngay sức hút cuồn cuộn của nước xoáy. Chàng có cảm giác như hàng chục, hàng trăm nồi súp de khổng lồ đang nấu nước sôi sùng sục bên tai chàng. Và ngay khi ấy như thể nhiều bàn tay vô hình - những bàn tay vô hình vô cùng lợi hại của hàng chục, hàng trăm con bạch tuộc vô hình - chộp bắt hai chân chàng, dốc ngược đầu chàng xuống. Tích tắc đồng hồ này là tích tắc quyết định sự sống hay sự chết. Nếu người bơi không có cách nào cưỡng lại thì con nước xoáy sẽ hút luôn xuống đáy, và khoảng cách mấy chục mét từ mặt biển xuống đáy biển sẽ là chặng đời cuối cùng của nạn nhân. Nạn nhân bất tỉnh. Trái tim ngừng đập. Con người với đủ trí tuệ, hỉ nộ ai lạc, bỗng biến thành khối thịt xương vô tri vô giác, chìm buông theo giòng nước vô tình. Văn Bình phóng mạnh đầu ngón tay. Nguyên khí chất chứa trong tạng phủ chàng cuồn cuộn như vũ bão, 10 đầu ngón tay có tác dụng của một hỏa tiễn rời giàn phóng, và trong vi phân thời khắc ấy, toàn thân Văn Bình đã xuyên phá được pháo lũy sóng ngầm để nổi lại lên mặt biển.

Mặt trời chưa ló dạng nhưng sương mù đã bay tản gần hết. Trước mắt Văn Bình, một bức thành cao ngất chạy dài sừng sững. À, đó là bức thành đá ong kiên cố cao 10 mét. Thoạt nhìn, Văn Bình biết ngay đảo Olsen chỉ là khối đá và san hô từ dưới biển trồi lên không đủ kiên cố và rộng rãi để xây cất dinh thự đồ sộ. Olsen đã tăng thêm diện tích bằng cách nối ghép sàn và gióng thép, giống như những hòn đảo nhân tạo do các hãng khai thác dầu hỏa lập trên biển. Bức tường đá ong cao 10 mét, nghĩa là tương đương chiều cao tòa nhà ba tầng. Vậy mà Văn Bình thấy nó vươn cao lên không như sắp đụng vòm trời đầy mây đen, sám, hồng lẫn lộn. Chàng sực nhớ đến xa lộ Olsen. Thì ra bức tường gây cảm tưởng cao ngút trời vì có máy phun hơi mù.

Văn Bình bơi lại sát chân tường, bám lan can sắt ở mấp mé mặt nước. Nước ở đây - kỳ lạ thay - lại phẳng lì như nước hồ. Không thấy sóng lớn. Gió thổi làm nước gợn lăn tăn. Tiếng nước chạm lan can sắt ở chân tường nghe êm tai khiến Văn Bình ríu mắt buồn ngủ. Chàng vội lắc đầu thật mạnh. Hơi mù dễ làm buồn ngủ. Chàng phải tìm cách trèo tường lọt vào nội địa, nếu không thân thể chàng sẽ mệt rừ dưới tác động của hơi mù hóa học.

Trời bắt đầu sáng. Một đàn chim màu trắng mỏ đỏ bay liệng trên đảo. Bức tường đá ong đen sì được xây tròn, cứ cách quãng 100 mét lại có ngọn tháp nhọn hoắt, dường như là vọng gác. Tuy nhiên Văn Bình quan sát kỹ mà không thấy ai. Có lẽ hệ thống canh phòng bằng máy điện tử chứ không bằng người canh gác. Văn Bình bơi theo lan can. Đột nhiên chàng khựng lại.

Và suýt kêu sửng sốt.

Vì trong tầm nhỡn tuyến của chàng, một cánh cửa vừa hiện ra. Cánh cửa được trổ trong tường đá ong. Cánh cửa mở rộng, vừa đủ chỗ cho một chiếc thuyền máy xinh xẻo chạy ra ngoài, động cơ nổ xình xịch, chân vịt rẽ nước tung tóe trắng xóa. Văn Bình lặn thụp xuống nước vì chàng đang ở giữa hướng đi của ca nô. Trước khi khuất sâu dưới biển, chàng đã có đủ thời giờ nhìn rõ người ngồi trong ca nô. Đây là ca nô nhỏ, dùng để du ngoạn thể thao cho phái trẻ nên động cơ cực mạnh. Vỏ nó bằng lát tích nhẹ, trang trí đơn sơ nhưng nhiều màu sặs sỡ. Trên ca nô có 2 người. Văn Bình nhận ra Nana và Vôn-hốp. Nana cầm vô lăng. Nàng có lối điều khiển thuyền máy gọn gàng, khéo léo và gan dạ. Vôn-hốp ngồi bên, nửa mặt hắn được cặp kiếng màu che lấp. Chiếc ca nô thuôn dài vọt qua chỗ Văn Bình lặn, và trong chớp nhoáng đã nhòa biến vào vừng sáng vàng chóe của mặt trời mới mọc.

Văn Bình phản ứng nhanh như máy. Chàng biết là cánh cửa sắt sắp được đóng lại bằng vô tuyến điều khiển. Bấm nút trên táp lô thuyền máy thì cửa mở, thuyền máy chạy qua thì nó tự động đóng lại. Chàng trồi lên, bơi vùn vụt về phía cửa. Hú vía… Chàng vừa qua khỏi thì nó cũng vừa khép chặt. Sau cửa là một cái hồ vuông vức, mỗi cạnh hơn 100 mét. Thuyền máy xếp thành hàng dài dọc những bậc cấp cẩn đá cẩm thạch Ý Dại Lợi màu xanh nổi vân đỏ tuyệt đẹp. Sau hồ tắm nước trong veo là tòa nhà trệt được dùng làm nơi thay quần áo và giải khát.

Mới 6 giờ sáng nên chưa có ai tắm. Vả lại, dường như đây là hồ tắm riêng của Nana vì tứ phía đều có tường bao bọc. Văn Bình bơi thêm một quãng ngắn rồi trèo lên bờ. Tuy khí hậu không lạnh, chàng vẫn rét run vì chàng vừa ngâm nước hơn một tiếng đồng hồ. Chàng ao ước một ly rượu ấm lòng và một góc lò sưởi để hong khô quần áo. Tòa nhà trệt gồm nhiều cửa ra vào. Văn Bình xô hú họa cánh cửa gần nhất. Chàng mừng rơn: sự mong muốn của chàng đã thành tựu. Cái quầy rượu lót kẽm nằm bên phải, choán trọn góc nhà, đối diện hai tủ gỗ lớn đựng quần áo. Chàng mở tủ, chọn trong đống y phục treo ngay ngắn một bộ vừa tầm vóc chàng. Hồ tắm của tỉ phú có khác. Khách khứa đến tắm mắc bệnh đãng trí không sợ thiếu quần áo. Y phục nam nữ, đủ hết. Đủ kiểu. Đủ cỡ. Từ to cao, giành cho thân thể quá khổ king-kong đến thấp nhỏ trung bình Á Đông. Thậm chí Văn Bình còn thấy sơ mi cụt và dài tay ủi thẳng nếp, và mấy tá cà vạt lủng lẳng bên trên những đôi giày da đánh xi ra có thể soi gương được nữa.

Chàng khỏi lục lọi mất công: quầy rượu chứa toàn cognac và huýt ky. Chàng uống một hơi nửa chai huýt ky đoạn lò dò qua phòng bên.

Té ra đây là nhà chứa xe. Chàng không kinh ngạc khi thấy những chiếc xe hơi chạy bằng động cơ điện. Giai nhân Nana vốn ưa xe hơi điện. Chàng đang say sưa ngắm chiếc Daihatsu điện thì có tiếng người hỏi lớn:

- Ông vào đây làm gì?

Hỏng bét, Văn Bình đụng đầu người gác. Một người trung niên, cởi trần trùng trục, vai dầy, cằm bạnh, mặt đỏ gay như vừa khiệng lít rượu mạnh. Một trong những xe hơi chạy điện sinh sau đẻ muộn nhưng lừng danh trên thế giới là Daihatsu. Bề ngoài nó không khác xe Daihatsu cà rịch cà tang trên đường phố Sàigòn. Nhưng coi chừng… ruột nó là công trình của nhiều năm nghiên cứu. Nó cân nặng 1.000 kí, nghĩa là không nặng hơn loại xe hơi thông thường chạy bằng xăng vậy mà tốc độ của nó vượt 70, 80 cây số/giờ ngon ơ. Nó chạy được một giờ là phải xạc lại bình ắc quy. Máy nó êm ru, không thua đàn anh Cadillac. Văn Bình nhún vai nhìn người gác. Hắn đeo tòng teng dưới nách khẩu súng lục nòng dài. Hắn chưa nghĩ chàng là gian phi nên khẩu súng còn nằm yên trong túi da. Do đó chàng có thể bình thản đối phó cho dẫu hắn rút súng chàng cũng không sợ. Chàng có đủ thời gian đạp ngã hắn ngã.

Gặp người gác thật rủi, nhưng cũng thật hên. Rủi vì sự hiện diện lén lút của chàng trên đảo đã bị bại lộ. Rủi mà hên vì chàng đang băn khoăn, không biết làm cách nào đột nhập phòng riêng của Olsen thì gã đeo súng lục bỗng vác mặt tới. Chàng lừng khừng chưa trả lời thì người gác hỏi tiếp:

- Ông là ai?

Hắn hỏi chàng như vậy có nghĩa là hắn không biết mặt chàng. Càng tốt. Chàng chắt lưỡi, bộ điệu phớt đời:

- Bạn của cô Nana.

Hắn nheo mắt, quan sát chàng từ đầu xuống chân, giọng bối rối:

- Quái lạ, tại sao cô chủ không dặn tôi tiếp rước ông?

- Cô chủ vừa đi thuyền máy với ông Vôn-hốp.

- Vâng, sáng nào cô chủ cũng ra ngoài, tập bơi qua nước xoáy. Nhưng… ơ kìa, tôi chưa hề biết ông.

- Trước lạ, sau quen.

- Ông vào đây bằng đường nào?

Văn Bình chỉ cánh cửa sắt. Người gác hoảng hồn đưa bàn tay lên nách. Hắn chưa kịp rút súng thì Văn Bình đã ngáng chân, quét hắn ngã nhào. Tội nghiệp, đầu hắn rơi nhằm bình ắc quy, loại bình ắc quy xe hơi chạy điện lớn và nặng gấp chục lần bình ắc quy xe hơi chạy xăng thông thường. Hắn choáng váng, gắng gượng hồi lâu mới bò dậy nổi. Mặt hắn nhăn như bị rách:

- Ông đánh đau quá!

Văn Bình cười:

- Mới dọa chơi đã sống dở chết dở, nếu đánh thật chẳng hiểu anh sẽ ra sao. Lấy áo mặc vào, nhanh lên. Và ném khẩu súng ăn hại kia xuống đất.

Người gác vâng dạ líu lưỡi. Hắn luýnh quýnh đến nỗi gài lộn khuy áo nhiều lần. Miệng hắn mếu máo, cử chỉ hắn vụng về:

- Thưa… ông cần gì ạ?

Văn Bình mở cửa xe Daihatsu điện:

- Trèo lên. Lượn một vòng.

- Dạ, đi đâu?

- Gặp cô Riga.

- Thưa, giờ này văn phòng chưa mở.

- Thì đến phòng ngủ.

- Trời đất! Không ai được phép vào khu tư thất. Cô Riga ở sau giẫy phòng của ông chủ, nơi đó là cấm địa. Nhân viên nào sớ rớ đến gần là bị đuổi khỏi đảo.

- Anh dẫn tôi tới đó rồi về một mình.

- Dạ, nhưng…

- Chẳng nhưng với nhị gì cả. Trèo lên.

- Dạ, tôi xin trèo lên xe. Sở dĩ tôi ngần ngại là vì tôi chưa nói qua với nó…

- Nói qua với nó? Anh cần xin phép ai?

- Dạ, không phải xin phép. Nó là chúa hay ghen. Thường hay ghen bóng ghen gió, ghen ngược mới chết chứ. Nó đang chờ tôi trong phòng, tôi ra đây lấy chai rượu thì đụng ông. Lát nữa, không thấy tôi vào, nó tưởng tôi đi tò tí te với bọn tớ gái trẻ đẹp của cô chủ, nó sẽ nổi cơn tam bành. Tôi sẽ mất ăn mấy ngủ vì nó…

- Anh hơi mập, cũng nên mất ăn mất ngủ một thời gian cho thân hình được cân đối.

- Lạy ông, ông cho phép…

Té ra gã đàn ông mặt đỏ oai vệ, thân hình nghênh ngang này lại là cao thủ về môn… râu quặp. Văn Bình bật cười:

- Không phép tắc gì cả. Anh có hiếu với vợ hơi nhiều. Ráng can đảm lên.

- Ông ơi, ông sai gì tôi cũng làm răm rắp, duy ông đừng bắt tôi trái lời nó. Nó dữ như cọp gấm. Nó là võ sĩ nhu đạo đai đen. Kìa, ông ơi…

Văn Bình nghe tiếng đằng hắng. Cô vợ “dữ như cọp gấm” vừa hiện ra, tay chống nạnh, mặt hầm hầm. Đúng là Văn Bình ra ngõ gặp gái, từ hồi tối đến giờ vướng mắc toàn chuyện lãng nhách. Sự so sánh của anh chồng sợ vợ không sai mấy: mụ vợ của hắn quả là con cọp. Về tuổi tác, mụ trạc 42, 43 nghĩa là hơn chồng gần chục mùa… đông, gương mặt xồn xồn của mụ nổi bật những nét hung hãn với cái mũi sư tử, cái miệng cá ngão rộng hoác và cặp mắt, eo ơi, đầy ứ tròng trắng và gân máu đỏ tươi. Trên người mụ chỉ được bộ ngực và cặp giò là sạch nước cản. Tuổi tác không ảnh hưởng gì đến bộ ngực rắn, tròn và khiêu khích, không thua báu vật của kiều nữ đôi mươi tràn trề nhựa sống. Cặp giò của mụ thuộc loại chân dài thòng. Dài mà không chênh lệch với chiều cao của thân hình. Văn Bình được tự do quan sát cặp giò vì mụ vợ mặc áo ngủ, thứ áo bằng voan chẳng che đậy được gì hết. Thấy người lạ, mụ hơi ngượng ngùng, nhưng lời phát biểu của anh chồng làm mụ tức lộn ruột, quên cả giữ gìn. Mụ nghiến răng ken két:

- Hừ, tôi làm gì anh mà anh chê tôi dữ như cọp gấm?

Gã chồng chết lặng, da mặt tái mét. Mụ vợ khệnh khạng tiến lại, xỉa xói:

- Đàn ông nói xấu vợ với khách lạ là đàn ông hèn, đàn ông ăn hại, đàn ông vô dụng. Anh có giỏi hãy lặp lại tôi nghe…

Gã chồng lí nhí:

- Tôi lỡ miệng. Mình đừng quật tôi, tội nghiệp.

Mụ vợ phân vua với Văn Bình:

- Chẳng qua kiếp trước tôi vụng tu nên kiếp này mới gặp anh chồng rác rưởi này. Đàn ông gì mà không biết miếng võ nào. Đàn ông gì mà chưa nói đã khóc rưng rức. Nể ông nên tôi chỉ răn dạy cảnh cáo…

Nói dứt, mụ vợ chộp cánh tay anh chồng vặn nhẹ. Anh chồng sợ gãy xương phải nhảy lên như con choi choi. Mụ vợ rùn chân, xuống tấn, hất anh chồng qua vai. Nạn nhân bị quăng ra xa, ngã rụp xuống góc nhà, không bò dậy nổi. Danh dự truyền thống của giống đực thức dậy rần rần trong lòng Văn Bình. Chàng không thể cho phép mụ vợ lăng loàn tiếp tục hiếp đáp chồng trước mặt chàng nữa. Nhưng chàng cũng không thể xử dụng quyền cước. Chàng đành nhẫn nhục lôi anh chồng dậy, xoa nắn các khớp xương của hắn. Mụ vợ đá vào hông chàng, giọng dấm dẳn:

- Ông đứng lên ngay. Tôi không thích người ngoài can thiệp vào chuyện riêng giữa vợ chồng tôi.

Dĩ nhiên là chàng ngồi lì. Không những thế, chàng còn nhăn răng cười. Mụ vợ dẫm chân thình thịch:

- Nếu ông còn lừng khừng, ông đừng trách tôi.

Lối cười của Văn Bình mỗi lúc một thêm ngạo mạn. Gã chồng đã tỉnh hẳn. Hắn giương cặp mắt ốc nhìn vợ. Mụ vợ lại co chân đạp xương sống Văn Bình. Mụ vận toàn lực với mục đích hạ gục chàng ngay đòn đầu tiên. Kể ra tài nghệ của mụ không đến nỗi xoàng, mụ mang đai đen thật thụ trăm phần trăm. Khốn nỗi tài nghệ của Văn Bình đã tới trình độ thượng thừa nên ngọn cước cực kỳ lợi hại kia trở thành trò phủi bụi. Lãnh cái đá trời giáng giữa lưng, Văn Bình không hề suy xuyển. Mụ vợ điên tiết thoi luôn hai quả vào màng tang chàng. Quả đấm thứ nhất trệch khỏi mục phiêu. Quả đấm thứ nhì dội bắn trở lại, như thể nắm tay mụ là trái bóng cao su và da thịt Văn Bình là bức tường bê tông cốt sắt. Mụ kêu “ối” một tiếng rồi ngã khuỵu. Văn Bình không hề giơ tay, không hề xuất chiêu mà mụ đàn bà dữ như cọp gấm đã lăn ra bất tỉnh. Gã chồng lật mí mắt vợ rồi hỏi Văn Bình:

- Nó ngủ chừng nào mới dậy hả ông?

Văn Bình đáp:

- Nửa giờ.

Gã chồng râu quặp mặt tươi như hoa nở:

- Cho chừa. Nó bắt nạt tôi từ 5 năm nay. Trên đảo này ai cũng ngán nó. Tôi muốn ly dị nhiều lần mà không nổi. Nó tự khoe là đệ nhất võ sĩ. Bị ông hạ đo ván hôm nay là nó hết ăn tục nói phét. Ông vừa rửa nhục giùm tôi. Tôi xin đội ơn ông. Ông muốn gặp cô Riga, tôi sẽ dẫn ông đến. Bị đuổi, bị mất việc, tôi cũng chẳng thiết.

Câu chuyện trời ơi đất hỡi giữa đường đã kết thúc thuận lợi cho Văn Bình. Chàng trèo lên xe hơi Daihatsu song gã chồng râu quặp xua tay:

- Đi thuyền máy mới đến được tận nơi.

Trời bắt đầu nắng lớn. Gã chồng coi giờ nói:

- Khoảng 30 phút nữa cô chủ mới về. Còn kịp chán.

Gã chồng ra hiệu cho chàng bước xuống chiếc ca nô vỏ lát tích thuôn tròn như điếu xì gà. Hắn cầm lái, chân vịt rẽ nước chạy băng băng. Hồ tắm ăn thông với con sông đào, bề ngang vừa đủ cho 4 thuyền máy ngược chiều tránh nhau. Thì ra lưu thông trên đảo gồm 2 phương tiện: xe hơi điện và thuyền máy. Có những khu chỉ có thể đi lại bằng xe hơi điện. Và có những khu hoàn toàn xê dịch bằng ca nô. Hai bờ sông đào được lót đá nhẵn bóng, nổi vân nhiều màu, trông như cẩm thạch Ý Đại Lợi. Cách quãng lại có ghế xích đu sơn màu sặc sỡ kê dưới cái lọng lớn, cạnh những cây kè lùn, lá rộng xanh mướt. Con sông thẳng tắp, nước trong veo, ngồi trên thuyền có thể nhìn thấy những viên sỏi trắng tròn trịa dưới đáy. Ca nô chạy được nửa cây số thì giảm tốc độ. Trước mặt, một vườn cây leo xanh rì um tùm hiện ra. Đan Mạch là xứ lạnh mà Olsen trồng toàn thảo mộc nhiệt đới, chỉ riêng số tiền săn sóc vườn cây leo này cũng lớn hơn ngân sách quốc phòng nhiều nước Á Châu. Ca nô luồn dưới giàn cây leo đến một khu vườn hoa và giãy nhà nóc bằng một tầng, xây theo hình cánh cung đối diện hướng mặt trời mọc. Gã râu quặp nói:

- Vòng giẫy nhà này là đến biệt thự của cô Riga.

Văn Bình hỏi:

- Giẫy nhà này ai ở?

- Ông chủ Olsen.

- Nơi ông chủ ở tại sao lại không thấy người gác?

- Ông đừng thấy quang cảnh vắng vẻ mà tưởng bở. Ông chủ Olsen vốn ưa tĩnh mịch, ghét đông đúc nên hệ thống phòng vệ ở đây rất kín đáo. Hầu hết đều do máy an bài điện tử đảm nhiệm. Gia nhân không được phép đột nhập. Trừ phi ông chủ kêu. Ai tò mò đến gần sẽ bị bọn chim báo cáo liền với máy computer. Khi ấy, ban an ninh mới xuất hiện, và a lê hấp, tống khỏi đảo.

- Anh nói sao? Ông Olsen dùng chim để canh gác?

- Vâng, thể thức canh gác bằng chim rất đắc lực. Tuy nhiên, tôi mới nghe nói chứ chưa biết bọn chim canh gác ra sao. Trên đảo có chừng 500 con chim. Dường như ông chủ còn nuôi cá để canh gác dọc bức tường quanh đảo nữa. Kia kìa, có lẽ mấy con chim mỏ đỏ vắt vẻo trên giàn cây leo đã nhìn thấy ông và tôi.

Trời không nóng mà Văn Bình chảy đầy bồ hôi. Nếu hệ thống phòng thủ được giao cho chim và cá thì chắc chắn sự hiện diện của chàng đã bị bại lộ. Và chàng sắp bị sa bẫy không chừng. Dùng loài vật canh gác thay người là khám phá mới mẻ của những năm cuối thập niên 60. Năm 1954 (1), người ta nẩy ra ý kiến đeo gắn dụng cụ điện tử trên mình loài vật để nghiên cứu, quan sát nếp sống của chúng.

Dần dà, kỹ thuật điện tử được cải tiến vượt bậc. Những cái máy cồng kềnh nặng 200 gờram, tầm hoạt động 25 mét được thu nhỏ bằng đầu que diêm, tầm hoạt động lại gia tăng theo tỉ lệ nghịch. Những cái máy nhậy cảm này được gắn trên mình thú dữ trong rừng sâu, chim muông bay trên trời cao, tôm cá bơi lượn ngoài khơi bao la để đo nhiệt lượng thân thể, áp huyết, nhịp thở của chúng. Thậm chí còn theo dõi sự làm tình, sự sinh đẻ, và các loại bệnh tật của chúng nữa. Phép đo này mang tên là sinh trắc viễn. Cuối thập niên 60, khoảng 200 trung tâm sinh trắc viễn được thiết lập trên khắp thế giới, giúp ích rất nhiều cho công cuộc tìm hiểu loài vật. Những ký hiệu do máy điện tử đeo gắn trên mình loại vật được phát ra và vệ tinh bay quanh địa cầu ghi lại, chuyển về trung tâm nghiên cứu trung ương đã cho phép các khoa học gia ngồi nhà mà vẫn theo dõi được từng giây, từng phút mọi biến chuyển xảy ra cách hàng trăm, có khi hàng ngàn, hàng vạn cây số (2). Những khám phá này được các khoa học gia của Quốc An Xã Hoa Kỳ (3) du nhập vào địa hạt điệp báo và quốc phòng.

Họ nhận thấy loài chim và nhiều loài thú khác, nhất là muông cầm sống xa loài người, thường có nhịp tim đập, nhiệt lượng và phản xạ đặc biệt khi chúng gặp loài người. Muông cầm bị thợ săn giết hụt một lần lại nhậy cảm khác thường. Dựa trên sự nhạy cảm ấy, các chuyên viên Quốc An Xã chế tạo một số dụng cụ điện tử sinh trắc viễn đeo gắn cho chim, cá được nuôi theo thể thức riêng. Hễ thấy người lạ, chúng gián tiếp trình báo bằng ký hiệu về máy computer trung ương, và sự hiện diện của người lạ được phát giác ngay lập tức, dầu còn ở xa, hoặc được ngụy trang vô cùng hữu hiệu. Văn Bình thấy mấy con chim mỏ đỏ đang chuyền nhảy trên giàn giây leo. Chúng vẫn bình thản, hồn nhiên như mọi giống vẫy vùng thảnh thơi giữa cảnh trời cao biển rộng.

Gã đàn ông sợ vợ ngó chàng bằng cặp mắt sợ hãi. Hắn đang nắm tay chàng bỗng giật ra rồi vùng chạy. Tuy có thời giờ ngáng chân hắn ngã nhào, nhưng chàng vẫn mặc cho hắn chạy. Hắn chạy về phía sông đào, nơi đậu thuyền máy. Chàng thì chạy về phía giãy nhà trệt nóc bằng. Trên giàn cây leo xanh ngắt, mấy con chim đỏ mỏ rủ nhau kêu chin chít. Tiếng chin chít như tiếng kêu của chuột. Giữa buổi sáng rực nắng, khí hậu hiền hòa mà tiếng chin chít lại làm dựng tóc gáy.

Hai chân của Văn Bình phóng nhanh như đầu xe hỏa đổ giốc.

Chin chít… chin chít…

Chú thích:

(1) Dụng cụ sinh trắc viễn đầu tiên này do Cobert D. Le Munyan phát minh năm 1954 ở Hoa kỳ.

(2) Sinh trắc viễn là Biotelemetry, Biotélémétrie. Danh từ gốc gác Hy lạp: bio nghĩa là đời sống sinh vật, tele là xa, viễn, metry là đo đạc (trắc). Trung tâm sinh trắc viễn lớn nhất thế giới tọa lạc tại Mỹ, thuộc quyền sở hữu của trường đại học Minnesota, gọi là Trung tâm Cedar Creek Tracking System.

(3) National Security Agency. Muốn hiểu rõ Quốc An Xã xin đọc “Gián điệp quốc tế” và “Bạn muốn làm gián điệp” đã xuất bản.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx