sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Z.28 Bóng Tối Đồng Pha Lan - Chương 2: Sứ Mạng Của Z. 28

Phạm Nghị bật thêm ngọn đèn trên bàn giấy cho sáng. Tiện tay, hắn bưng ly cà phê đen lên miệng.

Từ tối đến giờ, hắn uống không biết là ly cà phê thứ mấy rồi. Có lẽ là ly thứ sáu. Y uống cà phê chát, không pha đường. Uống bao nhiêu cũng chưa hết mỏi mệt.

Lưỡi hắn đã rát bỏng vì khói thuốc lá. Hắn phải vận dụng cà phê và thuốc lá để kích thích thần kinh. Vì công việc hắn đang làm rất quan trọng, khả dĩ định đoạt cho tương lai hắn, và tương lai của nền điệp báo Bắc Việt mà hắn là thành phần trung kiên, đầy triển vọng.

Bản phúc trình đã được đánh máy xong xuôi.

Nửa giờ nữa, phi cơ mới cất cánh đi Khang Khay trên đường về Hà Nội. Một nhân viên giao liên tin cậy sẽ mang tờ báo cáo về Hà Nội. Tờ báo cáo được cuộn tròn, đút vào ống nhom, đầu gắn xi, đề phòng bị cháy hoặc rớt xuống nước. Vả lại, người lạ sẽ chẳng hiểu ất giáp gì nếu vạn nhất tờ báo cáo lọt vào tay.

Vì nó được viết bằng mật mã đặc biệt.

Phạm Nghị xoa tay, dáng điệu hỉ hả.

Tình hình xảy ra đúng theo sự tính toán của hắn. Trừ phi gặp rủi ro giờ chót, rủi ro bất khả kháng, hắn phải thành công rực rỡ. Hắn đã bố trí chu đáo. Trời cố tình hại hắn thì rủi ro mới có thể xảy ra…

Trung ương sẽ đánh điện ngợi khen. Nghĩ đến lúc nhận được công điện của Trung ương, Phạm Nghị cười híp hai mắt.

Hắn ngồi xuống ghế, duỗi tay chân cho đỡ mỏi gân cốt, rồi khoan thai đọc lại đoạn cuối của bản phúc trình, đoạn làm hắn thích thú nhất.

"…Hiện nay, tôi có thể báo cáo là phần đầu của kế hoạch Cửu Long đã hoàn tất.

"Tuân lệnh đại tá Trần Chương, tôi đã bố trí cho đệ nhị tham vụ Hoài Thanh sa vào vòng trụy lạc, và rốt cuộc hắn đã thâm lạm tiền quỹ của toà đại sứ.

"Từ ngày Hoài Thanh được thuyên chuyển sang Vạn Tượng đến nay, tôi đã thu xếp cho hắn có cơ hội đọc một số tài liệu mật. Dĩ nhiên, đó chỉ là tài liệu không quan trọng, hoặc tài liệu giả tạo.

"Nội ngày mai, Hoài Thanh sẽ đến sứ quán Mỹ. Tôi tin rằng bọn CIA sẽ rơi vào bẫy của chúng ta. Và một khi chúng mắc mưu, thì phe xã hội chủ nghĩa sẽ chiếm phần thắng chắc chắn trên khắp các chiến trường Đông Nam Á.

Trong mọi bản báo cáo, nhân viên đều phải mở đầu và kết luận bằng câu nói tin tưởng vào sự thành công của phe xã hội chủ nghĩa. Đại uý Phạm Nghị không thể thoát ra ngoài khuôn sáo cố hữu. Vả lại, hắn đã tin tưởng thực sự.

Lim dim mắt, Phạm Nghị tự thưởng cho mình một tẩu thuốc. Thuốc tẩu Dunhill do Anh quốc chế tạo được coi là đắt tiền nhất thế giới lại còn trộn thêm á phiện và một số kích thích tố khác nữa, nên phải là người có đủ điều kiện như Phạm Nghị mới mua nổi và tiêu thụ hàng ngày.

Cử chỉ trịnh trọng, hắn xoè cây diêm, đợi cháy đều mới lia vòng tròn trên miệng tẩu. Đốt lửa cũng là một nghệ thuật: nếu cối thuốc cháy không đều hoặc chưa cháy đã tắt, người hút sẽ mất thích thú.

Phạm Nghị ngửa cổ thở làn khói xanh lên trần nhà.

Một phút sau, hắn mở choàng mắt.

Tấm ảnh bán thân đặt ngay ngắn trên bàn nhìn thẳng vào mặt Phạm Nghị, hơi mỉm cười.

Đó là bức hình của vợ hắn. Phạm Nghị mới cưới vợ được 10 tháng. Tuy là sĩ quan điệp báo được tín nhiệm, hắn vẫn không được phép đưa gia đình sang Lào. Hắn không tỏ vẻ buồn tủi vì hầu hết nhân viên trong ngành ngoại giao đều ở trong hoàn cảnh Ngưu Lang, Chức Nữ như hắn.

Sở dĩ có sự hạn chế này là vì cấp trên sợ đàn bà nhẹ dạ dễ bị cám dỗ bởi cuộc sống sang trọng ở nước ngoài, do đó ảnh hưởng tới công việc của chồng. Mặt khác, là để ngăn chặn những âm mưu đào tẩu.

Song phần nào cũng vì thái độ ích kỷ của đại sứ Lê Văn Hiến và của Trần Cao Thanh, một nhân vật quan trọng trong sứ quán. Vợ Hiến. Lê Thị Xuyến, bị công tác phụ nữ giữ chân ở Hà Nội, ít khi xuất ngoại gặp chồng nên các nhân viên khác cũng phải bắt chước ông đại sứ, sống xa vợ con. (1)

Trước khi được bổ nhiệm vào ngành ngoại giao, Trần Cao Thanh đã có vợ. Thanh lên chiến khu, ở nhà vợ hắn lặng lẽ ôm cầm thuyền khác. Cặp vợ chồng mới này dắt díu nhau qua Lào, khi Thanh về Hà Nội, với ý định đánh ghen. Họ đinh ninh thoát khỏi nanh vuốt của anh chồng cũ mọc sừng, song định mạng trớ trêu lại khiến Thanh được đổi qua Vạn Tượng. Lần này, và cũng là lần chót, họ quyết bay bổng một mạch. Họ thu xếp khăn gói, vù thẳng xuống Sài Gòn. (2)

Liên tưởng tới vợ nằm một mình trong một thị trấn quạnh quẽ bên giòng sông Hồng, Phạm Nghị trút ra tiếng thở dài ai oán.

Nếu có điều kiện, hắn đã bỏ lại tất cả, trở về xum họp với gia đình. Song hắn không có quyền. Hắn phải tiếp tục sứ mạng tình báo đã được giao phó.

Và nhất là hoàn thành cho kỳ được kế hoạch Cửu Long.

Nếu không…

Phạm Nghị không dám nghĩ xa thêm nữa. Nhân viên trung cấp trong sứ quán sợ hắn như sợ cọp, tưởng hắn có quyền tiền trảm, hậu tấu. Nhưng sự thật không quá giản đơn như thế. Đành rằng hắn muốn bắt ai, đánh ai, giết ai cũng được, song về phần hắn, hắn cũng có thể bị bắt, bị đánh, bị giết bất cứ lúc nào.

Người có quyền ra lệnh ghê gớm này là đại tá Trần Chương.

Công việc bất thành, đại tá Trần Chương tất sẽ bài tội hắn. Trăm dâu đổ đầu tằm, hắn sẽ có thể bị lột lon đại uý, giáng xuống binh nhì, và đưa đi cải tạo lao động.

Hàng chục viên tình báo đã trải qua cực hình ấy, Phạm Nghị chẳng lạ gì nữa. May gặp hồng vận, và có lẽ cũng vì đầy đủ bản lãnh, hắn luôn luôn thành công. Chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi từ trung uý hắn nhảy phóc lên đại uý tình báo.

Phạm Nghị suýt soa nhè nhẹ.

Nếu kế hoạch Cửu Long được thuận buồm xuôi gió, trong ba tuần nữa, hắn sẽ được đại tá Trần Chương cho về Hà Nội nghỉ phép.

Hắn sẽ có dịp dúi vào tay vợ hắn những lọ nước hoa Pháp thượng hạng, ở Hà Nội đắt hơn vàng nhưng ở Vạn Tượng lại quá rẻ. Trong chuyến phi cơ sắp đi Khang Khay - Hà Nội, Phạm Nghị gửi thư cho vợ, báo tin hắn sắp về…

Bỗng Phạm Nghị cứng hẳn người.

Ngọn đèn hiệu trước mặt hắn vừa bật, tắt, hai lần. Đó là tín hiệu của máy vô tuyến do một nhân viên gọi về.

Phạm Nghị áp ống nghe vô tuyến vào tai. Bồ hôi hắn toát ra ướt đầm cổ áo.

Nghe xong, hắn hỏi gặng:

- Sao? Tai nạn à? Tai nạn như thế nào? Việc gì không?

Phạm Nghị quăng máy xuống, lầm bầm như người mất trí:

- Khổ quá.

Hắn chạy vội ra cửa, quên mang theo cái tẩu tri kỷ.

Hình ảnh cuộc đoàn viên sắp tới ở Hà Nội đã tắt ngấm trong đầu đại uý Phạm Nghị. Lệ thường, hắn vẫn huýt sáo bài Quốc tế ca quen thuộc.

Bây giờ, hắn không hát được nữa. Hắn nói lảm nhảm một mình:

- Trời ơi, vậy thì chết tôi rồi.

Trước đó, thần Chết đa đoan đã hạ lưỡi hái sáng quắc xuống gian phòng ái tình của nàng Boun ở góc đường Sam sen Thai.

Đôi mắt lim dim như suốt ngày buồn ngủ của đệ nhị tham vụ Hoài Thanh bỗng mở rộng và đỏ lòm như vấy máu sau làn kiếng cận thị. Cái mũi cà chua của hắn rung rung trên cặp môi dày cộm, bọc quanh cái miệng cá ngão đang nhe ra, phô bày hàm răng vàng ệch và khập khễnh.

Nằm trên giường, nàng Boun thản nhiên chờ Hoài Thanh ném bức tượng bằng đồng nặng nề vào người.

Sở dĩ nàng thản nhiên vì nàng biết trước Hoài Thanh sẽ phải mê mẩn khi tới gần tấm thân cân đối của nàng. Trong những ngày ái tình miễn cưỡng, Hoài Thanh thường ghen tuông bốc đồng, hời hợt, dữ dằn và xuẩn động như thế.

Theo nàng, đó là trạng thái tất nhiên của những gã đàn ông xấu xí và bất tài, đeo đẳng mặc cảm tự ti trong tình trường, và ngàn năm một thuở - như chuột sa chĩnh gạo - được thần may mắn đưa vào tay một phụ nữ duyên dáng.

Song nàng Boun đã lầm.

Dầu nàng biểu diễn nhan sắc trong những động tác quyến rũ hơn nữa, Hoài Thanh vẫn không mềm lòng.

Trong lòng hắn vừa nhú lên hình ảnh một người đàn bà khác, cao quý gấp trăm gấp ngàn lần.

Người đàn bà đó là Thiên Hồng.

Nàng Boun chỉ là gái điếm thượng lưu. Hắn đã hy sinh vì nàng quá nhiều, hắn không thể tiếp tục hy sinh sự nghiệp và đời sống để nàng tiếp tục lang chạ mỗi đêm với những người đàn ông nhơ nhuốc khác.

Giơ bức tượng đồng lên khỏi đầu, Hoài Thanh rít lên:

- Đồ ngoại tình, Boun, đồ ngoại tình.

Nàng Boun vẫn tươi cười:

- Ồ, anh của em lại ghen rồi. Chóng ngoan, anh ngồi xuống đây với em. Em có dám ngoại tình với ai đâu.

Tài đóng kịch tuyệt diệu của nàng Boun chỉ gây ra tác dụng ngược lại, như đổ thêm dầu vào lửa. Giọng Hoài Thanh soắn tròn, nghe rởn gáy:

- Boun, mày phải chết. Tao sẽ giết mày…

Nàng Boun bắt đầu đọc thấy ý tưởng sát nhân ngùn ngụt trong mắt Hoài Thanh.

Nàng hốt hoảng vùng dậy. Hoài Thanh bặm môi, giáng bức tượng đồng xuống.

Nhanh như cắt, nàng Boun nhảy xổ xuống sàn nhà. Đánh hụt, Hoài Thanh mất trớn, suýt ngã chúi vào nệm giường.

Nhưng chỉ một giây đồng hồ sau, hắn đã quay lại. Nàng Boun lồm cồm bò dậy.

Nhanh trí, nàng thét to:

- Hoài Thanh, anh là đồ hèn. Chỉ có đồ hèn mới dùng bức tượng nặng 5 kilô để giết một người đàn bà yếu ớt, cô đơn, không có tấc sắt trong tay.

Hoài Thanh chùn tay lại trong một phản ứng tự nhiên của người đàn ông bị chạm tự ái.

Nàng Boun đã nói đúng. Đàn ông phương Tây đối xử với phụ nữ rất nhã nhặn. Nếu cần nặng tay với đàn bà, họ thường dùng cành hoa làm roi.

Hoài Thanh được hấp thụ văn hoá Tây phương nên đã hiểu lịch sự tối thiểu đối với phái yếu. Vì vậy, hắn thoáng nảy ra ý định tha cho nàng Boun.

Hắn buông tay cầm tượng đồng xuống. Nhưng cùng khi ấy, hắn nghĩ tới bàn tay thô bạo của đại tá Trần Chương mơn trớn làn da man mát và những đường cong chắc nịch. Và không riêng gì Trần Chương mà là hàng trăm, hàng ngàn gã con trai đầy kinh nghiệm khác.

Hắn bèn gằn giọng:

- Boun! Tao ghê tởm mày lắm rồi. Mày đừng giở trò ma mãnh với tao nữa. Tao nhất định không tha cho mày đâu.

Nàng Boun van lơn:

- Lạy anh, anh tha cho em. Em làm gì nên tội mà anh nỡ giết. Dầu sao…

- Hừ, làm gì nên tội… Mày nói ngọt như đường… Mày quên rằng vì mày mà tao mê say xóm Đồng Pha Lan, quên lãng nhiệm vụ. Vì mày mà tao mất chức. Vì mày mà tao bị ra toà, lãnh án… Bây giờ mày lại rủ rê tao bán linh hồn và thể xác cho quỷ sứ… Boun, trời gần sáng rồi, tao không thích rềnh rang thêm nữa…

Tao sẽ giết mày… Giết mày xong, tao sẽ đi thẳng tới Công an nhận tội.

- Xin anh thư thả cho em được bào chữa. Anh ơi, lòng em không phải là cuốn sách để em có thể mở từng trang cho anh đọc… Anh ơi, em luôn luôn yêu anh, suốt đời yêu anh… khi nào cũng chung thuỷ với anh… Em biết anh đang giận dữ cực độ. Kể ra, anh giận dữ rất đúng. Thái độ của anh chứng tỏ rằng anh yêu em vô cùng. Nhưng dầu sao anh cũng nên bình tâm xét lại… Nếu anh biết được.

Nàng Boun định nói rõ nguyên nhân thầm kín đã khiến đại tá Trần Chương có mặt trong phòng nàng. Nhưng nàng vội ngậm miệng. Nàng cảm thấy nói ra vô ích. Hoài Thanh càng giận dữ thêm lên.

Vả lại, đang còn Xiêng May…

Xiêng May, em ruột nàng, đang ở trong vòng lao lý. Xiêng May là tất cả của đời nàng. Nàng sẵn sàng hy sinh cho nó sống.

Nàng bỗng thèm sống thiết tha hơn bao giờ hết. Nếu muốn sống, nàng không còn cách nào khác, ngoài cách kháng cự.

Cũng như một số thiếu phụ khác của xã hội đèn màu, nàng Boun đã học nhu đạo. Nàng được huấn luyện thành thục về những môn võ có thể quật ngã đối phương trong chớp mắt. Nhiếu đêm lang thang một mình trên đường vắng, nàng đã có dịp thực hành bài học tự vệ, bẻ gãy xương tay của bọn xảm lồ làm nghề ăn sương.

Nàng Boun trở nên can đảm khác thường khi thấy Hoài Thanh quyết tâm hạ bức tượng khá nặng vào đầu nàng. Nàng đảo người sang bên để tránh, rồi ôm chầm áo sơ mi của Hoài Thanh.

Đánh sát lá cà, nàng Boun được lợi vì trên người nàng không có mảnh vải nào để Hoài Thanh có thể nắm được. Nàng Boun nhanh nhẹn quay lưng lại, định xốc Hoài Thanh lên vai và tung hắn xuống đất.

Nếu nàng khéo tay hơn nữa, Hoài Thanh đã bị chế ngự. Một phần mười phút đồng hồ luống cuống của nàng đã giúp Hoài Thanh gỡ được bàn tay nắm áo sơ mi.

Bức tượng đồng rơi vào vai nàng.

Nàng rú lên một tiếng vô cùng đau đớn.

Có lẽ xương quai xanh của nàng đã bị gãy. Song nàng vẫn không chịu nhả gã đàn ông. Nàng nghiến răng chịu đau, để lấy sức phóng mười đầu ngón tay nhọn hoắt vào giữa mặt hắn.

Đến lượt Hoài Thanh rú lên.

Máu trong mắt hắn tuôn ra xối xả. Mùi máu làm hai người hăng lên.

Nàng Boun cấu xé loạn xạ. Còn Hoài Thanh cứ đánh bức tượng đồng loạn xạ vào người nàng.

Nàng Boun loạng choạng ngã xuống.

Biết nàng chẳng còn hy vọng sống thêm bao lâu nữa nên Hoài Thanh ngừng tay, ngồi phịch xuống ghế, và thở dốc ra.

Toàn thân nàng Boun bị lấm máu be bết. Ngực nàng chỉ còn lại những núm thịt tơi tả và đầy máu. Một miếng đòn hiểm nghèo của gã đàn ông dã man làm khối óc nàng rung chuyển dữ dội.

Nàng có cảm giác là xương sọ nàng bị đánh vỡ. Máu ở tim bị nghẽn lại ở cổ, không chạy lên đầu nữa. Ở trong tình trạng này, nàng tự biết chỉ sống được vài ba phút nữa là cùng.

Song vài phút lúc này lại kéo dài vô tận.

Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, nàng Boun hồi tưởng lại những phút buồn vui trong cuộc đời sóng gió bập bềnh của nàng. Nàng đã kề vai sát cánh hàng trăm người đàn ông, và nếu hàng trăm lần bọn đàn ông trốn vợ đi chơi tỉ tê bịa đặt với nàng thì hàng trăm lần khác nàng cũng bịa đặt tiểu sử của nàng để tâm sự với khách.

Đời nàng là một chuỗi dài giả dối. Nàng thích sự giả dối ấy. Nàng thích lấy đêm làm ngày, thích sống trong tiếng đàn, dưới ánh đèn màu, bên sự trác táng thượng lưu.

Chết đi, nàng sẽ không mảy may hối hận. Nàng không hối hận đã làm nghề buôn hương, bán phấn. Nếu có, nàng chỉ hối hận một điều: ấy là chưa cứu được Xiêng May ra khỏi cảnh ngục tù.

Nhịn đau, nàng Boun lâm râm cầu kinh. Những đêm trăng tròn, nàng thường vào chùa Phone Sai cầu kinh. Nàng quên những vết thương chí mạng vì nàng vừa thấy bóng dáng hiền hoà của đức Phật từ bi đến bên nàng.

Nàng lại thấy cả bóng dáng nhí nhảnh quen thuộc của Xiêng May. Toàn thân em nàng cũng bị dính máu như nàng. Xiêng May nhìn chị bằng cặp mắt tràn đầy thương sót.

Nàng la to:

- Xiêng May em bị thương ư?

Xiêng May không trả lời. Người thanh niên có cặp mắt to và đen bỗng tan ra thành khói trước khi biến vào không khí đùng đục như sữa loãng buổi rạng đông thanh tịnh.

Nàng Boun vừa gặp lại em trong mộng. Xiêng May còn sống hay chết, nàng không thể biết.

Dầu nàng biết, cũng đã muộn rồi. Tội nghiệp cho những thiếu phụ dại dột như nàng Boun! Nhận lời Trần Chương, nàng Boun quên mất hắn là đại tá của quân đội Bắc Việt, và cũng là tay tố gián điệp cộng sản ở Lào quốc. Nếu nàng thành công, không những nàng không hy vọng tái ngộ với Xiêng May mà còn bị Trần Chương thủ tiêu là khác nữa.

Môi nàng Boun mấp máy. Lời nói cuối cùng của nàng bị đàm chặn nghẹt trong cuống họng.

Nàng Boun từ từ bước sang thế giới bên kia.

Hoài Thanh thản nhiên nhìn nàng Boun thoát hồn. Miệng hắn hơi nhếch lên, tưởng như cười nhạt. Thật ra hắn không vui, cũng không buồn. Tâm thần hắn thanh thản và êm ả hơn bao giờ hết. Vì hắn đã tiến tới một quyết định dứt khoát.

Dáng điệu khoan thai, hắn ngồi xuống bàn, uống một hơi ba ly huýt-ky đầy ắp không pha nước. Đoạn hắn lấy bút giấy nắn nót viết thư, thận trọng và trang nghiêm như cậu học trò làm bài luận văn trong đời đèn sách.

Hắn chỉ viết một bức thư duy nhất.

"Thiên Hồng em ơi,

"Lúc thư này đến tay em thì anh đã thành người thiên cổ. Thật vậy, anh sẽ không còn ở trên cõi đất này nữa sau khi ký vào bên dưới lá thư vĩnh biệt.

"Anh bị thượng cấp nghi ngờ là cộng tác với tay sai của địch. Trước khi ra đi mãi mãi, anh xin thề trên đầu hương hồn cha mẹ, thề trên mối tình giữa đôi ta rằng anh chưa bao giờ nghĩ đến phản bội, chứ đừng nói là bán tài liệu cho gián điệp Tây phương nữa.

"Nơi anh viết thư từ giã em là một căn phòng vắng vẻ ở trung tâm thủ đô Vạn Tượng. Mỗi tuần viết thư về, anh thường ca ngợi vẻ đẹp của Vạn Tượng. Người ta nói Vạn Tượng là một thành phố nhỏ xíu, đường sá lầy lội, nhà cửa xấu xí, đầy bụi và bùn đỏ song anh lại thấy Vạn Tượng nên thơ.

"Có lẽ vì Vạn Tượng nhắc anh nhớ lại Phủ Lý, nơi chúng mình gặp nhau lần đầu.

"Ngoài kia, sông Cửu Long đang dâng cao vì đang mùa mưa. Sông Cửu Long đang dâng cao cũng như niềm tủi nhục và thương nhớ trong lòng anh. Thiên Hồng ơi, anh yêu em. Anh yêu em từ bao năm nay. Dường như em chưa hề yêu anh thật sự, nhưng dầu em hất hủi anh thế nào đi nữa, anh cũng vẫn yêu em, và yêu em gấp trăm, gấp ngàn lần khi trước.

"Anh yêu em vì em có những đức tính mà anh không tài nào tìm thấy ở người đàn bà nào khác. Ngày anh lên phi cơ ở Gia Lâm, em cáo bận không ra sân bay. Anh hơi thoáng ghen khi nghĩ tới những người đàn ông có diễm phúc được em ban cho một sự vuốt ve da thịt.

"Còn anh, anh không dám ước mong gì khác, ngoài cái nhìn âu yếm, ngoài câu nói thiết tha, ngoài ý nghĩ chân thành tới kẻ chỉ biết yêu trọn vẹn, biết đau khổ một mình nơi đất khách, quê người.

Thiên Hồng em ơi!

"Anh đang bị dồn vào ngõ bít. Thượng cấp nghi ngờ, anh sẽ phải ra toà, và chắc chắn bị kết án tù. Nếu anh làm nên tội, anh phải gánh chịu, nhưng em ơi, anh hoàn toàn vô tội. Anh hết lời thuyết phục, van xin mà thượng cấp không tin.

"Vì vậy, anh đành phải chết. Chết để minh oan. Chết để chứng tỏ xứng đáng với tình yêu của em.

"Anh tự xử như thế này chắc hẳn Đảng và Chính phủ sẽ hiểu lòng anh và tha thứ cho anh. Xuống dưới suối vàng, anh sẽ mang theo hình bóng yêu kiều của em, và nếu kiếp sau được trở lại làm người, thì nguyện vọng của anh là được sống gần em và được hưởng sự trìu mến của em.

"Chảo em lần cuối.

Một giọt nước mắt nóng hổi rớt xuống tờ giấy làm nhoè chữ ký ngòng ngoèo của Hoài Thanh.

Là đệ nhị tham vụ, hắn thường được thư ký chực sẵn bên bàn giấy, đợi hắn hạ bút ký vào công văn rồi khúm núm thấm cho khô. Đây là lần thứ nhất và cũng là lần chót trong đời mà chữ ký của hắn bị nhoè.

Hồi ở trường ra, hắn được chúng bạn rủ vào nhà một ông thầy tướng, chuyên coi chữ ký. Lão thầy tướng lẩm cẩm bảo hắn nên thận trọng, sợ bất đắc kỳ tử. Hắn bĩu môi, xô ghế ngã lỏng chỏng rồi bước ra ngoài, quên cả trả tiền quẻ.

Giờ đây, hắn mới thấy đúng. Hắn thở dài, gấp bức thư làm ba, bỏ vào phong bì ngay ngắn, đoạn cất vào túi áo. Trong chai còn rượu, hắn uống tới khi hết nhẵn mới quăng cái ly pha lê vào góc nhà vỡ nát.

Trên nền gác, nàng Boun nằm sóng sượt.

Mắt nàng mở ra trừng trừng, như muốn thu hết vào nhỡn tuyến hình ảnh cuối cùng của cuộc sống trà đình, tửu điếm mà nàng mê đắm.

Hắn cảm thấy khinh bỉ nàng Boun một cách lạ lùng. Hắn nhổ bẹt bãi nước bọt vào ngực nàng để tỏ sự ghê tởm rồi bước ra cửa.

Lúc ấy, Hoài Thanh mới sực nhớ là chưa định sẽ quyên sinh bằng cách nào. Nếu có khẩu súng trong tay, công việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Ham đọc truyện trinh thám, hắn được biết một viên đạn 9 ly bắn xuyên qua màng tang, nhắm thật chính xác, sẽ làm hắn chết tức khắc, chết không kịp hiểu vì sao mà chết nữa.

Nhưng đáng tiếc là hắn không có súng.

Phạm Nghị có một tủ súng, song không phát cho hắn khẩu nào. Trong ô kéo của văn phòng lúc nào cũng sẵn một hộp vuông đựng những viên thuốc dẹt, đủ màu, hao hao như viên thuốc giải cảm Optalidon. Đó là độc dược khả dĩ giết một mạng người trong vòng từ vài ba giây đến vài ba phút đồng hồ.

Giá Hoài Thanh được một viên độc dược thì sung sướng biết bao!

Vô tình, hắn cho tay vào túi, chạm phải một vật cứng nhỏ xíu. Hắn à lên một tiếng: đó là cái nhẫn hạt soàn giả của một vũ nữ xinh như mộng của xã hội dạ lạc Đồng Pha Lan.

Nàng tặng hắn để làm kỷ niệm. Và hắn cũng hứa tặng lại nàng một vật đáng giá.

Cái nhẫn vô tri giác làm tư tưởng tự vẫn trong đầu Hoài Thanh nhạt dần. Hắn bỗng yêu đời tha thiết. Hắn thèm sống hơn bao giờ hết. Những người đàn bà có thân hình căng cứng mà hắn gặp ban đêm ở khu son phấn Đồng Pha Lan như đang nhủ thầm vào tai hắn rằng quyên sinh giữa tuổi ba mươi là dại.

Một giọt nước mắt khác lại lăn trên gò má…

Dầu sao thì thư vĩnh biệt cũng đã viết rồi, và đại sứ Lê Văn Hiến cũng sẽ không tha nếu hắn còn sống.

Thôi thì liều vậy.

Hoài Thanh nhìn qua cửa sổ xuống đường.

Trời tờ mờ sáng.

Một chiếc quân xa đồ sộ chạy qua. Ngồi ở băng trước cạnh tài xế thấp thoáng một người đàn bà mặc áo sặc sỡ đang bá cổ một quân nhân Pathét Lào. Từ căn gác đối diện vọng lại tiếng cười đú đởn của một cặp trai gái tình tự thâu đêm.

Ai Lao là thiên đường của ái tình. Hoài Thanh đang từ bỏ thiên đường để lao đầu xuống địa ngục.

Hắn hít dưỡng khí ban mai vào đầy hai buồng phổi lép kẹp để lấy thêm can đảm.

Gió mát từ dưới đường thổi lên. Hoài Thanh nhắm mắt lại rồi trèo qua cửa sổ, nhảy xuống.

Một phút sau, phía dưới có tiếng ồn ào. Tiếng người kêu thét inh ỏi.

Và tiếng xe hơi thắng gấp nghe ken két.

Giờ ấy, văn phòng bí mật của ông Hoàng, tổng giám đốc mật vụ còn sáng rực ánh đèn ở Sài Gòn.

Như thường lệ, ông Hoàng lại thức suốt đêm với ly cà phê luôn luôn được rót đầy và đĩa đựng tàn đầy ắp mẩu xì gà Ha-van đặc biệt. Thân hình gầy guộc cố hữu của ông trở nên gầy guộc thêm trong bộ com-lê cũ kĩ chật chội và xấu xí.

Châm điếu Ha-van mới - có lẽ là điếu thứ 30 trong ngày - ông Hoàng bấm chuông gọi Nguyên Hương, cô thư ký không-bao-giờ-già của Sở.

Không ngẩng đầu lên khỏi đống hồ sơ cao ngất, ông Hoàng hỏi:

- Bức điện từ Vạn Tượng đánh về đã dịch xong chưa?

Nguyên Hương đáp:

- Thưa rồi.

Ông tổng giám đốc ra hiệu cho Nguyên Hương đọc. Tiếng nàng vang lên đều đều trong căn phòng im lặng:

"Mật điện số 22, nhận được hồi 3g30 sáng, giờ Saigon.

"Z.413.

"Kính gửi HH.

"Bổ túc cho bức điện gửi về cách đây hai hôm, xin trân trọng báo cáo tiếp.

"Thời cơ đã thuận tiện cho chúng ta tổ chức tại Sầm Nứa, và trong vùng do đối phương kiểm soát. Xin cho nhân viên lên ngay.

"Tôi đã có thể mua chuộc được Nam Tha qua trung gian của Mường Xinh. Để đài thọ phí tổn, xin chuyển ngân nội ngày mai cho tôi ba ngàn đô la.

"Z.413.

Thấy ông tổng giám đốc lặng lẽ rít xì gà, Nguyên Hương sửng sốt:

- Thưa, ông định thả nhân viên xuống căn cứ Sầm Nứa của Pathét Lào?

Ông Hoàng phì cười:

- Thả anh em xuống Sầm Nứa làm gì? Dưới đấy chỉ có mấy trại binh lèo tèo mà tôi đã biết rõ quân số. Vì điều kiện an ninh, tôi phải dùng mật ngữ trong mật mã. Sầm Nứa trong bức điện của Z.413 có nghĩa là toà đại sứ Bắc Việt tại Vạn Tượng.

Tôi có một kế hoạch gài người vào trong sứ quán Bắc Việt. "Tổ chức tại Sầm Nứa" nghĩa là kế hoạch thâm nhập này có thể được thi hành.

- Thưa, còn Nam Tha và Mường Xinh.

- Cô không hiểu nghĩa thật của hai chữ Nam Tha và Mường Xinh vì cũng là mật ngữ. Đó là tên hai người, một đàn ông, và một đàn bà. Họ sẽ giúp ta đạt được mục đích.

Bỗng ông Hoàng nheo mắt:

- Văn Bình hiện ở đâu?

Nghe ông tổng giám đốc nhắc đến tên Văn Bình - Z.28, Nguyên Hương luống cuống suýt rơi cây bút chì.

- Thưa, Z.28 đang ở Vọng Các.

- Khách sạn nào?

- Thưa, Thai Hotel.

Ông Hoàng hơi cau mặt:

- Hừ, tôi dặn lấy phòng ở Erawan kia mà?

Nguyên Hương không giấu được giọt nước mắt long lanh.

- Thưa, Z.28 viện cớ Erawan ở trung tâm thành phố, quá ồn ào, không thích hợp với người nghỉ mát, vả lại, ở xa phi trường và toà đại sứ Việt Nam.

Ông Hoàng ngẩng nhìn cô thư ký:

- Cô tin như vậy không?

Nàng thở dài nhè nhẹ:

- Thưa không.

Ông Hoàng lẩm bẩm:

- Lạ thật chứng nào vẫn tật ấy. Đi đâu cũng nghĩ đến du hí, sớm muộn rồi chết vì nữ sắc mất thôi.

Rồi đổi giọng nghiêm nghị:

- Cô đánh điện ngay cho đệ nhị tham vụ của sứ quán ta tại Vọng Các. Ra lệnh cho Lê Thái tới gặp Văn Bình và đưa Văn Bình lên chuyến máy bay sớm nhất đi Vạn Tượng.

Nguyên Hương đã lấy lại phong độ tháo vát và trịnh trọng của người bí thư quen việc:

- Thưa, còn chi tiết công tác?

- Văn Bình sẽ nhận được sau khi tới trường bay Vạt Chai.

Nguyên Hương rón rén ra phòng ngoài.

Nàng bước thật nhẹ, dường như sợ tiếng động mạnh sẽ phá rối sự suy nghĩ của ông tổng giám đốc.

Ngồi một mình trong văn phòng rộng, ông Hoàng lúi húi rút ra tập hồ sơ bìa vàng, ngoài đề hai chữ Sầm Nứa bằng chữ gô-tích mực đỏ tươi. Ông Hoàng nhẩm lại bản báo cáo:

1. - Nam Tha: Nam Tha là mật hiệu đặt cho Hoài Thanh, đệ nhị tham vụ của sứ quán "Việt Nam dân chủ cộng hoà" tại Vạn Tượng. Y là nhân viên ngoại giao chuyên nghiệp, học rộng, từng phục vụ tại nước ngoài nhiều năm.

Tuy chưa được hoàn toàn tin cậy, Hoài Thanh cũng nắm trong tay nhiều giấy tờ quan trọng. Trong tuần qua, được biết chắc một bản danh sách bí mật loại A1 được gửi từ Hà Nội tới, và chuyển qua tay Hoài Thanh để nghiên cứu.

Y còn trẻ, ham chơi và rất cần tiền. Tố chức y không khó lắm, miễn hồ kín đáo.

2. - Mường Xinh: Mường Xinh là mật hiệu đặt cho một thiếu phụ tên là nàng Boun, người Lào.

Nàng Boun trạc ba mươi, rất quen tên trong xã hội ăn chơi Vạn Tượng. Tính tình độc lập, không sống chung với người đàn ông nào được lâu, cũng như không chịu làm cho ngoại quốc. Chức thư ký tại hãng hàng không quốc gia Lào đối với nàng chỉ là việc giết thời giờ hơn là mưu sinh, vì lẽ nàng tiêu tiền nhiều hơn kiếm được, và các bạn trai thượng lưu luôn luôn cung cấp đầy đủ cho nàng.

Nhược điểm quan trọng: nàng Boun rất thương em trai tên là Xiêng May, trung sĩ trong quân đội hoàng gia. Xiêng May bị Pathét Lào bắt và có lẽ đã chết. Tuy vậy nàng Boun vẫn tin em nàng còn sống. Một số người đã lợi dụng tình trạng này để làm tiền nàng. Nếu đánh lừa được nàng Boun là Xiêng May được yên ổn và sẽ được phóng thích, thì bảo gì nàng cũng sẵn sàng nghe theo.

Ông Hoàng đóng hồ sơ lại.

Điếu xì gà trên môi ông đã cháy một phần ba, mùi thơm thoang thoảng. Trong cuộc đời ngắn ngủi còn lại ông không còn thú vui nào nữa, ngoại trừ thú vui bè bạn với xì gà Ha-van.

Dáng điệu chậm chạp, ông tổng giám đốc tiến lại tủ sắt đồ sộ gắn vào tường bê tông. Ông lấy ra một cuốn sổ tay bìa đỏ, bên trong chữ viết li ti.

Trên đầu một trang, có hàng chữ như sau bằng mực đỏ:

Bên dưới là nhiều tấm ảnh căn cước. Tấm thứ nhất chụp một thanh niên trạc tứ tuần, nét mặt gân guốc, cặp mắt sáng như điện. Trong bức thứ hai có một người đàn ông trên ba mươi, cặp kính mát to tướng thỗn thện trên mắt, và cái tẩu thuốc lá ngật ngưỡng ở miệng.

Ông Hoàng không lạ gì hai người này. Họ là đại tá Trần Chương và đại uý Phạm Nghị, đầu não của bộ máy do thám vô cùng nguy hiểm của Bắc Việt tại Vạn Tượng.

Trầm ngâm một lát, ông tổng giám đốc nhấc điện thoại và quay số.

Chuông điện thoại reo vang trong phòng khách sạn của Văn Bình.

Thật ra, chuông điện thoại trong Thai Hotel reo rất êm, song Văn Bình vẫn có cảm giác là âm thanh chọc thủng màng tai. Ngoảnh sang bên thấy cô bạn người Thái nằm ngoan ngoãn, mí mắt nhắm lại một cách nũng nịu, chàng thở dài tiếc nuối hạnh phúc bị bỏ dở trước khi uể oải áp ống nghe vào tai.

Chàng giật mình vì kẻ đối thoại có giọng nói rất quen thuộc. Giọng nói khô khan của đệ nhị tham vụ toà đại sứ.

Văn Bình nghe rõ như ai thét bên mình:

- Mùa xuân đấy phải không? Mùa xuân đấy phải không?

Trời nóng chảy mỡ, người và vật biến thành than ở thủ đô Vọng Các mà thiên hạ lại nhắc nhở đến mùa xuân. Viên tham vụ nói tiếng Việt, Văn Bình đáp lại bằng Anh ngữ, vẻ cáu kỉnh cố hữu - cáu kỉnh mỗi khi bị phá đám - hiện rõ trên mặt và tràn ngập giọng nói cộc lốc:

- Ông lầm rồi.

Chàng ném điện thoại xuống bàn. Từ trong ống nói vẳng ra câu hỏi lạ lùng "mùa xuân đấy phải không?". Đợi điện đàm cắt hẳn, chàng mới nhấc máy lên.

Đến lượt chàng nghe giọng nói ngọt như trái cây mùa xuân của cô gái giữ điện thoại trong lữ quán:

- Thưa ông, có người vừa gọi cho ông.

Văn Bình nhăn mặt:

- Tôi đã dặn cô là trong khi tôi ngủ không ai được quấy rầy kia mà. Cả cô cũng muốn hại tôi nữa ư?

- Em thành thật xin lỗi ông. Xin lỗi ông ngàn lần. Em nhất định không cho số, nhưng bạn ông cứ nằng nặc nói là quan trọng lắm.

- Chuyện gì mà quan trọng?

- Em không biết. Ông ấy doạ là không thể chờ được, và nếu có việc gì trục trặc thì em phải chịu trách nhiệm. Em sợ quá, vả lại…

- Ồ, thằng cha láo lếu. Chẳng có gì quan trọng cả. Cô bị hắn lừa mà không biết. Hắn điện thoại cho tôi nhờ tôi mời cô đi chơi với hắn.

- Mời em đi chơi?

- Phải, đi chơi trên xa lộ. Rồi đi ăn, đi đâu nữa, cô thừa biết.

- Em không dám.

- Đúng, cô từ chối là phải. Hắn là kẻ không thành thật với đàn bà, nhất là đàn bà dễ yêu như cô.

- Em xấu lắm.

- Hừ, hàng triệu phụ nữ trên thế giới cầu trời, khấn Phật để xấu bằng phần mười cô mà không được.

- Cảm ơn ông.

- Cô khách sáo ghê. Bây giờ cô nghĩ thế nào?

- Thưa ông, theo nội quy của lữ quán, em không được phép đi chơi với khách.

- Ồ, cô quên mất rồi. Đêm trước cô vừa đi chơi với tôi.

- Ông là khác.

- Tôi cũng là khách của lữ quán.

- Nhưng em lại có cảm tình với ông. Vả lại… em định từ chối mà không được.

- Tôi có cưỡng bách cô đâu.

- Không. Đó là lòng em.

- A ha, cô làm tôi sung sướng như được lên thiên đường. Tối nay cô đi ăn với tôi nữa nhé?

- Em cảm ơn ông.

- Nghĩa là cô nhận lời?

- Thưa ông, không.

- Sao vậy? Cô lại giận tôi rồi ư?

- Em đâu dám.

- Hay là ông giám đốc cấm đoán?

- Cũng không phải. Em sẵn sàng thôi việc nếu ông giám đốc xía vào đời tư của em. Sở dĩ em thoái thác là vì ông. Vì em sợ cô bạn gái hiện ở trong phòng ông thù oán. Ông tệ thật. Ông là người đàn ông đáng yêu nhất và đáng ghét nhất trên đời.

Nói xong, nàng cắt điện đàm.

Có lẽ nàng đang lấy mù soa lau một giọt nước mắt. Văn Bình úi chao một tiếng rồi lặng người, nằm duỗi chân trên giường.

Đột nhiên, chàng mường tượng đến cái áo đầm có một không hai của cô gái phụ trách tổng đài điện thoại.

Cái áo may chật đến nỗi chỉ thở mạnh là có thể đứt phăng đường chỉ ni lông. Nếu nàng dự thi sắc đẹp, chắc hẳn ban giám khảo sẽ bắt nàng thay áo khác, vì người viễn thị nặng nhất thế giới khi được chiêm ngưỡng núi của quán quân mà nàng cố tình may áo thật chặt để triển lãm với đàn ông.

Tuần trước, Văn Bình gặp nàng ngoài hành lang.

Mải rửa cặp mắt, suýt nữa chàng húc phải anh bồi bưng khay thức ăn vào thang máy. Chàng xin lỗi:

- Cô đẹp quá làm tôi mờ cả mắt.

Chàng chỉ nói thế. Nhưng dáng dấp lịch sự Tây phương, cặp mắt tình tứ như thôi miên, đôi môi duyên dáng phi thường, và nhất là thân hình cân đối, cao lớn, chắc nịch của chàng đã tán tỉnh giùm chàng.

Hết giờ làm việc, chàng đợi nàng ngoài cửa phòng điện thoại, nhã nhặn mời nàng ra đường dạo mát. Không suy nghĩ, nàng nhận lời.

Đêm ấy nàng ngoan ngoãn theo chàng vào các hộp đêm tối om của thành phố Vọng Các. Mãi đến gần sáng, chàng mới dìu nàng ra ngoại ô, tới một khách sạn vắng vẻ trên xa lộ ra phi trường Đồn Mương.

Chàng đinh ninh nàng sẽ quên chàng như đã quên những người bạn một đêm khác. Nhưng nàng không quên. Nàng từ giã chàng, nước mắt rưng rưng như người bạn chung thuỷ tiễn đưa chồng ra biên ải. Mỗi lần biết chàng ở một mình trong phòng nàng lại gọi điện thoại nói chuyện.

Thế rồi…

Thế rồi nàng khám phá ra cô bạn gái của chàng.

Thiếu nữ nằm cạnh Văn Bình cựa mình.

Cô gái mở hé mắt rồi nhắm mắt lại như cũ. Chàng định ngủ lại song không tài nào ngủ được. Mặc dầu màn cửa được che kín, Văn Bình đã biết trời sáng rõ từ lâu. Giờ này, thiên hạ đã đi làm. Trừ những người vô công rồi nghề như chàng.

Chàng lẩm bẩm một mình:

- Mùa xuân đấy phải không?

Đó là mật ngữ mà ông Hoàng dặn chàng trước ngày chàng rời Saigon, qua Vọng Các du hí. Theo chỉ thị, người nói mật ngữ này là liên lạc viên của Sở có nhiệm vụ giao công tác mới cho chàng.

Nghĩa là thời gian xả hơi của chàng đã chấm dứt.

Hoạt động dưới quyền ông Hoàng đã lâu, Văn Bình đã dạn dĩ với thói quen lôi nhân viên dậy giữa đêm khuya, bắt đoạn tuyệt những mối tình nên thơ sắp thành tựu, rồi chỉ dành cho nửa giờ đồng hồ ngắn ngủi thu xếp hành trang trước khi sắp sửa nhảy lên phi cơ lạ, vèo tới một địa điểm vô định có Tử thần đợi sẵn với máu lửa, súng đạn và xác chết chồng chất.

Lần nào bị phá đám, chàng cũng bực mình. Lâu dần rồi quen đi, ông Hoàng vẫn tiếp tục sai người tới kéo chàng ra khỏi vòng tay của những người đàn bà quyến rũ và chàng vẫn tiếp tục trái lệnh trong chốc lát.

Nhưng chỉ mấy phút sau, lương tâm nghề nghiệp, và mối tình tri kỷ với ông Hoàng thức dậy trong lòng chàng.

Lặng lẽ, chàng bật đèn lên và ngồi nhỏm dậy. Cô gái hỏi chàng, giọng ngái ngủ:

- Anh đi đâu thế?

Văn Bình nhăn nhó:

- Xuống âm phủ.

Cô gái phá lên cười:

- Ồ, thế thì còn gì hay bằng. Anh xuống âm phủ làm gì?

- Để gặp con gái Diêm vương, mời nhảy một bài cha cha cha.

- Tuyệt. Em đang ngứa chân. Anh cho em đi theo để nhảy cho vui.

- Không được. Nàng ghen lắm.

- Em cũng ghen không kém. Coi chừng, ai léo hánh đến anh, em sẽ giết ngay. Dầu là ái nứ của vua âm phủ.

Vừa nói, cô gái vừa kéo cái mền mỏng che vai xuống, và cố tình nằm nghiêng sang bên, đối diện với ngọn đèn, cốt cho chàng ngắm làn da trơn bóng, cái bụng mỏng dính và những đường cong quyến rũ.

Văn Bình sửng sốt trong một giây đồng hồ. Chàng sực nhớ lại phút đầu tiên gặp nàng cách đây hai hôm trên sàn gỗ êm ái của một tiệm nhảy sang trọng gần khách sạn Erawan, khu thượng lưu của thủ đô Vọng Các.

Gặp Văn Bình, nàng có cảm tình ngay. Chàng không tìm hiểu nguyên nhân vì từ bao năm nay chàng vẫn nổi danh là hòn đá nam châm đối với phái yếu trên thế giới. Mặc cho nhiều người mời mọc mỏi miệng, nàng chỉ khiêu vũ với chàng.

Nàng gục đầu vào vai chàng trong khi ánh sáng tắt phụt, chỉ chừa cái bục hình tròn kê giữa khiêu vũ trường, nằm gọn giữa hai lùm đèn pha phô bày trước hàng trăm cặp mắt thèm thuồng những nét hấp dẫn của một thiếu nữ trẻ măng, run rẩy thoát y vũ theo điệu đàn.

Rồi nàng theo chàng về Thai Hotel.

Mỗi đêm, nàng ở lại với chàng. Tuy là người Thái trăm phần trăm, nàng lại có cái tên rất Tây, Simon.

Simon nắm tay chàng, thỏ thẻ:

- Anh sắp bỏ em phải không?

Văn Bình đáp:

- Không.

- Vậy anh sửa soạn đi đâu?

- Có lẽ anh phải rời Vọng Các.

- Bao giờ anh đi?

- Anh không biết nữa. Dầu sao, anh cũng ở đây khá lâu rồi. Anh muốn ở thêm, nhưng toà báo không thể nào cho anh nghỉ hè mãi.

- Em đi cùng với anh được không? Em thích nghề làm báo như anh quá!

Văn Bình tát nhẹ vào má Simon một cách thương hại. Nếu nàng biết chàng chỉ là thông tin viên báo chí giả hiệu, nàng sẽ không yêu nghề làm báo của chàng nữa.

Trong cuộc đời gián điệp quốc tế, Văn Bình đã làm hàng chục nghề nghiệp khác nhau. Có khi chàng trá hình làm cu li bến tàu, hoa tiêu hàng hải, cũng có khi chàng đội lốt tên bợm chuyên trèo tường, khoét vách để có thể được đưa ra toà lãnh án và ngồi tù nữa.

Lần này ông tổng giám đốc đa sự muốn chàng đóng vai nhà báo, đúng hơn đóng vai thông tin viên chiến tranh.

Vai lủng lẳng hai cái máy ảnh đắt tiền - một cái Nikon F, kính 0,8, một cái Rollei 2,8, kèm theo đầy đủ dụng cụ, tổng cộng gần ngàn đô la - một cái máy chữ Remington xách tay trong hành trang, với mớ đồ nghề cố hữu mà nhà báo nào cũng có như giấy trắng, bút chì nguyên tử, ống nhòm, Văn Bình vọt lên phi cơ đi Vọng Các.

Chàng định sang Âu Châu, song ông Hoàng chỉ muốn chàng dưỡng sức ở Thái. Như thường lệ, chàng phản đối:

- Thưa ông, dạo này Vọng Các nóng như trong lò nướng bánh. Nếu quả thật ông cho phép tôi nghỉ mát tại sao không cho tôi qua Pháp. Bờ biển phía nam dạo này đẹp ghê, không xấu như hồi ông ở bên ấy đâu. Vả lại…

- Anh đi Vọng Các tiện hơn.

- Thưa ông… đại hội điện ảnh sắp họp ở Cannes…

- Hừ, lần đầu tiên anh tỏ ra mê say nghệ thuật thứ bảy. Anh thích đóng phim không?

- Thưa…

- Còn rụt rè gì nữa. Trả lời thích đi cho rồi.

- Thưa thích.

- Ừ, xong việc tôi sẽ cho anh đi Cannes. Nhưng hiện thời, anh cần có mặt ở Viễn Đông. Tôi không muốn anh qua Pháp vì cô Katy đang có mặt tại Cannes. Anh có hẹn tuần sau với Katy phải không?

- Thưa… phải.

- Hừ, anh còn định giấu cả tôi. Lần này tôi phải phạt anh.

Đổi giọng nghiêm nghị, ông tổng giám đốc nói:

- Thật ra, tôi cũng chẳng muốn phạt anh làm gì. Anh cần hò hẹn cũng như con người cần dưỡng khí để thở. Chẳng qua tôi muốn anh ở Vọng Các là vì một chuyện quan trọng sắp xảy ra.

Thế rồi, Văn Bình lên đường.

Mùa xuân, là mật ngữ quái ác chàng không muốn nghe mà vẫn phải nghe.

Tiếng nói của Simon nheo nhéo bên tai chàng:

- Cho em sang Lào với nhé?

Chàng lắc đầu:

- Không được.

Simon trợn mắt:

- Anh không cho, em cũng đi.

Văn Bình trợn mắt lại:

- Sao được?

Thấy Simon rưng rưng hàng lệ, chàng đành đấu dịu:

- Em yên tâm. Chỉ một vài tuần sau anh trở lại Vọng Các.

Simon giơ bàn tay búp măng lên trời:

- Em không tin. Anh thề đi.

Văn Bình thở dài:

- Nếu em bắt, anh xin chiều. Nhưng em đừng quên rằng lời thề dưới thời đại nguyên tử này không còn thiêng nữa đâu.

- Dĩ nhiên, kẻ nuốt lời thề không thể bị xe cán, song ít ra cũng thẹn với lương tâm. Em biết anh là người có lương tâm quang minh chính đại.

- Em ơi, trong đời lắm khi người ta không được quyền thoả mãn sở thích của mình. Anh giang hồ đã nhiều và đã gặp nhiều đàn bà. Và anh đã thề nhiều lần. Bây giờ anh không muốn thề nữa. Vì anh muốn thành thật với em. Anh không thể đánh lừa em.

Lời nói chân thành của Văn Bình làm Simon rung động. Lăn lộn dưới ánh đèn màu, nàng đã quen với lời thề cá trê chui ống của đàn ông. Song nàng cảm thấy Văn Bình không nói dối.

Cuộc gặp gỡ với Văn Bình đã hoàn toàn thay đổi quan niệm về đời sống của Simon. Nàng chưa hề yêu ai, hoặc đúng hơn, nàng đã yêu nhưng chỉ yêu ví tiền đầy đô la Mỹ, yêu những chiếc Cađilắc dài ngoằng gắn máy lạnh và âm thanh nổi, yêu những toà biệt thự tráng lệ dọc bờ biển. Nhưng từ ngày gặp gỡ chàng thanh niên khôi ngô, bặt thiệp và cường tráng này nàng cảm thấy cuộc đời đáng sống hơn trước.

Và nàng bắt đầu yêu.

Nàng nhớ lại rõ mồn một những chuyện xảy ra trong một tiệm ăn tối lờ mờ gần lữ quán Thai Hotel. Nàng yêu chàng vì chàng là thần tượng trong đám đàn ông không đặc sắc.

Song nàng lại yêu chàng hơn nữa khi khám phá ra chàng là một thanh niên can đảm, võ dũng khác thường.

Chàng mời nàng vào tiệm ăn sau khi lái xe ngao du trong châu thành Vọng Các. Nàng vừa ngồi xuống ghế thì ba người Âu cao lớn nhìn nàng bằng đôi mắt sống sượng như muốn bóc trần thân thể nàng..

Khi ấy Văn Bình ra cửa mua thuốc lá Salem. Lẽ ra, chàng quay vào sớm hơn, nhưng bộ y phục cũn cỡn, còn cũn cỡn hơn đồ tắm biển, của cô gái bán thuốc lá trong tiệm ăn đã bắt chàng lần khân thêm mấy phút nữa. Và chàng chỉ chịu cất bước khi đạt thêm một thắng lợi mới.

Đến gần bàn ăn, chàng ngạc nhiên khi thấy một gã vai u thịt bắp nghênh ngang kéo ghế ngồi sát Simon, phà vào mặt nàng hơi rượu nồng nặc.

Simon làm thinh, không đáp lại lời tán tỉnh thô lỗ của hắn. Được thể, gã người Âu làm già. Thấy Văn Bình, nàng mừng như bắt được của.

Nàng đề nghị với chàng bằng giọng cầu khẩn, gần như rưng rưng nước mắt:

- Chúng mình đi chỗ khác đi anh.

Văn Bình đáp:

- Không, ở đây vui hơn. Giàn nhạc Phi Luật Tân hay số một em ạ.

Simon nói:

- Em không còn tâm trí nào nghe nhạc nữa. Mấy thằng say rượu này song tàng quá.

Nàng nói dứt lời thì một gã người Âu khác say bí tỉ, loạng choạng tới bên, bàn tay lông lá vuốt vào má nàng, đoạn rú lên cười sằng sặc.

Văn Bình không thể nhịn nhục được nữa. Như mỗi lần, ông Hoàng dặn chàng cố gắng chịu đựng mỗi khi bị thiên hạ gây sự. Ông Hoàng khuyên chàng không nên vào những vũ trường có người đẹp, hoặc cặp kè với người đẹp vào nơi có nhiều dân anh chị. Ban chuyên môn của Sở đã đưa cho chàng bản danh sách những vũ trường và tửu quán mà chàng không nên léo hánh tới.

Song chàng không nghe. Ông Hoàng lấy phòng cho chàng ở Erawan thì chàng tìm đến Thai Hotel. Ông Hoàng không muốn chàng bắt bồ với đàn bà Thái trong thời gian chờ đợi công tác thì chàng dính như sơn với Simon…

Máu anh hùng sôi sục trong huyết quản Văn Bình. Hàng chục lần chàng đụng đầu với bọn du côn vũ trường. Hàng chục lần, chàng phải dụng võ. Nay thêm một lần nữa cũng chẳng sao…

Chàng gằn giọng:

- Tôi cho anh một phút để về bàn. Nếu không anh đừng trách tôi khiếm nhã.

Cả bọn cười ồ.

Có lẽ chúng cho chàng là thằng điên. Vì là thằng điên mới dám đương đầu với ba cây thịt đồ sộ cộng lại gần ba trăm ký.

Simon đứng dậy, níu áo Văn Bình, giọng van lơn:

- Đừng anh. Em trông họ dữ tợn lắm. Cánh tay nào cũng xăm sọ dừa với xương chéo. Say rượu như thế, họ có thể giết anh như chơi. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh nhịn đi là hơn.

Simon không can ngăn, chàng có thể nhịn được. Nàng đã lên tiếng, chàng cần ra tay cho nàng biết.

Vả lại, dẫu chàng muốn nhịn cũng không kịp nữa. Một tên người Âu hung hăng nhất lừ lừ tiến về phía chàng, miệng la hét om sòm.

Đèn trong vũ trường vụt bật sáng quắc. Mọi người nín thở chờ chuyện đáng tiếc xảy ra.

Văn Bình vẫn ngồi trầm ngâm trước ly huýt-ky nguyên chất, không ngẩng đầu lên, cũng như không thèm quan tâm đến bầu không khí căng thẳng trong tiệm nhảy đông khách.

Tên say rượu gầm lên:

- Thế nào, mày dám thử sức với tao không?

Chẳng nói, chẳng rằng, Văn Bình hắt ly rượu vào mặt hắn. Như vậy nghĩa là chàng tấn công trước và chàng cố tình hạ nhục đối phương.

Nghĩa là máu phải đổ. Gã người Âu không tránh kịp, ôm mặt ho sặc sụa.

Một tên lao vào người Văn Bình. Không thèm đứng dậy, Văn Bình khẽ gạt tay.

Bàn tay cứng như thép của chàng xô hắn ngã nhoài trên đất. Tên thứ hai với chai rượu bổ vào đầu Văn Bình.

Chàng thản nhiên chờ vỏ chai tới gần mới đẩy bật ra. Một phát atemi êm ái vào cườm tay làm đối phương đau bủn rủn. Bỗng Simon rú lên thất thanh:

- Trời ơi!

Tên thứ ba rút dao ra không biết từ lúc nào, đang nhắm ngay gáy Văn Bình đâm mạnh xuống. Ai cũng tưởng chàng bị mạng vong. Khách chơi đêm không thể hiểu rằng Văn Bình là võ sĩ tuyệt luân có tài né tránh đòn ngầm đánh lén sau lưng.

Nghe tiếng gió, chàng lạng người sang bên hữu. Lưỡi dao đâm trệch xuống bàn. Văn Bình giáng một nhát sống bàn tay vào xương bả vai địch. Hắn buông con dao sáng quắc rồi rú lên như bị thọc huyết.

Cuộc ẩu đả diễn ra trong vòng một phút đồng hồ. Ba gã khổng lồ bị Văn Bình đánh ngã một cách thần tốc và dễ dàng như trong rạp xiếc. Nét mặt không thay đổi, Văn Bình đánh diêm châm thuốc hút rồi ra hiệu cho Simon khoác tay chàng, ung dung ra ngoài, trong sự ngạc nhiên kính phục của toàn thể dạ khách.

Văn Bình cười với Simon:

- Anh bảo đảm với em là ông chủ không tính tiền rượu.

Chàng nói đúng. Khi chàng gọi bồi, đòi thanh toán thì chủ tiệm vòng tay cung kính:

- Bản hiệu xin thết ông bà. Ông vừa có những cử chỉ hết sức đẹp đẽ. Ba người say rượu này thường đến đây phá phách luôn. Tôi xin cảm tạ ông đã cho họ một bài học về quyền thuật. Thú thật là từ 20 năm nay, tôi chưa thấy ai giỏi võ như ông.

Ngọn gió khuya tạt vào mặt Văn Bình khí lạnh đáng yêu của ban đêm mùa hạ ở Vọng Các.

Simon dựa đầu vào vai chàng:

- Thật em không ngờ.

Nàng định nói thêm nhưng chẳng hiểu sao lại nín bặt. Nàng định nói "em không ngờ anh lại giỏi võ như thế, và em không thể tin anh là nhà báo".

Câu hỏi thắc mắc này của Simon định nêu ra lần nữa trong khung cảnh xao xuyến của cuộc chia phôi mà nàng linh tính là gần tới. Thấy nàng thừ người, Văn Bình lên tiếng:

- Em nghĩ đến ba thằng say rượu phải không?

Simon khựng người:

- Phải. Nhưng sao anh biết?

- Vì anh thấy em hoa chân múa tay, bắt chước lại miếng võ mà anh xử dụng.

- Anh tài thiệt. Cái gì kín đáo nhất cũng không qua khỏi mắt anh. Nếu anh cho phép em tò mò thì em xin hỏi một câu.

- Ồ, em chẳng cần phải xin phép.

- Nhưng em tò mò lắm.

- Tò mò là tính tốt của phụ nữ. Em cứ hỏi đi, anh sẽ làm em thoả mãn ngay.

- Vậy em xin hỏi nghề thật của anh là gì?

- Anh nói đến lần thứ mười rồi em vẫn quên. Anh là thông tin viên đặc biệt của nhật báo Buổi Trưa ở Sài Gòn chứ còn gì nữa? Không lẽ anh làm nghề ảo thuật.

- Anh có thể nói dối với mọi người, song không thể nói dối được với em. Em xét đoán đàn ông rất đúng. Đàn bà chúng em thường có một giác quan bén nhạy, có lẽ là giác quan thứ sáu, để khám phá những cái mà mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy.

Nếu không phải là một điệp viên già dặn, Văn Bình đã biến sắc. Tuy nhiên, lời nói của Simon đã làm tim chàng đau nhói. Quả nàng nói đúng, tạo hoá đã phú cho phụ nữ một thiên tài nhận xét. Chồng lén vợ đi tình tự với người yêu, đã cẩn thận lau hết vết son trên mặt, nhặt hết tóc vướng vào sơ mi, thế mà khi về nhà vẫn bị sư tử Hà Đông phăng ra, do thái độ sượng sùng vô cớ, không dám nhìn ánh đèn, hoặc do thái độ ngọt ngào, chiều chuộng vợ nhiều hơn ngày thường.

Nguyên Hương, nữ thư ký trung thành của ông tổng giám đốc, vợ chưa cưới, đúng hơn là không bao giờ cưới của chàng, có giác quan thứ sáu bén nhạy đến độ kinh khủng. Không cần gặp chàng, nàng chỉ cần gọi điện thoại là có thể phăng ra bí mật mèo mỡ của chàng. Dường như nàng có thể đánh hơi qua làn sóng điện, xa hàng trăm, hàng ngàn cây số.

Giờ đây đến lượt Simon.

Simon không thể biết Văn Bình là cán bộ điệp báo thượng thặng, nhưng ít ra nàng vẫn linh tính được một người như chàng không phải là thông tin viên báo chí chỉ sống quen với máy ảnh, máy chữ và giấy bút.

Nghe nàng nói, chàng cười lú lấp:

- Vậy theo em, anh phải làm nghề gì?

- Anh ấy à? Thôi, em không nói nữa. Vì em sợ sự thật lắm.

Cũng như nàng, Văn Bình đang sợ sự thật. Vì sự thật bắt chàng xa nàng, xa cuộc sống thần tiên trong thành phố Vọng Các yêu đương. Vì sự thật bắt chàng lao đầu vào cạm bẫy tử thần. Vì sự thật bắt chàng vứt bỏ tình yêu một cách tàn nhẫn.

Simon bá cổ chàng, hôn lấy hôn để. Nước mắt mằn mặn rớt xuống vai chàng.

Bỗng phía sau có tiếng động.

Cửa phòng được mở hé, và người bước vào là Lê Thái, tham vụ toà đại sứ Việt Nam tại Vọng Các, nhân viên bí mật của ông Hoàng.

Chứng kiến cảnh tượng thân mật giữa hai người, Lê Thái đứng sững, miệng lí nhí:

- Xin lỗi anh.

Simon khoác vội mền len mỏng vào mình. Sự đường đột quá mức của Lê Thái làm Văn Bình giận đến mức không thể nào làm mặt giận được nữa.

Chàng đành mỉm cười gượng gạo:

- Anh phá rối tôi quá!

Lê Thái lúng búng như miệng ngậm hột thị:

- Xin lỗi anh lần nữa. Vì gấp quá.

Vừa nói, Lê Thái vừa nhìn về phía Simon. Giả vờ không để ý, Văn Bình hỏi:

- Lệnh ông chủ bút phải không?

- Vâng.

- Toà báo ra lệnh tôi đi ư?

- Vâng.

- Bao giờ?

- Trong 45 phút, máy bay cất cánh.

- Trời ơi, anh làm tôi như người máy, bấm nút là chạy liền. Dầu sao, tôi cũng cần một thời gian sửa soạn…

- Thưa anh, vé đã lấy xong rồi. Phiền anh sửa soạn ngay cho kịp. Trong 10 phút nữa, tôi sẽ lái xe đưa anh lên phi trường. Từ đây lên Đồn Mương gần ba chục cây số, chạy nhanh và không kẹt xe thì mất trên nửa giờ. Nghĩa là chỉ vừa lên phi cơ.

Văn Bình ngần ngừ:

- Sợ không kịp. Hoãn đến mai được không?

Lê Thái lắc đầu:

- Không được. Ông cụ đích thân kêu điện thoại cho tôi. Hẳn anh đã biết tính ông cụ. Từ bao năm nay, chưa bao giờ ông cụ gọi điện thoại từ Sài Gòn qua đây cho một nhân viên tầm thường là thằng tôi.

Simon choàng dậy:

- Ông cụ nào mà ác vậy, thưa ông?

Văn Bình đỡ lời:

- Ông cụ chủ bút.

Simon rủa:

- Hừ, thiên lôi đánh ông cụ ấy chết cho rồi.

Lê Thái hơi tái mặt. Văn Bình vội tiếp:

- Hừ, ông cụ còn khoẻ hơn thiên lôi nữa.

Lê Thái xoa bàn tay:

- Mời anh. Dầu anh muốn ở lại cũng không được nữa. Tôi đã thanh toán xong tiền phòng. Bồi sắp mang hành lý xuống xe hơi.

Văn Bình nhăn mặt:

- Rồi có lẽ tôi cũng phải xin thôi. Làm việc như mọi, nghỉ chưa lại sức thì ông cụ cho người đến áp giải ra phi cơ.

Simon nhìn Lê Thái, mặt ngơ ngác:

- Đi đâu hả ông?

Lê Thái bật cười:

- Vạn Tượng.

Simon cười sung sướng:

- Ồ, thế thì được. Mai mốt mình sang bên ấy.

Nhưng Văn Bình lại không sung sướng chút nào. Nghĩ đến thành phố Vạn Tượng vắng heo và đầy bụi đỏ, với những bồn tắm khô nước, bùn bê bết, những bữa ăn nuốt không trôi vào thực quản, chàng đâm ra chán nản. Thời gian hú hí ở Vọng Các trong toà khách sạn tối tân bậc nhất này bên cạnh mỹ nhân thật là thần tiên.

Lê Thái quay gót:

- Tôi xuống dưới nhà trước, và đợi anh trong xe hơi.

Cửa phòng đóng lại.

Simon ghì chặt Văn Bình, nước mắt ướt đầm ngực chàng. Chàng biết chắc đó là những giọt lệ thành thật. Rất ít khi gái giang hồ khóc thành thật. Và khi đã khóc thành thật, suốt đời sẽ không bao giờ quên.

Nàng sụt sùi:

- Hai ngày nữa, em sẽ sang bên ấy với anh.

Văn Bình thở dài:

- Nghề của anh nay đây mai đó như con chim em đi theo sao được.

- Em cũng biết vậy nhưng đến khi ấy hãy tính. Giờ đây, anh đi Lào, cách Vọng Các có một giờ phi cơ. Em không thể để anh một mình bên ấy. Ở đây, em cũng không thể sống một mình. Em sẵn sàng theo anh đến chân trời, góc biển. Chỉ sợ anh quên em thôi.

Nàng lại khóc. Simon đã bộc lộ tâm tình một cách hoàn toàn thành thật. Nàng là hạng người đã nói là làm.

Từ nhiều năm nay Văn Bình không thích bận tâm về đàn bà trong khi thi hành công tác mà thường lệ là hiểm nghèo. Song trước thái độ thành thật của Simon, chàng không thể thoái thác. Chàng bèn gật đầu.

Văn Bình kéo màn cửa sang bên.

Ánh sáng buổi sáng tràn vào làm chàng chói mắt. Phòng chàng nhìn thẳng ra hướng đông, mặt trời dâng lên đỏ ối, khiến cho những ngôi tháp màu vàng của các ngôi chùa đối diện lấp lánh như vừa được đánh bóng.

Trong vòng mấy giờ đồng hồ nữa, Văn Bình sẽ dấn vào cuộc thách đố với Tử thần. Chàng không khi nào sợ chết, song chàng lại tiếc nuối Vọng Các một cách lạ lùng.

Đối với du khách, Vọng Các là quê hương của những chiếc cà-vạt toàn lụa dệt tay nhiều màu rực rỡ, và những khuy áo măng sét bằng bạc độc đáo có một không hai trên thế giới. Con sông Chao Phya nằm thưỡn như người thiếu phụ đòi hỏi ân tình với những ngôi chợ nổi bồng bềnh trên mặt nước phóng đãng, trên đường tới viếng ngôi chùa Rạng Đông, đã khắc ghi vào lòng Văn Bình những kỷ niệm đằm thắm không thể nào quên.

Có người đến Vọng Các để thăm cái trại nuôi toàn rắn, bức tượng Phật nguy nga cao 32 thước, ngôi đền cẩm thạch hoặc khoác tay tình nhân chiêm ngưỡng những cảnh hoang tàn nên thơ nhưng cũng không kém Đế Thiên, Đế Thích. Nhưng Văn Bình lại khác…

Chàng nhớ Vọng Các ở chỗ có những nhà khiêu vũ nửa sáng, nửa tối bên trong người ta phải nhịn thở để uống từng cái ưỡn ngực, cái thót bụng của màn thoát y giật gân, và đặc biệt là những căn phòng bí mật mà khách không nhìn thấy mặt nhau, từ tối đến sáng chiếu toàn phim ảnh khác thường, phim ảnh Nhật, Mỹ, Pháp, Thụy Điển mà người đàn ông đứng đắn phải đỏ chín người vì xấu hổ và ham muốn lén lút.

- Hoàng Lương?

Văn Bình ngoảnh lại.

Simon gọi chàng. Chàng sực nhớ mình là thông tin viên Hoàng Lương. Lần này, Nguyên Hương đích thân đặt tên cho chàng. Nàng chọn tên Hoàng Lương vì muốn rằng trong thời gian chàng hoạt động ở hải ngoại mọi mối tình của chàng chỉ có giá trị như giấc mộng hoàng lương.

Theo nguyên tắc, danh tính điệp viên không được đặt ra một cách hú hoạ. Tại văn phòng trung ương có một bản danh sách gồm 5 ngàn tên giả, lần lượt dùng hết tên này thì dùng tên kế tiếp. Song Nguyên Hương đã lôi Hoàng Lương từ dưới lên trên, ấn cho chàng. Chàng nhún vai phản đối thì nàng cười nửa miệng:

- Nếu em còn có quyền, em đã bỏ tù anh, chứ không cho anh thênh thang đi Vọng Các nghỉ mát đâu. Bắt buộc anh phải mang tên Hoàng Lương. Để anh luôn luôn nhớ rằng ái tình dọc đường chỉ như giấc mộng kê vàng.

Đàn bà muốn là trời muốn, nên Văn Bình nhận lời.

- Hoàng Lương?

Văn Bình ngoảnh lại. Simon đã mặc quần áo chỉnh tề. Sau làn lụa hồng, tơ bóng chói lọi, nàng lộng lẫy hẳn, khiến ai gặp nàng ngoài phố khó thể đoán nàng là người của ban đêm trác táng.

Lê Thái tủm tỉm cười khi thấy Văn Bình từ thang máy bước ra với Simon chĩu nặng một bên Văn Bình biết là anh chàng tham vụ phải gió muốn nói chuyện riêng với chàng.

Giả vờ hốt hoảng, chàng rờ túi quần sau rồi than:

- Khổ quá!

Simon cất tiếng:

- Anh bị đau ư?

Văn Bình lắc đầu, giọng ai oán:

- Anh quên ví tiền trên phòng rồi.

- Để đâu?

- Dưới đệm giường.

Simon làm sao hiểu được rằng Văn Bình cố tình bỏ quên ví tiền dày cộm để dặn nàng lên lấy. Chàng muốn nàng có cơ hội tiêu giùm chàng mấy trăm đô la còn lại.

Chàng không hề coi nàng như gái chơi cần trả tiền sòng phẳng, song chàng cũng không thích ra đi một cách lạnh nhạt. Mặt khác, chàng muốn tự do trong năm phút với Lê Thái.

Simon mắc mưu liền. Nàng ngoan ngoãn bước tới thang máy.

- Để em lên lấy cho. Anh ở dưới này nói chuyện với ông ấy đi.

Văn Bình nheo mắt nhìn tấm thân ngọc ngà khuất sau cửa thang máy. Lê Thái gật gù giọng thán phục:

- Người ta thường khen anh, bây giờ tôi mới biết. Mấy hôm nay nàng chi tiền phải không?

Văn Bình đáp:

- Cũng gần như thế. Không biết tôi sinh nhằm giờ gì mà đàn bà đua nhau trả tiền ăn, tiền mặc, tiền tiêu cho tôi.

- Anh làm tôi thèm rỏ dãi. Anh giả vờ quên ví để hoàn lại tiền cho nàng phải không?

- Phải. Tôi muốn trả một cách kín đáo.

- Tôi sợ nàng không lấy.

- Tôi cũng sợ như thế. Và đó mới là mối nguy cho tôi. Không cần tiền nghĩa là nàng thành thật yêu tôi. Nàng sẽ bám riết lấy tôi, không chịu nhả ra nữa.

- Cũng tại anh cả. Ông Hoàng dặn mà anh không nghe.

- Lần này lỡ rồi. Lần sau tôi xin nghe.

- Làm nghề này, sợ không còn lần sau nữa thôi.

- Đành liều, biết sao! À, ông Hoàng dặn gì thêm nữa không?

Lê Thái lắc đầu:

- Không. Dường như đến Vạn Tượng anh mới nhận được chỉ thị đặc biệt.

Mắt Văn Bình sáng rực:

- Tôi sang Vạn Tượng vì việc gì?

- Không biết nữa. Tôi chỉ được lệnh tới khách sạn tìm anh và đưa lên chuyến phi cơ sớm nhất, thế thôi.

Simon đã nện gót giày một tấc lộp cộp trên sàn gạch bông bóng loáng.

Vẻ hớn hở như con nít được quà, nàng cầm ví tiền giơ lên cao:

- Suýt nữa, anh sẽ bị đói ở Vạn Tượng. Nhờ em đấy, nếu không…

Cả ba người cười rộ.

Chiếc xe hơi kiểu nhỏ phóng êm như trượt tuyết trên đường nhựa giữa những cánh đồng bát ngát.

Simon vui vẻ được một lát bỗng trở nên ủ dột. Văn Bình giả vờ nhìn ra ngoài để khỏi gặp tia mắt sầu muộn của nàng. Nàng không nói ra song linh tính báo cho nàng biết là còn lâu lắm hoặc không bao giờ nữa mới được gặp lại chàng thanh niên khả ái mà nàng say mê.

Đột nhiên, nàng cầu mong một sự lạ lùng và bi thảm. Nàng cầu mong cho xe hơi gặp tai nạn trên đường. Vì chỉ có tai nạn mới giữ được chàng ở lại đất Thái.

Những lời cầu mong của nàng không thành sự thật. Tài xế của sứ quán lách như con chim qua hàng chục chiếc xe chạy nối đuôi nhau thành hàng dài trên xa lộ.

Trong chớp mắt, trường bay Đồn Mương hiện ra sừng sững trước mặt.

Lê Thái ngoảnh ra chỗ khác cho Simon ôm Văn Bình hôn. Văn Bình sợ nàng không chịu buông chàng ra nữa, vì sau 5 phút nàng vẫn dán chặt như keo vào người chàng.

Dịu dàng chàng gỡ tay nàng ra. Rồi nói, giọng âu yếm:

- Thôi, phi cơ sắp cất cánh rồi. Nếu có thể, em sang bên ấy với anh cho vui. Anh cũng nhớ em quay quắt. Anh ngụ tại khách sạn Constellation. Khi nào em qua đánh điện cho em đi đón.

Văn Bình cốt an ủi nàng, chứ trong thâm tâm chàng không hề muốn Simon sang Vạn Tượng. Bất giác chàng rùng mình như gặp gió lạnh mặc dù sân bay nóng như thiêu đốt.

Chàng sực nhớ ra mối tình giữa chàng và Simon chỉ có thể là ngọn gió thoảng qua, người đàn ông chỉ cần kéo cao cổ áo dạ và đánh diêm châm thuốc hút là quên được hơi lạnh.

Lúc gặp nàng Văn Bình sà vào như con thiêu thân thèm ánh sáng rực rỡ, không nghĩ đến hậu quả tai hại xảy ra. Chàng không nghĩ vì thấy Simon đẹp quá. Nàng đẹp hơn nhiều người đẹp khác chàng đã gặp trong cuộc đời chìm nổi.

Chàng không nghĩ đến vì thoạt đầu đinh ninh Simon giống hàng trăm hàng ngàn người đàn bà đa tình đã ngả vào cánh tay chàng. Người nào cũng đắm đuối một vài đêm, vài ba tuần, rồi đâu lại vào đấy, chàng hối hả trèo lên phi cơ, còn nàng thì ở lại với những hẹn hò, những mơn trớn khác.

Tin tưởng ở kinh nghiệm trường đời, Văn Bình chắc mẩm Simon sẽ quên chàng.

Ngờ đâu nàng không quên.

Cửa phi cơ đóng kín, hoa tiêu bắt đầu nổ máy. Văn Bình rút bót phơi ra đếm lại tiền.

Thì ra cả chàng và Lê Thái đều lầm. Simon không lấy đồng nào hết. Nàng không tơ hào đến tiền của chàng trái lại nàng còn bỏ thêm vào nữa.

Mân mê xấp giấy bạc, bàn tay Văn Bình run run. Bàn tay của chàng từng bình thản đâm lưỡi dao nhọn hoắt vào tim kẻ thù hoặc lảy cò súng hạ sát những kẻ chưa đến số chết.

Song bàn tay ấy lại run run…

Sợ lầm Văn Bình đếm đi đếm lại. Chàng không sao lầm được: trong quá khứ, chàng đã đếm hàng ngàn triệu bạc. Chàng vẫn tỉnh chứ không mê ngủ.

Thực tế đã xảy ra rõ ràng như ban ngày. Simon bỏ thêm vào ví chàng hai tờ 100 mỹ kim, kèm theo một mảnh giấy nhỏ, viết bút chì nguệch ngoạc:

Văn Bình bàng hoàng, ngồi lặng trên ghế. Vẻ mặt bâng khuâng, chàng vén riềm nhìn vào phi cảng.

Trường bay rộng mênh mông nên chàng không tìm ra Simon đứng ở đâu. Song chàng biết chắc nàng đang đưa mù soa lên mắt.

Trong đời, chàng đã yêu nhiều người đàn bà. Chàng đã yêu thật và yêu giả nhiều lần.

Song ít khi chàng gặp người đàn bà lạ lùng như Simon…

Con chim đại bàng bằng thép dứt khỏi sân bay bê-tông. Thành phố quốc tế Vọng Các khuất dần trong những chòm mây lơ lửng.

Xế trưa, Văn Bình tới Vạn Tượng.

Lâu lắm mới đặt chân xuống trường bay Vạt Chai, Văn Bình nao nao như được tái ngộ người yêu sau nhiều tháng năm xa cách. Trong thời gian qua, chàng đã có dịp hoạt động ngang ngửa tại Lào. Nàng Leuam và nàng May đã thành người thiên cổ trong một cuộc đấu trí không bao giờ quên được. Thất bại phần nào ở Hồng Kông, chàng đã cạo đầu đi tu gần một năm trong một ngôi chùa cổ trên đường đi Thát Luông.

Cảm giác đầu tiên của Văn Bình khi ra khỏi phi cơ là một sự hiu quạnh khác thường.

Thật vậy, mặc dầu tình hình vương quốc được coi là khẩn trương thủ đô hành chính Vạn Tượng lúc nào cũng như lúc nào. Toà nhà duy nhất của phi cảng đã phủ đầy bụi và rêu mà không ai thèm tu sửa, hoặc ít ra là quét lên một lượt nước vôi trắng cho đẹp mắt. Nếu ở góc phi trường không có mấy chiếc máy bay to tướng sơn cờ Mỹ, hoặc đề chữ "Ủy hội Quốc tế" thì ít ai dám cho Vạn Tượng đang sống trong bầu không khí căng thẳng, nơm nớp lo sợ một cuộc chiến tranh tàn sát, xảy ra không biết lúc nào…

Người ra đón chàng là một thanh niên đeo kính cận thị gọng vàng Nylor, trên môi phì phèo điếu thuốc Camel không bao giờ tắt. Thấy chàng, hắn nhận ra ngay:

- Thưa, ông là thông tin viên Hoàng Lương?

Văn Bình đon đả bắt tay.

Trước khi chàng rời Vọng Các, toà đại sứ đã loan báo cho nhiệm sở Vạn Tượng biết. Thanh niên đeo kính gọng vàng tự giới thiệu, giọng nhỏ nhẹ:

- Tôi là Đoàn Minh, đệ nhị tham vụ. Sứ quán của ta đã đóng cửa từ ba tháng trước, sau khi chính phủ liên hiệp trao đổi đại diện ngoại giao với Bắc Việt. Ông đại sứ đã về Saigon, và có lẽ còn lâu mới lên. Nghe tin ông lên anh em ở đây mừng quá. Báo Buổi Trưa là nhật báo lớn nhất dưới ấy phải không thưa ông?

Văn Bình bí xị không trả lời được.

Tuy là thông tin viên đặc biệt cho tờ báo lá cải này chàng chưa được hân hạnh đến toà báo lần nào. Chàng cũng không biết địa chỉ của tờ báo phải gió ấy ở đâu. Dĩ nhiên giấy tờ cấp cho chàng là giấy tờ thật một trăm phần trăm, do ông chủ bút ký, kèm theo khuôn dấu đỏ chói. Văn Bình không hỏi tại sao ông Hoàng lại nắm được những chứng minh thư và thẻ báo chí của tờ Buổi Trưa, theo thói quen nghề nghiệp.

Nghe Đoàn Minh hỏi, chàng đâm ra sợ ông già tổng giám đốc. Kể ra, chàng sợ ông cụ lẩm cẩm kia đã lâu nhưng thỉnh thoảng chàng mới nhận thấy tài ba lạ lùng gần như ảo thuật của ông. Ở đâu ở bất cứ xó xỉnh cơ quan nào, ông cũng có nhân viên chìm và nổi. Muốn có giấy tờ khó khăn đến đâu, ông cũng xoay xở ra một cách dễ dàng như người nâng ly huýt-ky lên miệng.

Đoàn Minh mở to mắt, đợi Văn Bình trả lời. Chàng bèn mỉm cười, ra vẻ tán thành sự nhận xét của Đoàn Minh.

Chiếc Mercédès 220S màu đen, bóng loáng có thể soi gương, xả hết tốc lực về trung tâm thành phố.

Văn Bình ngoảnh sang bên:

- Dưới ấy có gửi thư từ gì lên cho tôi không?

Sực nhớ ra Đoàn Minh đáp:

- À có. Ông không nhắc thì tôi quên khuấy.

Đoàn Minh rút trong cặp da ra một phong bì khá lớn màu vàng. Bên ngoài có hàng chữ nắn nót như sau:

Toà soạn nhật báo Buổi Trưa Sài Gòn.

Kính gửi thông tin viên đặc biệt Hoàng Lương.

(trân trọng nhờ ông đệ nhị tham vụ trao tận tay ký giả Hoàng Lương)

Văn Bình gấp đôi lại, nhét vào túi quần. Rồi chàng hỏi, giọng lơ đãng:

- Nếu tôi không lầm, ông quen thân với chủ nhiệm báo Buổi Trưa?

Đoàn Minh cười hồn nhiên:

- Vâng, chúng tôi rất thân nhau. Đúng ra, chúng tôi là bạn học cùng lớp. Tôi vào ngành ngoại giao còn hắn làm báo. Bây giờ hắn là ông trời con, giơ ngón tay lên là sấm sét đùng đùng, còn tôi chỉ là một tham vụ hạng bét.

Bỗng Đoàn Minh choàng dậy:

- Ấy chết, xin ông tha lỗi. Tôi quen miệng nên gọi ông chủ nhiệm là hắn.

Văn Bình khoát tay:

- Ồ, có sao đâu. Chúng mình đều là bạn. Và tôi xin đề nghị gọi nhau là anh, thân mật hơn. Tiếng ông nghe xa lạ và già quá.

Đoàn Minh cười ròn rã:

- Vâng, tôi xin lãnh ý anh bạn nhà báo.

Văn Bình giả vờ rít một hơi Salem để khỏi phải cười theo. Đoàn Minh là bạn tri kỉ của chủ nhiệm báo Buổi Trưa, nhưng lại không biết hắn là nhân viên của ông Hoàng. Nếu Đoàn Minh khám phá ra Văn Bình chỉ là thông tin viên giả hiệu, chắc chắn sẽ chết ngất.

Xe đậu lại trước lữ quán Constellation.

Đoàn Minh bắt tay từ giã.

- Thôi, chào anh. Anh lên lầu, tắm rửa, thay quần áo rồi chúng mình sẽ nói chuyện sau. Trong thời gian ở đây, anh cần điều gì cứ cho tôi biết, tôi xin tận tình giúp đỡ.

Văn Bình nghiêng mình:

- Cám ơn anh.

Chàng trèo cầu thang gạch lên gác. Đó là lối duy nhất lên phòng ngủ, còn tầng dưới thì được dùng làm phòng ăn.

Một đám đông ký giả quốc tế đủ màu da và quốc tịch đang chúi đầu vào nhau bàn bạc. Bên cạnh những chai la-ve San Miguel cổ vàng đã cạn.

Văn Bình đưa tay chào, nhưng chẳng quen một ai. Cả bọn đều chào lại một cách xuồng xã, như thể đã thân với chàng từ lâu. Chàng mỉm cười một mình ra vẻ thoả mãn. Điều cần thiết đối với chàng là làm cho mọi nhà báo khác tin chàng cũng làm báo như họ.

Việc ấy đã xong.

Nụ cười vụt tắt khi chàng bước vào căn phòng được dành sẵn cho chàng. Căn phòng của chàng trong Thai Hotel đầy đủ tiện nghi bao nhiêu thì căn phòng này thiếu thốn tiện nghi bấy nhiêu.

Đêm qua, chàng nằm trong bầu không khí mát rợi, tiếng ồn điếc tai của xe cộ chạy ngoài đường không lọt vào giường ngủ. Cần gì, chàng chỉ nhấc điện thoại trong ba phút sẽ có hết. Thậm chí cần bạn một đêm cũng chỉ mất 15 phút, số thời giờ cần thiết cho giai nhân đi tắc xi từ nhà đến lữ quán.

Còn ở đây, chao ôi, vẻn vẹn chỉ có một cái giường lẻ loi, một tủ gương cô độc, một bồn tắm nhỏ xíu chỉ có thể đánh răng và rửa mặt được mà thôi. Cái máy lạnh gắn ngất ngưởng trên tường khạc ra tiếng ồn làm chàng nhức đầu. Rồi đang chạy, nó đột nhiên câm họng lại như hến.

Trước khi lên phi cơ, chàng còn nghe Simon dặn dò:

- Bên ấy không được sung sướng như bên này đâu. Khổ như vậy dĩ nhiên anh sẽ nhớ Vọng Các nhiều hơn. Vạn Tượng đang phải tiết kiệm hơi điện nên mỗi ngày bị cúp 5, 6 tiếng đồng hồ. Ban ngày nhiều khi hơi điện quá yếu nên máy lạnh chết luôn luôn.

Simon đã nói đúng. Sự thật còn phũ phàng hơn lời nàng nữa. Máy lạnh của khách sạn thuộc loại cũ mèm, rỉ sét lung tung, ống thông nước bị nghẹt làm vách tường ướt sũng.

Mồ hôi Văn Bình vã ra như tắm. Chàng mở toang cửa sổ cho nắng bên ngoài tuôn vào.

Đặt ngay ngắn bức thư của ông Hoàng lên bàn, chàng tự thưởng một hớp huýt-ky bằng cách tu ồng ộc vào cổ chai rồi mới bắt tay vào việc. Vẻ mặt chàng nghiêm trang như thể y sĩ sửa soạn một cuộc giải phẫu quan hệ.

Phong bì được mở ra, bên trong còn hai lớp phong bì nữa, gắn xi và băng keo kĩ càng. Bức thư nằm trong cùng được đánh máy trên giấy in tiêu đề toà soạn Buổi Trưa.

Chàng rút trong va li ra lọ thuốc nhỏ màu vàng. Nhìn cái nhãn ai cũng cho là thuốc đau gan. Khi rời phi trường Đồn Mương, chàng đã nhăn mặt đáp lại câu hỏi tò mò của nhân viên thương chính:

- Thuốc đau gan.

Thật ra gan chàng cứng như sắt, từ nhỏ đến lớn chàng chưa uống một giọt thuốc bổ gan nào. Chất thuốc đau gan giả hiệu này là thứ thuốc hoá học dùng để đọc thư từ viết bằng mực bí mật.

Văn Bình lấy bàn chải đánh răng nhúng nước, phết đều lên tờ giấy. Giữa những hàng chữ của bức thư vô nghĩa thư của ông chủ bút dặn thông tin viên Hoàng Lương phỏng vấn các lãnh tụ liên hiệp của chính phủ Lào quốc dần dần hiện lên những dòng chữ khác màu hung hung.

Văn Bình hơ lên nắng cho khô, đoạn cắm cúi đọc.

Chàng suýt reo lên một tiếng. Công tác ông Hoàng giao cho chàng lần này không chán ngấy như chàng lầm tưởng.

Đọc xong, chàng nhẩm lại lần nữa cho thuộc rồi châm lửa đốt, vứt tàn vào chậu rửa mặt, đổ nước cho tan hết.

Chàng vừa lau tay thì có tiếng gõ cửa. Ba ngắn một dài. Rồi ba dài một ngắn.

Văn Bình nói lớn:

- Ai đó, cứ vào.

Người bước vào trạc ba mươi, mặc sơ mi cụt tay bằng hàng Boussac rằn ri, vai đeo máy ảnh Yashica F, lông mày sắc như lưỡi dao cạo, thân hình tròn trịa, vừa vặn, tỏ ra khá hấp dẫn đối với phái yếu.

Không cần xin phép, hắn ung dung ngồi xuống ghế, gạt thuốc lá vào đĩa đựng tàn, miệng nói:

- Toà báo Buổi Trưa mới gửi tiền lên cho anh. Anh biết là bao nhiêu chưa?

Văn Bình đáp:

- Một vạn kíp.

Người lạ nói:

- Hân hạnh được tiếp xúc với anh. Tôi là nhân viên chìm của ông Hoàng tại Vạn Tượng. Tên tôi là Sulô.

- Tôi là Hoàng Lương. Sulô, té ra anh là người Lào!

- Vâng, tôi lai Việt. Trên này theo chế độ mẫu hệ nên mẹ Lào, cha Việt có thể tự coi như người Lào được rồi. Đất Lào có hàng trăm, hàng ngàn người như tôi. Vả lại, dân tộc Lào rất tốt, họ không cần quan tâm đến công việc người khác, tôi mang tên Lào Sulô, hoặc tên Nga Khruschev họ cũng mặc kệ.

- Nhưng anh coi chừng đấy. Chỉ có ký giả mới đeo máy ảnh.

- Anh ngạc nhiên là đúng. Song tôi có quyền đeo máy ảnh. Vì tôi là nhà báo. Nhà báo thứ thiệt, được bộ Thông tin và bộ Tổng tham mưu cấp thẻ đàng hoàng. Tôi là ký giả của báo Xiêng Mahaxon.

- Xiêng Mahaxon, cái tên nghe quen quen…

- Vâng, đó là cơ quan ngôn luận của phe hữu.

- Hà hà, báo Buổi Trưa của tôi cũng theo phe hữu.

- Té ra tôi lầm. Trước khi đến đây, tôi đinh ninh chỉ có tôi là nhà báo thực thụ còn anh chỉ làm báo khi nào thích làm mà thôi.

Cuộc gặp gỡ với Sulô làm Văn Bình chột dạ. Dường như Sulô ưa nói nhiều hơn làm. Đó không phải là đức tính của nghề điệp báo.

Chàng bèn đưa mắt ra cửa:

- Trước khi vào phòng tôi, anh đã cẩn thận xem có bị ai theo dõi chưa?

Sulô nhún vai, giọng kiêu căng:

- Anh đừng ngại. Đây là Vạn Tượng, không phải Sài Gòn hay Đông Kinh. Nhân viên gián điệp ở đây đông đảo thật đấy, nhưng chỉ là đồ bỏ. Thuốc phiện rẻ như bèo và gái đẹp cả đống đã làm họ mềm người ra rồi.

Văn Bình hơi cau mặt:

- Anh gặp bồi ngoài hành lang không?

Sulô vẫn thản nhiên:

- Không. Vả lại, gặp cũng chẳng sao. Ngày nào tôi cũng đến đây uống rượu ba lần, sáng, trưa và tối, bồi đã nhẵn mặt. Vả lại, ông chủ khách sạn người Pháp là bạn du hí thân thiết của tôi.

- Anh quen nhiều ghê.

- Vâng, cái nghề này phải thế. Tốn tiền kinh khủng, anh ạ. À, ông Hoàng có gửi tiền lên cho tôi không?

- Có. Theo chỗ tôi biết, ông Hoàng đã chuyển ngân lên cho anh rồi. Giờ này, anh ra ngân hàng có lẽ đã có.

Sulô thở dài:

- Hỏng cả rồi, anh ạ.

Văn Bình nhìn vào mắt Sulô:

- Thế nào là hỏng cả rồi?

Sulô, giọng chán chường:

- Nàng Boun đã chết. Chết vào rạng sáng hôm nay.

- Tại sao?

- Hoài Thanh hạ sát nàng rồi tự vận.

- Nghĩa là cả hai đều chết.

- Tôi chưa có tin tức đích xác vì cảnh sát giữ kín. Một mặt báo viên của tôi cho biết Hoài Thanh chưa chết. Hắn nhảy trên lầu xuống đất may vướng cành cây nên chỉ bị thương. Hiện giờ hắn đã được chở về toà đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

- Tại sao Hoài Thanh giết nàng Boun?

- Có lẽ vì ghen tuông.

- Đó là sự phỏng đoán của anh hay là căn cứ vào chi tiết cụ thể?

- Không, tôi đâu dám phỏng đoán. Làm nghề này, phỏng đoán là hết đời. Phỏng đoán là làm nghề thầy bói, phải không anh? Hoài Thanh yêu nàng Boun một cách tha thiết, có thể hy sinh tính mạng cho nàng, song hắn lại mắc bệnh ghen ghê gớm. Hắn đã để lại một bức thư tuyệt mạng.

- Nội dung ra sao?

- Tôi xoay sở mọi cách mà chưa tìm ra. Nhân viên sứ quán Bắc Việt đến nơi xảy ra án mạng trước công an Lào nên đã làm phi tang hết cả.

- Nghĩa là kế hoạch của chúng ta đã thất bại trước khi được thực hiện?

- Tôi chưa dám nghĩ như vậy, song sự thật cũng gần như anh kết luận.

- Theo anh, còn phương tiện nào khác nữa không?

- Vâng, tôi cố áp dụng phương châm "còn nước còn tát". Xin anh để tôi suy tính lại. Song tôi sợ là không còn hy vọng gì nữa. Từ lâu, tôi nhắm vào cặp tình nhân này. Nếu anh lên sớm hơn một ngày biết đâu chúng ta đã hoàn toàn thành công, hoặc ít ra cũng đạt được kết quả thuận lợi. Bây giờ họ đã chết.

- Ngoài Hoài Thanh, anh còn quen ai nữa?

- Kể ra thì ai cũng quen, và ai cũng không quen. Vạn Tượng nhỏ như lỗ mũi, làm quen rất dễ. Tôi đã vác mặt tới mọi cuộc tiếp tân và ở đâu tôi cũng mày mò kết bạn với nhân viên ngoại giao cộng sản. Nhưng bọn đàn em của Lê Văn Hiến khôn như ranh, anh ạ. Họ chỉ bắt tay tôi là nhiều nhất. Bắt xong rồi thôi, gặp nhau trong cuộc tiếp tân khác là mặt lạnh như tảng băng Bắc cực.

- Tại sao anh quen được Hoài Thanh?

- Lý do cũ rích, anh ạ. Hoài Thanh ham xuống xóm Đồng Pha Lan. À chắc ở Sài Gòn anh đã nghe danh Đồng Pha Lan. Thôi thì, tha hồ, muốn gì cũng có. Có thể nhất dạ đế vương, miễn hồ có tiền. Phải là hoà thượng 80 tuổi hạ mới khỏi bủn rủn tay chân khi bước qua xóm Đồng Pha Lan. Đêm nay, anh sẽ thấy tôi nói đúng.

- Cám ơn. Anh quảng cáo hay hơn cơ quan du lịch chính thức của chính phủ hoàng gia. Nhưng bây giờ tôi chưa thích thanh lâu. Mà chỉ cần biết tại sao anh làm thân được với đệ nhị tham vụ Hoài Thanh?

- Sau khi thấy hắn tiêu tiền như rác, tôi bèn tổ chức theo dõi. Tôi lại quen nàng Boun.

- Tôi hy vọng anh sẽ tìm được một Hoài Thanh và một nàng Boun khác.

- Điều này có thể thực hiện được, tuy nhiên phải cần thời gian. Phiền một nỗi là anh đã cất công lên đây… Dầu sao cũng xin anh thông cảm rằng không phải lỗi tại tôi.

Dáng điệu bâng khuâng, Văn Bình đứng dậy ném mẩu Salem cháy dở qua cửa sổ. Mùi bạc hà thơm thơm còn phảng phất trong phòng trọ.

Đúng như lời Sulô, công tác của Văn Bình ở Vạn Tượng đã kết thúc trước khi được khởi đầu. Nghĩa là chàng bị ông Hoàng bắt cóc ở Thai Hotel, tống cổ sang đây một cách vô ích.

Lệ thường mỗi lần xuất ngoại chàng đều giáp mặt ông tổng giám đốc để trực tiếp nhận chỉ thị, và đôi khi bàn góp ý kiến. Lần này, mệnh lệnh được đưa qua trung gian. Một trung gian hót như khướu. Nàng Boun thiệt mạng, Hoài Thanh bị thương, không hiểu ông Hoàng sẽ có thái độ nào, vì những biến cố đáng tiếc này không được ghi trong chương trình. Chẳng lẽ ông Hoàng ra lệnh cho chàng tiếp tục. Chẳng lẽ ông Hoàng ra lệnh cho chàng quay về Sài Gòn.

Văn Bình hỏi Sulô:

- Anh vẫn liên lạc bằng điện đài với ông Hoàng chứ?

Sulô đáp:

- Vẫn.

- Mỗi tuần mấy lần?

- Nếu có tin tức thì mỗi đêm mỗi gửi. Bằng không, một tuần hai lần, thứ tư và thứ bảy. Đêm nay, tôi sẽ sử dụng điện đài vào hồi 2 giờ rưỡi. Anh muốn tôi điện về những gì?

Suy nghĩ một lúc, Văn Bình đáp:

- Tôi cũng chưa định. Trước giờ mở điện đài tôi sẽ liên lạc với anh.

Sulô viết địa chỉ của hắn xuống giấy và đưa cho Văn Bình. Mặt hắn bỗng sáng rực:

- Anh tìm tôi rất dễ, cứ bảo xảm lồ hoặc tắc xi xuống Đồng Pha Lan. Sống ở đây, ai cũng phải biết Đồng Pha Lan.

- Dĩ nhiên, anh phải làm hướng đạo cho tôi.

- Sẵn sàng. Thôi chào anh. Thật đáng tiếc.

Sulô kéo giầy lệt xệt ra cửa. Tiếng chân của gã ký giả Lào nhỏ dần ở cầu thang.

Văn Bình chép miệng, châm điếu Salem mới Sulô cho là đáng tiếc. Song Văn Bình lại không nghĩ thế. Chàng chỉ hơi lấy làm bực mình. Trong đời gián điệp, nhiều khi bát cơm bưng tận miệng, sắp ăn rồi còn bị giật đổ. Tuy nhiên, trong sự bực mình đã có đôi chút kinh ngạc.

Thờ thẫn, Văn Bình tiến ra bao lơn, nhìn xuống đường.

Đối diện khách sạn là đường Sam Sen Thai, đại lộ số một của thủ đô Lào quốc.

Mang danh là đại lộ số một, đường Sam Sen Thai chưa thể so sánh với con đường hạng bét của Sài Gòn. Mặt đường không tráng nhựa nên xe cộ chạy qua bụi lốc mù trời. Hai bên đường, những tấm gỗ gập ghềnh gác chân lên nhau để che ống cống, phía dưới chảy một thứ nước đen ngòm như nước sái thuốc phiện.

Cột điện bằng gỗ gần lữ quán xiên hẳn sang bên, như muốn ngã chúi vào quầy rượu. Xa xa vọng lại một điệu nhạc buồn buồn. Tiếng khèn độc đáo của xứ Lào thật hợp với thủ đô Vạn Tượng đìu hiu.

Dưới đường, Sulô đã đeo máy ảnh sang vai khác. Hắn thích cử động tay chân chứ không phải đau vai. Hắn dáo dác nhìn ngược xuôi, có lẽ để tìm xe.

Một chiếc xảm lê ọc ạch chạy qua, gọng kền lấp loáng dưới trời nắng như thiêu như đốt. Một xa phu hạ xuống nhưng Sulô xua tay.

Văn Bình nghe tiếng Sulô vọng lên:

- Tắc xi.

Một chiếc Opel xịch tới. Tài xế bất chấp luật lệ lưu thông vì thành phố Vạn Tượng dường như không có, và không cần luật lệ lưu thông đậu chềnh ềnh giữa đường, khệnh khạng mở cửa cho Sulô trèo lên.

Một tia điện giật nhanh trong óc Văn Bình.

Con mắt tinh tế của chàng không thể nào lầm được.

Chiếc tắc xi sơn đen chở Sulô vừa chuyển bánh thì cách khách sạn Constellation năm chục thước một chiếc xe hơi khác, cũng thuộc loại Opel sơn màu cà phê sữa đậu xế cửa biệt thự của Ngoại trưởng Lào, cũng vội vã rồ máy.

Từ nãy Văn Bình đã để ý tới người ngồi trong xe màu cà phê sữa. Tắc xi rẽ sang trái, chiếc xe cà phê sữa cũng rẽ theo.

Văn Bình đứng trầm ngâm giây lâu.

Hồi nãy, chàng nảy ra ý định quay về Vọng Các. Nhưng từ phút này chàng phải ở lại. Bên trong nội vụ chàng nhận thấy một sự trục trặc lạ lùng. Chàng nhất quyết tìm cho ra.

Giờ đây, chàng phải tắm một cái cho lại thần hồn. Vạn Tượng đã có sẵn nhà tắm hơi đặc biệt dành riêng cho đàn ông có nhiều tiền. Nghĩ đến lúc nằm dài trên một chiếc giường nhỏ, mắt lim dim, cánh mũi hấp háy, mặc cho người đàn bà trên thân không có mảnh vải nào hết, nắn bóp từng thớ thịt, Văn Bình quên cả nhọc mệt.

Huýt sáo miệng, chàng quay vào phòng.

Một anh bồi nghiêng đầu chào bằng tiếng Việt:

- Thưa, ông mới từ Sài Gòn lên.

- Không, từ Vọng Các.

- Ồ, thế mà ông tham vụ lại nói rằng ông ở Sài Gòn.

- Đúng, tôi từ Sài Gòn qua Vọng Các nghỉ một thời gian trước khi tới đây.

- Thưa, ở đây chắc ông bực mình lắm. Nước không có, điện cũng không, ăn uống thì thiếu thốn, một cọng rau cũng mang từ Nồng Khai qua. Ai Lao chẳng có gì hết, thậm chí đến món đàn bà cũng phải nhập cảng.

- Kể thì cũng chán thật. Nhưng cái nghề của tôi là thế. Nơi nào vắng vẻ nhất cũng là nơi có nhiều tin tức nhất.

- Thưa, ông định ở bao lâu?

- Cũng còn tuỳ. Tuy nhiên ngắn nhứt cũng vài ba tuần. Vì tôi còn phải phỏng vấn hoàng thân thủ tướng, và sau đó lên Cánh đồng Chum.

- Vâng, vài ba tuần khá đủ rồi. Ông sẽ có thời giờ dư dả để tìm của lạ. Sài Gòn không có tiệm nhảy phải không ông?

- Có chứ. Tiệm nhảy ở Sài Gòn rất nhiều.

- Lạ nhỉ! Tôi thấy vũ nữ ở dưới ta kéo lên đây hàng đoàn. Họ kháo nhau rằng làm ăn ở Sài Gòn khó lắm.

- Phải. Vì bộ luật gia đình.

- Ồ, ở trên này thì tha hồ, tha hồ nhảy, tha hồ say, tha hồ du hí, miễn có tiền. Cái gì chứ cái tiêu khiển thì chở hàng trăm xe cam nhông đổ xuống sông Cửu Long cũng chưa hết. Ông đã có dịp xuống Đồng Pha Lan chưa?

- Chưa.

- Tối nay, tôi sẽ dẫn ông đi. Cũng đủ như Hồng Kông, ông ạ. Đủ hạng đàn bà tây, tàu, lai, già, trẻ, vàng, trắng… Túi tiền nào cũng thích hợp, ít tiền thì hạng xoàng, còn giàu sụ thì có những món đặc biệt từ Hồng Kông tới. À, lại còn có xi-nê nữa. Không phải xi-nê đen trắng đâu, thưa ông. Toàn là phim màu. Và là phim mới. Tôi nghe nói ở Sài Gòn, mấy chú ba Tàu ở Chợ lớn chiếu phim cũ mèm và in lại, chán như cơm nếp nát.

- Nghe nói gần khách sạn có tiệm nhảy Lido cừ khôi lắm mà…

- Vâng, Lido là vũ trường nổi tiếng nhất nhì Vạn Tượng. Nhưng phải tới vào nửa đêm thì mới gặp nhiều cái lạ. Tuy nhiên, đêm nay, tôi xin đề nghị ông đi Vieng Ratry.

- Vieng Ratry?

- Vâng, ở gần bờ sông. Lịch sự và ấm cúng nhất là Vieng Ratry. Ở đó đang trình diễn một trò thích mắt ghê gớm.

Văn Bình thừa biết gã bồi nói thoát y vũ. Chàng lại thừa biết hắn là tay ma cò chuyên nghiệp. Chàng bèn khoát tay:

- Ôi chao, nghe anh nói phát rệu nước miếng. Nhưng tôi mới đến còn mệt lắm. Tối mai, tôi sẽ tìm anh.

Chàng đóng cửa đánh sầm.

Gã bồi ngó chàng bằng cặp mắt sửng sốt. Hắn không ngờ được người đàn ông bảnh trai và cường tráng như thế lại dửng dưng khi nghe nhắc tới thú vui ban đêm tại Vạn Tượng.

Hắn lắc đầu tỏ vẻ không hiểu rồi nặng nề bước xuống thang gác.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx