sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Z.28 Bóng Tối Đồng Pha Lan - Chương 6; Bóng Tối Đồng Pha Lan

Đồng Pha Lan, 24 giờ đồng hồ sau:

Nếu các khu yên hoa trên thế giới mở cuộc tranh tài về bóng tối, thì Đồng Pha Lan phải đoạt vương miện.

Thật vậy, Đồng Pha Lan là thiên đường dạ lạc chứa nhiều bóng tối nhất. Hải cảng Hăm bua của Đức quốc khét tiếng năm châu về con đường độc đáo, gồm toàn cửa hàng bán vui, với người đẹp bằng xương bằng thịt chia nhau ngồi trưng bày trong cửa kính, song lại quá sáng, ở đâu cũng có ánh đèn, ánh đèn rực rỡ làm cho mọi người chói mắt và sượng sùng.

Khu Mông mác của Ba lê, cũng như khu Sôhô ở Luân ĐÔn có ít ánh sáng hơn, nhưng vẫn còn những ngọn nến hiếu kỳ và trắng trợn. Muốn tìm bóng tối đồng loã, khách du quốc tế bắt buộc phải tới Đồng Pha Lan.

Đồng Pha Lan là một tiểu thị trấn nấm mọc bên hông thủ đô Vạn Tượng. Khách du tới nơi, không qua những xa lộ tráng xi-măng trơn bóng trên xe Hoa Kỳ Cadillac, hoặc bước vào thang máy bấm nút tối tân, mà là ì ạch xảm lồ trên con đường đất đỏ, lồi lõm, ngoằn ngoèo, luôn luôn ngập nước mưa và bùn đất sét. Vũ trường, quán giải phiền toàn là nhà trệt nằm giữa vườn rộng, kiến trúc đơn sơ, trang trí giản dị.

Đặc điểm của Đồng Pha Lan là bóng tối.

Ở đâu cũng thấy bóng tối. Đường từ trung tâm thành phố xuống Đồng Pha Lan hoàn toàn tối om, hai bên không những không có cột điện, nhà cửa lại thưa thớt và đìu hiu nữa. Đột nhiên, đèn nê-ông hiện lên như sao sa. Rồi vụt tắt. Tất cả chìm vào bí mật.

Sàn nhảy và quầy rượu chỉ sáng hơn ngoài đường một chút. Trai gái có thể tình tự tha hồ, lính kiểm tục không bao giờ léo hánh tới. Vả lại, Vạn Tượng là một trong các thủ đô không có đội kiểm tục. Ngữ vựng Lào dường như không có luôn cả danh từ công xúc tu xỉ mà người Việt đưa vào đạo luật chay tịnh tình yêu.

Vào đến nhà trong thì bóng tối còn nhiều, còn dày đặc, còn bí mật hơn nữa. Sáng nhất là bóng đèn 5 nến tù mù trên bàn đêm, không đủ chiếu lên cái mùng trắng luôn luôn rủ xuống giường. Trừ phi khách đòi hỏi, người đẹp thường tắt ngọn đèn duy nhất này. Mọi việc đều diễn ra trong bầu không khí đen thui như mực tàu.

24 giờ đồng hồ sau, Văn Bình lại lao đầu vào bóng tối Đồng Pha Lan.

Không hiểu sao chàng lại lập tổng hành doanh tại đó. Có lẽ vì thành phố Vạn Tượng buồn như trấu cắn, quanh đi quẩn lại cũng mấy con đường nhỏ xíu, xiêu vẹo, gồ ghề, mấy lữ quán chật chội, ọp ẹp, tiều tụy, mấy cô gái ngồi trầm ngâm sau quầy hàng, mặt buồn thiu, thân thể gầy nhom, ngực oméga dạng dẹt nhất, chân khùng khuỳnh, da đen và mốc một cách kinh khủng. Nhưng có lẽ vì Sulô hẹn chàng.

Đêm qua, chàng suýt nghẹt thở trong gian phòng tí hon gần quán rượu New Bamboo Bar. Simon không cho phép chàng về khách sạn. Nàng giữ riệt chàng lại, và kéo chàng tới sào huyệt nên thơ này. Chàng lục đục trên giường cho đến sáng rõ.

Khi ấy Simon mới chịu cho chàng chợp mắt. Lần đầu tiên, điệp viên bách chiến, bách thắng Z.28 bị thua đậm. Trên thực tế, chàng đã thảm bại từ 3 giờ sáng, nghĩa là đúng một giờ sau khi hai người đóng cửa. Chàng van xin Simon nhưng nàng quyết hành hạ chàng cho bõ ghét.

Kết quả là Văn Bình ngủ li bì đến xế trưa mới dậy. Nghĩ đến cái hẹn với Sulô chàng lồm cồm bò dậy, không kịp xúc miệng, rửa mặt và chải lại mớ tóc phiến loạn, kêu tắc xi trở về Constellation. May thay, chàng không lỡ hẹn.

Gặp Sulô xong, chàng cảm thấy hai mắt ríu lại. Chàng chỉ kịp ăn đĩa trứng gà ốp-la (xin nhớ rằng trứng gà là xa xỉ phẩm ở Vạn Tượng, vậy mà Văn Bình làm một hơi 6 quả) rồi để nguyên quần áo, nằm lăn chiêng trên giường, kéo giấc ngủ thứ hai.

Chàng tỉnh dậy thì trời xẩm tối.

Một phong thư màu xanh được luồn sẵn dưới gối. Mở ra, chàng nhận ra tuồng chữ viết uyển chuyển và khả ái của Simon.

Nàng viết như sau:

Anh của em.

Xin anh tha lỗi. Sáng nay, anh thức dậy không gặp em vì em phải đi rất sớm.

Em đi từ 6 giờ. Hồi chiều, em trở lại hỏi bà chủ thì nghe nói là anh ngủ đến gần 1 giờ mới dậy.

Em hy vọng sẽ gặp lại anh đêm nay, hoặc chậm lắm là đêm mai. Đừng giận em, anh nhé…

Anh ơi, đàn ông các anh xoàng quá, em tưởng anh tài ba hơn thiên hạ, ngờ đâu anh chỉ là chiến sĩ tầm thường. Anh phản đối ư? Vâng, em sẵn sàng chờ anh phục hận. Tuy nhiên, em hoàn toàn tin tưởng rằng lần sau, nếu hai đứa mình còn được gặp nhau, anh sẽ thua em sát ván. Và lần này, anh không được vụng múa chê đất lệch nữa, nghe chưa?

Tha thiết yêu anh,

Simon.

Văn Bình ngồi yên hồi lâu với bức thư trên đùi. Dọc đường xuống Đồng Pha Lan, chàng tiếp tục thờ thẫn như người mất hồn. Simon nói đúng không sai một li: chàng đã thua nàng không còn manh giáp. Thế mà từ bao năm nay chàng vẫn tự hào là coi đàn bà như cỏ rác.

Văn Bình đậu xe ở cuối xóm, và đi bộ vào toà nhà kiểu xưa ở gần bụi tre um tùm.

Trời đã tối hẳn. Tuy nhiên, Đồng Pha Lan chưa thực sự thức dậy. Những ngọn đèn tù mù đầu tiên được mở sáng song các giàn nhạc giật gân chưa xuất hiện trên bục gỗ.

Văn Bình xô cổng bước vào.

Ngoài cổng chỉ có một cái biển nhỏ màu trắng, chữ đỏ hoét: Love. Love là Tình yêu, Văn Bình hy vọng gặp những cô gái nhỏ nhắn và xinh xắn ban phát tình yêu trong khu trại vắng vẻ này.

Song người chàng gặp đầu tiên lại là mụ già lọm khọm. Mụ vòng tay chào chàng, nói bằng tiếng Quảng Đông trơn tru:

- Thưa, ông là bạn của ông Sulô?

Văn Bình gật đầu:

- Phải.

- Xin lỗi, ông đến hơi sớm. Ông Sulô hẹn 8 rưỡi.

- Tôi đến sớm phiền không bà?

- Thưa ông không. Chỉ sợ ông chê các em của tôi thôi. Nếu ông chấp nhận thì đến càng sớm, càng tốt. Quán Love của tôi tiếp khách suốt ngày đêm không nghỉ.

Văn Bình suýt bật cười vì lời rao hàng nhanh nhảu của mụ già người tàu. Song chàng cố giữ vẻ nghiêm trang:

- Sẵn sàng. Bà mời họ ra đây.

Hai mắt mụ dầu mở rộng, có vẻ ngạc nhiên quá đỗi. Dường như mụ mới nghe dạ khách nói như vậy lần đầu tiên. Thấy chàng cũng ngạc nhiên, mụ rón rén ngồi xuống bên cạnh Văn Bình, giọng nhỏ nhẹ:

- Ông Sulô đã nói rõ với ông chưa?

Văn Bình hỏi:

- Nói về chuyện gì?

- Chuyện quán Love.

- Không. Sulô chỉ dặn tôi xuống đây ngồi chờ, và nói là ở đây có nhiều thú vui đặc biệt độc nhất.

- Thưa vâng.

Mụ dầu tần ngần một phút rồi nói, giọng hơi bối rối:

- Thưa, ông Sulô có nói thêm gì nữa không?

Văn Bình buông thõng:

- Không.

- Thưa, vậy tôi khó nói quá.

- Chẳng có gì khó cả. Thú vui cũng như món ăn, bà giới thiệu lần lượt cho tôi chọn lựa. Các em của bà từ Hồng Kông tới phải không?

- Thưa không.

- Từ Sài Gòn tới?

- Cũng không.

- Vậy ở đâu tới? Tôi vốn ghét những bà chủ ít lời…

Sulô đã xuất hiện kịp thời để cứu mụ dầu. Khác mọi đêm, gương mặt hắn đượm vẻ nghiêm trang. Hắn kéo ghế ngồi xuống bàn Văn Bình, và xua tay ra lệnh:

- Bắt đầu chưa?

Mụ dầu cúi đầu:

- Thưa rồi.

Sulô nói:

- Đưa chúng tôi vào.

Văn Bình theo Sulô qua cái sân rộng thấp thoáng ánh đèn xanh đỏ. Những chiếc đèn giấy xinh xắn và nhỏ bé gợi cho chàng nhớ xóm thanh lâu thi vị ở Đông Kinh. Chàng hỏi Sulô:

- Chúng mình đi đâu?

Sulô đáp:

- Coi xinê.

- Coi xinê? À, tôi hiểu rồi. Loại xinê này Vạn Tượng chán chết.

- Anh lầm rồi. Ở đây có rất nhiều cuốn phim mới lạ và táo bạo, từ Nhật và Thụy Điển gửi tới. Chắc anh đã biết phụ nữ Thụy Điển tự do nhất thế giới. Quán Love này là sào huyệt của những thú vui tân kỳ. Ngày cũng như đêm, khách tha hồ xem chiếu bóng đặc biệt. Chiêu đãi viên đều là đàn ông giả đàn bà, cũng mặc xiêm y và trang điểm lộng lẫy như đàn bà thực thụ. Họ có nhiệm vụ cung phụng cho nam giới mắc bệnh đồng tính luyến ái.

- Tại sao chúng mình chui vào đây?

- Vì như anh đã biết, bệnh homosexual thường là bệnh của các nhà ngoại giao thần kinh căng thẳng, nhất là những kẻ xa nhà, không mang vợ con theo. Phần lớn nhân viên ngoại giao thuộc khối Nga - Hoa ở đây đều bị đồng tính luyến ái. Họ dùng quán Love làm câu lạc bộ…

- Việc này không liên quan đến đệ nhị tham vụ Hoài Thanh. Như anh đã hứa, tôi chỉ muốn gặp hắn. Còn chuyện khám phá những bí mật của xóm Đồng Pha Lan, chẳng hạn coi xinê con heo, và tới thăm động tiên của bọn ái nam, ái nữ, yêu cầu để dành đến khi khác…

- Anh chưa gặp Hoài Thanh mà là gặp người khác.

- Ai?

- Nhân viên toà đại sứ Bắc Việt, kẻ thường giúp tôi theo dõi hành vi của Lê Văn Hiến.

- Đàn ông hay đàn bà?

- Đàn ông.

- Hắn hoạt động cho mình lâu chưa?

- Khá lâu. Dựa vào tin tức của hắn, tôi đã báo cáo về Sài Gòn cho ông tổng giám đốc.

- Lương bổng?

- Tôi trả hắn theo việc.

Hai người bước qua một bụi cây um tùm. Sulô chỉ bên trái:

- Họ chiếu xinê ở đó. Mụ chủ kiếm tiền như nước. Mới lập nghiệp được nửa năm mà mụ đã sắm được biệt thự lầu rộng như đại lâu đài và xe Mercédès tự động. Nếu không gấp gáp, mời anh vào xem một lát. Cuốn phim đang chiếu này tuyệt hay. Tôi cam đoan là xem xong anh sẽ không muốn quay về Sài Gòn nữa.

- Anh tuyên truyền cũng hay không kém. Sao anh chưa mở rạp xinê để cạnh tranh?

- Ồ, chụp ảnh như tôi cũng đủ lắm tiền rồi. Hầu hết phòng ngủ ở đây đều có cửa bí mật để vừa vặn ống kính 0,95 của máy ảnh 24x36. Chụp bằng phim hồng ngoại. Nếu là xen giật gân thì bán được hàng chục ngàn một cái phim. Còn là cảnh ngoại tình thì ba, bốn trăm ngàn còn ít.

- Nhân viên của anh đang chờ ở đâu?

- Đúng anh là con người đàn anh gương mẫu. Nếu anh không là thanh niên bất lực…

- Cả hai.

- Cinê ở đây chiếu suốt ngày đêm. Hết một phim thì ngừng lại 15 phút. Nhân viên của tôi vào rạp từ chiều. Đúng 8g30, hắn sẽ bước ra.

Sulô lặng thinh. Tiếng lá rơi xào xạc. Văn Bình nghe được cả tiếng thì thầm của khu rừng kế cận. Chàng lạnh lùng rút thuốc lá Salem, châm lửa hút.

Đột nhiên Sulô bấm cánh tay chàng:

- Kìa, hắn đã ra.

Văn Bình hỏi Sulô:

- Tên hắn là gì?

- Anh hãy gọi hắn là Ngọc. Hồ Ngọc. Dĩ nhiên tên thật của hắn không phải là Hồ Ngọc, cũng như tên thật của anh không phải là Hoàng Lương, thông tin viên báo Buổi Trưa.

- Anh biết tên thật của tôi không?

- Không. Vả lại, người Lào chúng tôi không thích xen vào đời tư của thiên hạ. Tên thật của anh là gì, tôi không nên biết thì hơn. Biết nhiều thêm lụy vào thân.

Người lạ rảo bước lại chỗ Văn Bình đứng. Sulô huýt sáo. Người lạ dừng lại. Vì trời tối, Văn Bình không thể nhận ra diện mạo của hắn. Sulô kéo hắn lại gần:

- Giới thiệu với anh, đây là bạn tôi. Anh cứ tự do thảo luận, đừng ngại gì cả.

Văn Bình cất tiếng:

- Yêu cầu anh Hồ Ngọc cho biết thêm chi tiết về vụ Hoài Thanh và Thiên Hồng.

Bóng đen đáp:

- Theo chỉ thị của Sulô, tôi đã tiếp xúc với họ. Tình hình có lẽ đã chín muồi. Ông đại sứ một mực cho rằng Hoài Thanh phản bội.

- Còn Thiên Hồng?

- Nàng khóc nức nở hai ngày nay.

- Liệu họ có chịu theo mình không?

- Tôi tin là có. Nếu không gặp trở ngại giờ chót, công việc có hy vọng hoàn tất nội đêm nay.

Hồ Ngọc đưa cho Văn Bình một bao diêm giọng nói thấp hẳn xuống:

- Tôi đã ghi kỹ trong này. Yêu cầu anh nghiên cứu và tuỳ nghi sử dụng. Trân trọng chào anh.

Hồ Ngọc rón rén bước nhanh vào bóng tối. Văn Bình nhìn theo, vẻ mặt bâng khuâng. Sulô vỗ vai chàng:

- Anh còn cần tôi nữa không?

Văn Bình thẫn thờ:

- Cảm ơn anh. Như vậy đã đủ rồi. Từ phút này trở đi, tôi sẽ hành động một mình. Anh nên qua Thái nghỉ mát một vài tuần. Sau khi Hoài Thanh biến khỏi toà đại sứ Bắc Việt, không khí ở đây chắc chắn sẽ khó thở. Anh cần thêm bao nhiêu tiền tôi sẽ yêu cầu ông Hoàng gửi sang Vọng Các cho anh.

Sulô cười sung sướng:

- Tôi không dám vòi vĩnh nhiều. Chỉ xin ông Hoàng 5 ngàn. 5 ngàn đô la chuyển vào trương mục của tôi tại ngân hàng Tokyo Vọng Các.

Văn Bình chìa tay bắt:

- Chúc anh thượng lộ bình an.

Sulô quay gót. Văn Bình đứng yên một lát bên bụi cây rậm rạp rồi bước theo ra ngoài.

Nền trời trong và cao. Những đám mây đen báo hiệu cơn giông hồi tối đã loãng dần, nhường cho mảnh trăng thượng tuần non trẻ ló đầu ra khỏi những vòng tròn trắng sữa, êm ái và xôm xốp như bông gòn.

Toàn khu thanh lâu Đồng Pha Lan được dát một nếp bạc óng ánh ngoạn mục. Dãy đèn giấy xanh đỏ của quán Love lùi dần phía sau. Văn Bình tiến vào rừng ánh sáng và thanh âm hỗn loạn của những tiệm nhảy đang ưỡn ẹo trong nhạc Jazz và rượu huýt-ky ngả nghiêng.

Văn Bình thấy lại hàng chục gương mặt bự phấn quen thuộc, hàng chục người đàn bà dùng toàn lông mi giả, tóc giả và cao su giả, bên cạnh những của báu độc đáo nhập cảng đặc biệt từ Hồng Kông, da dẻ nõn nà và bóng loáng như ruột trái vải Đài Loan, bộ ngực tròn trịa phơi bày công khai sau làn vải voan mỏng dính, làm đàn ông rệu nước miếng như kẻ khát nước đi qua vườn lê căng phồng chất ngọt ở Nhật.

Vương tôn công tử từ khắp nơi đang ồ tới Đồng Pha Lan. Những kẻ vô công rồi nghề từ bên Thái sang, chán ngấy thú vui quá cổ điển ở Vọng Các, muốn tìm sự hoà hợp giữa văn minh tột đỉnh và man rợ. Những kẻ ăn trên ngồi trốc ở Vạn Tượng, Luang Phabang, Paksé… Những nhà ngoại giao xa nhà mà nhiều tiền, quá nhiều tiền, chưa biết tiêu cách nào cho hết… Những điệp viên lẫn lộn trong cảnh lường gạt và chém giết quốc tế…

Đột nhiên Văn Bình thở dài.

Xóm dạ lạc Đồng Pha Lan trở nên xa lạ đối với chàng hơn bao giờ hết.

Xóm dạ lạc Đồng Pha Lan lại không xa lạ đối với Trần Chương, đại tá điệp báo, chỉ huy trưởng hệ thống gián điệp của toà đại sứ Bắc Việt tại thủ đô trung lập Vạn Tượng.

Không xa lạ không phải vì Trần Chương là khách quen, hoặc có thiện cảm bất dịch với đàn bà đẹp. Mà chính vì Trần Chương đã tạo ra cuộc điều đình bí mật tại Đồng Pha Lan.

Vào giờ ấy, Trần Chương còn ngồi trong văn phòng. Thường lệ, sau 5 giờ toà đại sứ đã đóng cửa. Nhưng thường lệ Trần Chương làm việc quá 5 giờ.

Riêng hôm nay hắn làm việc từ sáng tinh sương đến tối. Buổi trưa, hắn chỉ nghỉ mệt 15 phút để tợp ngụm cà phê bỏng miệng, nhai ngấu nghiến miếng xăng uých dăm-bông, trò chuyện sơ sài với đại sứ Lê Văn Hiến rồi chúi đầu vào đống hồ sơ.

Đêm nay, Trần Chương cũng vẫn làm việc. Làm việc không biết đến mấy giờ mới ngủ nữa.

Phòng giấy đóng kín mít, đèn điện được bọc vải để giảm bớt sức sáng, như thể trong thời kỳ phòng thủ thụ động của đại chiến thứ hai. Trần Chương đứng dậy, nhìn người đàn ông đứng tuổi mặc com-lê cà vạt chỉnh tề ngồi trong ghế bành đối diện.

- Bác sĩ Hoành nghĩ sao?

Bác sĩ Hoành là y sĩ giải phẫu thẩm mỹ của tổ chức điệp báo Bắc Việt vừa đáp phi cơ riêng từ Khang Khay về Vạn Tượng. Bác sĩ Hoành trạc 45, râu mép lún phún, vẻ mặt nghiêm nghị, răng thưa, cằm lẹm, suốt ngày lầm lì, tỏ ra một nội tâm khó hiểu.

Nghe hỏi, bác sĩ Hoành nhếch mép:

- Kể ra thì không giống lắm. Đại tá gọi tôi về quá gấp nên không thể nào làm kịp. Nếu có thời giờ, từ nửa tháng đến hai tháng thì tôi hy vọng được nhiều hơn. Vì, như đại tá đã biết, muốn giống phải dùng phẫu thuật, và phải có thời giờ để cho vết mổ kéo da non và lành lặn như cũ. Vả lại, thật khó để giống hắn hoàn toàn: trên đất Đông Dương này khó tìm ra người thứ hai cận thị nặng phải mang kính số 7, một mắt lại hơi lé, mũi cà chua đỏ lòm, miệng cá ngão rộng hoác, răng khấp khểnh ám khói thuốc lá, và…

Trần Chương cắt lời:

- Tôi cũng biết vậy song không thể làm gì khác hơn nữa. Từ trưa đến giờ, đầu óc tôi choáng váng như muốn té xỉu vì cặp kính cận thị quá dày, nhưng bây giờ tôi sắp quen rồi. Thỉnh thoảng, tôi gỡ kính ra cũng chẳng sao. Về mũi, miệng và răng thì dễ: mũi tôi gần lớn bằng mũi hắn, bác sĩ đã chích paraffine dưới da cho nó lớn thêm, đồng thời bôi hoá chất đỏ lòm, bộ răng của tôi cũng chẳng lấy gì làm đều đặn. Riêng về cách đi đứng, có lẽ tôi còn ngượng ngập nhiều.

- Theo nhận xét của tôi, đại tá có lối đi gần giống. Thỉnh thoảng, hắn mới đi theo lối chữ bát, còn bình thường hắn vẫn bước đều đặn. Đặc biệt là thói quen nện gót giầy của hắn. Nện gót giầy là thói quen của người đàn ông bất lực hoặc có tự ti mặc cảm đối với xã hội. Tôi nhận thấy đại tá quên nện gót giầy.

- À, suýt nữa tôi quên. Bác sĩ căn dặn tôi điều gì nữa không?

- Tôi chỉ xin lưu ý đại tá điều này: giày đại tá đang dùng, tôi cố ý làm chặt hơn nửa số, cốt làm đau chân, đại tá phải đi chữ bát. Mai kia, khi đại tá hết đau chân, xin nhét một hột đậu ván ở gót.

- Cảm ơn bác sĩ.

Người được gọi là bác sĩ Hoành xách va li đồ nghề đứng dậy. Ở lại trong phòng một mình, Trần Chương bâng khuâng ngắm nghía đồ đạc. Đêm nay có lẽ là đêm cuối cùng của hắn trong phòng giấy ấm cúng và sang trọng này. Trong tương lai, kế hoạch thành công, hắn sẽ trở về Hà Nội, giữ một chức vụ nòng cốt trong bộ tham mưu điệp báo trung ương.

Cử chỉ từ tốn, hắn thu xếp hồ sơ trên bàn thành nhiều chồng cao ngất. Trước khi từ biệt sứ quán, hắn cần đọc lại các hồ sơ quan trọng. Hồ sơ được hắn nghiền ngẫm từng dấu chấm phết mang cái tên quen thuộc: hồ sơ Cửu Long.

Trần Chương lúi húi mở két sắt.

Loại tủ sắt đặc biệt này được chế tạo tại Tiệp Khắc, dành riêng cho các sứ quán trong phe xã hội chủ nghĩa. Nó gồm ba vỏ thép lồng vào nhau, cốt mìn, bom, và cả đạn chống chiến xa cũng không phá nổi. Chất cường toan cực mạnh có thể làm sắt chảy ra nước cũng trở thành vô hiệu.

Giả sử đối phương tìm cách phá được tủ két thì tài liệu bên trong đã cháy thành than. Đó là chưa nói tới những võ khí bí mật kinh hồn được giấu trong ổ khoá, và trong từng ngăn tủ, đụng vào là hơi độc toả ra, thần kinh tê liệt, hoặc cứng tim mà chết. Phía sau lớp thép thứ ba là một loạt họng súng nhỏ xíu bắn đạn xianuya. Chỉ cần một viên đạn bằng nửa hột kê bắn xớt da là nạn nhân co quắp chân tay, và tắt thở trong vòng 2 phút phù du.

Tủ sắt của sứ quán có hai ổ khoá khác nhau, duy Trần Chương được giữ chìa. Cả ông đại sứ cũng không được mở, trừ phi được Trần Chương đồng ý.

Rời sứ quán, Trần Chương sẽ giao lại bộ chìa cho ông đại sứ. Dầu có đủ chìa, ông đại sứ cũng không mở được vì lẽ không biết số khoá chữ thứ ba, và nhất là biết rõ vị trí của các võ khí bí mật trong tủ. Nội mai hoặc mốt, một sĩ quan điệp báo cao cấp sẽ từ Hà Nội đến, thay thế Trần Chương.

Trần Chương thừ người một phút trước tủ két mở rộng. Đời sống điệp báo cũng giống như miệng két sắt khổng lồ, há rộng ra đớp hết nhân tài. Sau nhiều ngày tháng hoạt động, Trần Chương chưa bao giờ thất bại, cho nên hắn tin tưởng là sẽ thành công lần này, và sẽ thành công vẻ vang.

Cửa mở.

Đại sứ Lê Văn Hiến bước vào.

Trần Chương bỏ hai cái chìa vào trong một phong bì trắng, lấy keo niêm lại rồi ký chặn lên trên. Lê Văn Hiến nhặt lên, để trong lòng bàn tay, giọng đượm vẻ băn khoăn:

- Bao giờ đồng chí lên đường?

Trần Chương ném mẩu thuốc lá vào đĩa đựng tàn:

- Trong vòng 30 phút nữa, tôi sẽ gặp họ, và có lẽ lên đường ngay.

- Đồng chí hy vọng thành công không?

- Dĩ nhiên là tràn trề hy vọng. Tôi chỉ hơi bực mình vì đối thủ của chúng ta lần này là Z. 28. Hắn là kẻ lão luyện trong nghề, phỉnh gạt rất khó. Tuy nhiên, tôi đã nắm được nhược điểm của hắn. Nội đêm nay, phiền đồng chí đại sứ liên lạc về Trung ương.

- Tôi hoàn toàn tin tưởng vào tài ba lỗi lạc của đồng chí. Song tôi lại lo ngại về phía Thiên Hồng. Dầu sao Thiên Hồng nghe theo lời chúng ta vì bắt buộc. Sợ mẹ và em ruột bị hành hạ, nàng phải hợp tác. Nhưng sau khi tới Sài Gòn nàng có thể thay đổi lập trường. Phương chi nàng có người yêu phục vụ dưới quyền lão Hoàng nữa. Theo tôi…

- Kế hoạch đối phó với Thiên Hồng đã được bố trí xong xuôi. Nàng chỉ phản phé sau khi được gặp tình nhân. Vì tình yêu mù quáng, nàng sẽ quên mẹ và em, nàng có thể dúng tay vào những việc bẩn thỉu và hèn hạ nhất. Cho nên tôi sẽ cho Thiên Hồng sống trên cõi đất này một vài ngày nữa mà thôi.

- Một vài ngày nữa… Giết Thiên Hồng thì hỏng. Địch sẽ nghi ngờ, kế hoạch của ta sẽ ít có hy vọng thành tựu.

- Đồng chí đại sứ đừng ngại. Lão Hoàng sẽ nghi ngờ nếu Thiên Hồng lăn đùng ra chết vì bị đánh lén, bị đầu độc, hoặc bị xe cán… Đằng này tôi sẽ sắp xếp cho nàng từ trần một cách êm thấm… Trước khi rời Vạn Tượng tôi sẽ nâng ly chúc mừng và nàng sẽ vui vẻ uống rượu với tôi. Trong rượu, tôi đã pha sẵn một hoá chất đặc biệt, mệnh danh là K-4 do sở Kỹ thuật Smerch chế tạo. Uống K-4 vào, thần kinh sẽ bị tê liệt mặc dầu cơ thể vẫn bình thường. Thiên Hồng mất hẳn trí nhớ, rồi trong khoảng thời gian từ 24 đến 72 giờ đồng hồ, tim nàng sẽ ngừng đập. Một trăm nhà bác học quốc tế mang xác chết ra mổ xẻ, nghiên cứu tỉ mỉ, cũng chẳng khám phá được gì, và phải kết luận là nàng thiệt mạng vì bệnh tim.

- Còn Sulô và Hoài Thanh?

- Đồng chí để tôi định liệu. Mọi việc phải được hoàn tất trước giờ tôi rời sứ quán.

- Lại về vấn đề Phạm Nghị nữa. Dầu sao hắn là đại uý điệp báo có thành tích. Nếu…

- Đồng chí đại sứ muốn xử trí ra sao?

- Triệu hồi hắn về Hà Nội.

- Dĩ nhiên là sau khi tôi đi, hắn phải hồi hương. Nhưng điều tôi cần nhấn mạnh là Trung ương sẽ phải thủ tiêu hắn ngay khi đặt chân xuống phi trường Gia Lâm. Phạm Nghị đã biết quá nhiều bí mật. Hắn là thành phần trung kiên, tuy nhiên, trong nghề này, đôi khi vì quyền lợi tối cao của công tác, người ta phải hy sinh cả những thành phần trung kiên nhất. Như tôi chẳng hạn. Ra đi chuyến này là một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Nếu bại lộ, tôi sẽ bị hy sinh. Trung ương không khi nào can thiệp.

- Được. Tôi sẽ liên lạc ngay với Hà Nội.

- Cảm ơn đồng chí đại sứ. Điều cần thiết là thủ tiêu Phạm Nghị một cách chóng vánh và kín nhẹm. Giải pháp lý tưởng là tặng hắn một ly rượu pha xianuya. Đến khi hắn biết bị đầu độc thì đã muộn.

Đại tá Trần Chương đột nhiên câm bặt.

Giác quan thứ sáu vừa báo cho hắn một tai nạn ghê gớm. Trong chớp mắt, tay chân Trần Chương lạnh ngắt, tóc gáy hắn dựng lên tua tủa.

Phía sau, một giọng nói quen thuộc được cất lên:

- Chưa muộn đâu, đồng chí.

Cả hai cùng quay lại. Là sĩ quan điệp báo chuyên nghiệp, am hiểu kỹ thuật và lẫy lừng võ nghệ nên Trần Chương quay lại nhanh hơn đại sứ Lê Văn Hiến một giây đồng hồ.

Tuy nhiên, nhanh hay chậm trong lúc này cũng vô ích. Vì ngay sau lưng Lê Văn Hiến và Trần Chương là khẩu Tokarev. loại súng trận chính xác đáng sợ của Nga sô.

Và người cầm súng là Phạm Nghị, đại uý tình báo của sứ quán Bắc Việt.

Phạm Nghị lia họng súng, giọng cay cú:

- Té ra bây giờ tôi mới biết. Mới biết bộ mặt thật của các đồng chí. Đồ khốn nạn… giơ tay lên, giơ tay lên, còn khệnh khạng gì nữa…

Văn Bình khệnh khạng ném tiền vào cái đĩa vàng 18 ca-ra lộng lẫy đặt trước mặt cô gái giữ két.

Trong 10 phút đồng hồ chàng đã tiêu thụ một chai huýt-ky hảo hạng, uống xếch, không sôđa và đá vụn. Sau khi từ quán Love ra, chàng cảm thấy khát lạ lùng. Chàng tưởng như có thể uống hết nước sông Cửu Long mà vẫn chưa hết cơn khát.

Tắc xi đưa chàng về phòng trọ.

Chàng vừa lên đến bậc thang thứ nhất thì gặp Đoàn Minh, tham vụ sứ quán. Chàng nhớ mang máng anh chàng thanh niên đeo kính cận thị gọng vàng Nylor, hút thuốc lá Camel như ống khói tàu thuỷ này là đệ nhị tham vụ, phụ trách giao tế.

Phần nhiều đệ nhị tham vụ là nhân viên điệp báo. Mỗi lần xuất ngoại, Văn Bình thường vào phòng bí thư, yêu cầu Nguyên Hương cho coi danh sách đệ nhị tham vụ sứ quán lãnh lương tháng hoặc lương vụ của Sở. Bản danh sách dài 2 trang đánh máy được chàng học thuộc làu, thậm chí nhớ cả ngày sinh tháng đẻ, ngày nhậm chức tại ngoại quốc của từng người. Tuy nhiên, Đoàn Minh không phải là cộng sự viên của ông Hoàng.

Thấy chàng, Đoàn Minh mừng líu cả lưỡi như lão bá hộ bủn xỉn đào được hũ vàng. Mãi hắn mới thốt ra được tiếng "à anh". Văn Bình chìa tay, mỉm cười:

- Ha ha, rồng đến nhà tôm. Thế nào, đêm nay ông đệ nhị tham vụ đến rủ nhà báo xuống xóm Đồng Pha Lan phải không?

Đoàn Minh nhìn quanh quất một phút trước khi nói nhỏ:

- Phải, tôi có việc tìm anh. Việc ở xóm Đồng Pha Lan, nhưng không phải để giải trí đâu. Tôi ở đây chờ anh đã hơn một giờ. Tưởng anh đi suốt đêm tôi lo sốt vó.

- Ồ, đến đâu hay đến đấy, anh sống ở Lào lâu năm rồi mà chưa biết sao? Đặc điểm của dân tộc Lào là mặc kệ, không cần lo nghĩ. Lúc này, tôi thành lừng khừng như người Lào rồi anh ạ. Anh cần tôi việc gì?

- Không, tôi chỉ có nhiệm vụ đến báo tin cho anh là sáng mai ông đại sứ có mặt tại Vạn Tượng. Toà soạn Buổi Trưa ở Sài Gòn liên lạc với ông đại sứ để xin một cuộc phỏng vấn, và ông đại sứ đã chấp thuận. Sáng mai, yêu cầu anh tới văn phòng đúng 10 giờ.

- Cám ơn anh.

Đoàn Minh chìa tay ra bắt, vẻ khoan khoái lộ liễu trên mặt. Trông hắn, người ta có cảm tưởng là hắn vừa trút bỏ được gánh nặng ngàn cân. Không đợi Văn Bình chào trả, Đoàn Minh nhảy tâng tâng xuống cầu thang, suýt đụng anh bồi từ dưới lên.

xuống xóm, chàng uống huýt-ky cũng chưa muộn. Lời nói của tham vụ Đoàn Minh còn văng vẳng bên tai. Ông đại sứ có mặt hay vắng mặt là việc không liên quan đến Văn Bình vì công tác của chàng hoàn toàn có tính cách bí mật tuyệt đối, ông Tổng trưởng Ngoại giao cũng không biết, huống hồ ông đại sứ.

Chàng lại biết chắc là tòa soạn Buổi trưa không khi nào liên lạc với ông đại sứ để xin phỏng vấn. Trước khi chàng rời Sài Gòn, ông Hoàng đã dặn:

- Như thường lệ, giữa tôi và anh vẫn có thể thức liên lạc đặc biệt. Nếu vì lẽ nào đó, tôi không liên lạc được với anh bằng điện đài, hoặc qua nhân viên sở tại của Sở, tôi sẽ dùng nhân viên sứ quán. Nếu bất cứ nhân viên sứ quán nào dùng những tiếng "sáng mai, 10 giờ" có nghĩa là tôi đã có mặt tại chỗ.

Nghĩa là ông tổng giám đốc đã có mặt ở Vạn Tượng. Ông Hoàng cất công lên vương quốc khỉ ho cò gáy này làm gì? Văn Bình mỉm cười.

5 phút sau, chàng lại gọi xe xuống Đồng Pha Lan.

Lần này, chàng chọn một hộp đêm nên thơ khuất trong hẻm gồ ghề bên những bụi chuối dại um tùm. Chàng không nhìn bảng hiệu, phần vì bảng hiệu nhỏ xíu, đèn bên ngoài lại mờ mờ như dọa tắt, phần khác vì hộp đêm ở Đồng Pha Lan đều na ná như nhau, bảng hiệu không quan trọng bằng thực chất bên trong.

Và Văn Bình đã không thất vọng.

Hầu hết các chiêu đãi viên đều là đầm lai cao lớn, diện mạo đẹp đẽ, núi của tròn trịa, phục sức cũng cỡn và trang điểm thượng lưu. Hộp đêm này thuộc vào loại đài các, dành riêng cho những người kiếm tiền như nước và cũng tiêu tiền như nước.

Thấy chàng ném vào đĩa vàng 18 ca-ra 10 tờ năm trăm để trả tiền chai huýt-ky, cô gái giữ két liếc mắt đưa tình:

- Những 5 ngàn... anh cho nhiều quá.

Văn bình mỉm cười:

- Đúng ra phải trả bao nhiêu?

- Ba ngàn.

- Ồ, như vậy 5 ngàn còn ít. Tặng thêm 5 ngàn nữa cho đủ 10. Bao giờ em hết giờ?

Cô gái xua tay:

- Cám ơn anh. 5 ngàn em cũng từ chối huống hồ là 10. Đây này, em trả lại anh 7 ngàn. Trả thừa cho chủ vô ích vì nó giàu nứt đố đổ vách. Anh cất đi để dùng vào việc khác.

Văn bình nhún vai:

- Biếu riêng em để đi tắc xi.

- Nếu cho em để đi tắc xi thì là quá nhiều. Cuốc xe từ Đồng Pha Lan về nhà em ở Chợ Chiêu chỉ phải trả một trăm bạc mà thôi. Vả lại, em có xe hơi riêng.

- Em lôi thôi quá. Nếu em không đi tắc xi thì dùng 7 ngàn để tiêu vặt.

- Thiên hạ đã đặt tên em là "nữ hoàng tiêu vặt" vì có tiền trong tay em phá mỗi ngày hằng mấy trăm ngàn. Bao nhiêu đối với em cũng còn ít. Với 7 ngàn của anh, em chỉ dùng một phút mà thôi.

- Anh sẽ đưa gấp mười, và nếu em đồng ý anh sẽ đưa gấp trăm nữa.

- Ô, anh định mua em ư?

- Đâu dám. Riêng cái cười của em cũng đáng giá ngàn vàng.

- Em biếu không cho anh đấy. Anh ơi, có người bỏ ra bạc triệu để mua cái cười của em còn không được. Còn anh, em tin là anh còn muốn mua những cái hơn nụ cười một bực nữa. Em biết là anh không giàu bằng người ta nên không đặt điều kiện nặng nề.

- Xin em cho biết điều kiện?

- Yêu cầu anh nghe rõ câu hỏi của em. Anh có hẹn hò với Hồ Ngọc tại đây phải không?

Văn Bình gật đầu.

Nếu ai nhìn kỹ sẽ thấy da mặt chàng hơi tái. Đúng, Hồ Ngọc dặn chàng đến vườn hoa biết nói sang trọng này, song hắn không cho chàng biết kẻ tiếp xúc lại là một kỳ quan trong vườn nhan sắc.

Một thoáng sau, Văn Bình trở lại bình tĩnh - sự bình tĩnh ghê gớm cố hữu - và hỏi gằn giọng thân mật:

- Tên em là gì?

Cô gái lim dim cặp mắt lá răm tình tứ:

- Anh hỏi tên em là vô ích. Vì em có rất nhiều tên. Làm việc tại xóm ăn chơi, chẳng ai dại gì mang tên thật, Anh cũng vậy, em tin rằng anh đã cẩn thận cất tên cúng cơm ở nhà.

- Tên hiện tại của em là gì?

- Đêm nay, em lấy tên Lan. Margot Lan. Em là đầm lai, anh quên rồi ư? Đầm lai chính hiệu, cha Pháp, mẹ Việt, sống lâu năm ở Lào. Vả lại, anh không nên biết tên em thì hơn.

- Em là nhân viên của Hồ Ngọc?

- Không đúng. Em là nhân viên của Đồng Pha Lan thì đúng với sự thật hơn. Người ngoại quốc ở Vạn Tượng có việc kín đáo thường chọn nhà hàng này làm nơi gặp gỡ, điều đình. Hồ Ngọc trả cho em 500 đô la, dặn chờ anh và nói với anh rằng lát nữa họ đến.

- Lát nữa là mấy giờ?

- Độ một giờ nữa.

- Họ là ai?

- Em không biết. Nếu biết em cũng giả vờ như không biết. Ở khu dạ lạc này, kẻ biết nhiều thường yểu mạng, anh ạ. Em thích sống như điên, em chẳng dại gì mở miệng để bị quăng xuống sông Cửu Long. Dạo này, nước dâng cao, hễ rớt xuống là mất xác.

- Anh chờ họ ở đây?

- Tại đây. Phía sau có nhiều phòng riêng cho khách thuê giờ. Em đã lấy sẵn phòng cho anh. Thuê trọn đêm nay.

- Trời ơi, ở đó một mình thì buồn chết.

- Chỉ có một giờ đồng hồ thôi mà...

- Em quên rằng một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây, mỗi giây tương tự đối với anh là một thế kỷ, anh không thể nào đỏ mắt chờ mong suốt 3600 thế kỷ được.

- Gớm, nghe anh nói, em cứ tường anh là nhà văn.

- Đích thị. Nghề anh là thông tín viên quốc tế.

- Thảo nào anh nói ngọt như đường Cuba.

- Cũng chưa ngọt bằng giọng nói của em.

- Anh làm em thẹn chín mặt. Em xấu lắm, anh ạ. Xấu nhất xóm Đồng Pha Lan đấy.

- Dưới mắt anh, em lại là hoa hậu thế giới trọn đời. Giá hoa hậu thế giới đừng bắt kẻ bạc phước này chờ đợi 3600 thế kỷ thì vạn hạnh biết bao...

- Vâng, em xin sẵn lòng. Nhưng anh không được giữ em ở lại lâu đâu. Mụ chủ không bằng lòng. Xin anh nhớ rằng em không giống người khác. Em chưa từng vào phòng với khách, dầu trả em một triệu kíp.

- Anh xin trả em một triệu cái hôn.

Cô gái ưỡn ẹo rời quầy két, chìa tay cho Văn Bình nắm. Bàn tay búp măng của nàng mát rơi và say sưa như ly huýt-ky pha đá vụn uống giữa trưa hè nóng bức.

Nàng xô màn cửa, dẫn chàng vào một hành lang hẹp, đèn thắp lờ mờ huyền ảo.

Tứ phía hoàn toàn vắng vẻ. Margot Lan đi một bên, mông nàng đụng vào tay chàng. Bồi hồi, chàng ôm chầm lấy nàng, tìm đôi môi chín mọng. Nàng đẩy ra nhè nhẹ:

- Anh tham lam kinh khủng. Trong vòng một phút nữa, anh sẽ được tự do, em không ngăn cấm anh đâu.

Văn Bình đặt tay lên ngực nàng:

- Hừ, linh tính anh rất nhạy bén. Anh có linh tính là thời giờ rất gấp rút. Anh cần phải hôn em ngay bây giờ, nếu không...

Cửa phòng được mở hé. Margót Lan nhường cho Văn Bình vào trước.

Quả thật, linh tính của chàng rất nhạy bén. Chàng vừa thò cổ vào phòng thì một ngọn roi da không biết từ đâu giáng xuống làm chàng tối tăm mặt mũi.

Tuy ngọn roi quất mạnh, Văn Bình vẫn không bị bất tỉnh. Chàng còn có thể xuống tấn, phóng ra ngón atémi phản công.

Song lẽ, chàng cảm thấy nên ngã lăn xuống sàn nhà và thiếp đi một lát. Nghĩ vậy, chàng khuỵu chân, loạng choạng một giây rồi nằm sóng soài trên tấm thảm cói màu đỏ tươi, hai mắt nhắm nghiền.

Đèn trong phòng bật sáng như ban ngày.

Văn Bình ra phòng ăn, kéo ghế, gọi ly cà phê đá, món uống thông thường của lữ quán. Lát nữa.

Trong phòng giấy của đại tá Trần Chương, tại toà đại sứ Bắc Việt, đèn điện cũng sáng như ban ngày.

Ánh đèn rực rỡ nhảy múa trên nòng súng To-karev bóng loáng trên tay đại uý Phạm Nghị.

- Giơ tay lên... giơ tay lên, còn khệnh khạng gì nữa.

Một trong những mánh khoé đoạt súng cố hữu của Trần Chương là giả vờ khệnh khạng để ước lượng vị trí của đối phương. Cũng là nhân viên tình báo cấp cao, từng tốt nghiệp nhiều khoá huấn luyện đặc biệt của Smerch về phương pháp phản công nên Phạm Nghị đã đoán trước những động tác xảo nguyệt của Trần Chương.

Giọng dấm dẵn, Phạm Nghị nói tiếp:

- Đồng chí đại sứ đã giơ tay lên rồi, bây giờ đến lượt đồng chí tuỳ viên quân sự. Đồ khốn nạn... đây là lần cuối cùng các anh được tôi gọi là đồng chí.

Lê Văn Hiến cố giữ nét mặt thân thiện.

- Phạm Nghị, anh làm gì thế? Chúng ta đều là đồng chí... Anh điên rồi ư?

Phạm Nghị cười nửa miệng:

- Điên? Có lẽ tôi vừa mắc bệnh điên... Anh Hiển ơi, từ trước đến nay, tôi vẫn dùng "ông" cung kính đối với anh, vì chưa biết anh là kẻ lòng dạ lang thú. Tôi hy sinh thân thể không phải để được đối xử táng tận lương tâm như ngày hôm nay...

Trần Chương cướp lời, giọng khô khan:

- Phạm Nghị, anh là nhân viên thuộc cấp. Dầu sao tôi là đại tá còn ông Lê Văn Hiến là đại sứ, Anh nên giữ gìn lời ăn tiếng nói.

Phạm Nghị xoạc chân trong cử chỉ thách thức:

- Từ nhiều tuần nay tôi luôn luôn giữ gìn lời ăn tiền nói, luôn luôn tôn trọng tôn ti trật tự, nhưng bây giờ thì hết rồi... Chức vụ đại tá và đại sứ của bọn anh lớn thật song chưa lớn bằng tính mạng của tôi. Các anh dùng tôi như múi chanh, vắt kiệt nước thì vức vào xọt rác. Miễn cưỡng tôi phải tự vệ... tôi phải giết các anh.

Trần Chương tiến lên thêm một bước:

- Yêu cầu anh bình tĩnh lại. Chúng tôi không hề nghĩ đến việc hại anh. Chẳng qua anh hiểu lầm.

Giọng Phạm Nghị trở nên gay gắt:

- Hiểu lầm ư? Bọn anh hiểu lầm tôi thì đúng hơn. Bọn anh tưởng tôi là hòn bột, muốn nặn thành hình thù nào cũng được. Lầm to rồi, tôi núp nghe bên ngoài nên đã hiểu rõ từ đầu đến cuối. Anh đừng nhiều lời vô ích, khầu súng này đã nạp đạn sẵn sàng, tôi đã sẵn sàng bắn vào tim anh.

Tuy nhiên, trước khi hạ thủ, tôi cần nói đôi lời cho bọn anh khỏi ấm ức khi xuống chầu Diêm chúa: lát nữa đây, tôi sẽ lái xe đến sứ quán Nam Việt, tường thuật âm mưu của bọn anh.

- Hừ, họ sẽ giết anh như giết con kiến.

- Anh lại lầm to lần nữa, hoặc giả anh cố tình lầm to để phỉnh phờ tôi như đã phỉnh phờ từ bao lâu nay. Một trong những nhiệm vụ nòng cốt của phản gián Nam Việt ở Vạn Tượng là thâm nhập toà đại sứ để lôi kéo nhân viên. Họ sẽ trả thật nhiều tiền cho ai theo họ, và cung cấp cho họ những tin tức bí mật.

Về phần tôi, tôi có thể cho họ biết nhiều bí mật động trời. Họ sẽ cấp cho tôi một sổ thông hành mang tên giả, và tôi sẽ bay ù sang Âu châu để lập lại cuộc đời.

Lê Văn Hiến hạ một tay xuống:

- Anh Phạm Nghị, tôi với anh không xa lạ gì nhau... Anh đừng nên nóng nảy...

Phạm Nghị bóp cò. Đoàng, viên đạn bay vèo qua tai Lê Văn Hiến. Giọng nói của Phạm Nghị rít lên:

- Không được buông tay. Đây là phát đạn cảnh cáo. Lần sau tôi sẽ bắn vào bụng.

Tuy vậy, Phạm Nghị không bao giờ có cơ hội bắn phát thứ hai nữa. Vì đại tá Trần Chương đã lợi dụng những phút đối thoại với Phạm Nghị để thu ngắn khoảng cách. Đến khi lọt vào tầm độc cước của hắn, Trần Chương mới phóng chân ra, phản công nhanh như điện xẹt.

Ngọn cước trúng cổ tay Phạm Nghị, khẩu To-karev ngoan ngoãn rơi xuống nền nhà.

Thế là hết.

Trần Chương tiến lên, quạt bàn tay rắn như đá vào mặt Phạm Nghị. Mất súng, Phạm Nghị đã mất luôn yếu tố chiến thắng. Song hắn vẫn chưa chịu mất tin tưởng. Có lẽ vì hắn cảm thấy đủ sức chống trả những miếng đòn vũ bão của Trần Chương. Nhưng cũng có lẽ vì hắn đã đến bước đường cùng, đánh đỡ thục mạng để tìm huyết lộ.

Hắn nghiêng người tránh đòn rồi nhảy chéo qua bên phải. Bình hoa hồng cẩm nhung chỉ cách Phạm Nghị một xải tay.

Bình hoa này bằng pha lê, gửi mua tận Tiệp Khắc. Không còn khẩu To-karev dũng mãnh, Phạm Nghị sẽ dùng bình hoa làm khí giới. Nhanh như cắt, hắn vờ lấy bình hoa, hắt những bông hồng mơn mởn xuống đất, nước bắn tung toé, rồi lùi dần, lùi dần.

Đại tá Trần Chương bật lên chuỗi cười khanh khách.

Bàn tay chuối mắn xoè ra, Trần Chương lừ lừ rượt theo. Phạm Nghị xoay nửa vòng, giáng bình pha lê xuống. Thế võ này có thể triệt hạ nhiều võ sư nhu đạo lành nghề.

Nhưng Trần Chương lại là tinh hoa của võ lâm quốc tế nên bình hoa lao vào khoảng không. Trần Chương tung bàn chân trái ra. Phạm Nghị ngã nhào xuống đất.

Trần Chương nhảy tới, ngón tay chĩa tua tủa, hạ độc thủ. Bị đánh vào tử huyệt trên mặt, Phạm Nghị chỉ kêu được một tiếng ái ngắn ngủi rồi nằm thẳng đơ trên tấm thảm đắt tiền.

Trần Chương xoa tay nói với ông đại sứ Lê Văn Hiến:

- Thế là xong. Bây giờ tôi đi gặp họ. Đồng chí hãy tin ở tôi. Nhất định chúng ta sẽ thành công.

Vẻ mặt tư lự, như từ nãy đến giờ chưa có chuyện quan trọng xảy ra, Lê Văn Hiến mở cửa sổ nhìn xuống vườn. Tuy trời tối, hắn vẫn nhìn thấy những bông hồng và thược dược khhoe sắc trên luống đất mới sới. Mùi hoa thơm nhẹ theo gió bay lên.

Hắn đứng thẳng như pho tượng, không quay lưng lại để thấy đại tá Trần Chương nhanh nhẹn bước ra ngoài, và cũng không nghe tiếng giầy quen thuộc im dần trong bóng đêm mù mịt.

Trần Chương thu ngọn roi da lại, tay chống nạnh, thản nhiên nhìn người đàn ông vạm vỡ, khuôn mặt nghiêm nghị nhưng đa tình lạnh lùng, đang oằn oại trên nền nhà.

Người đàn ông bị đánh ngất này là Văn Bình, tức Z.28 của sở Mật vụ Sài Gòn.

Hơn ai hết, Trần Chương đã biết đối thủ là Văn Bình, kẻ mà cơ quan gián điệp cộng sản thi đua hạ sát cho bằng được. Nếu cần hạ sát, hắn chỉ phải cúi xuống, phóng atémi vào tử huyệt. Ngón tay được tập luyện công phu của hắn đủ cứ chế ngự được con sư tử dữ nhất Phi châu. Song hắn chỉ đánh rất nhẹ, cốt cho đường roi trệch ra ngoài. Theo ước tính, nạn nhân chỉ bất tỉnh trong vài ba phút rồi tỉnh dậy.

Tuy nhiên, Văn Bình không bất tỉnh như Trần Chương dự liệu. Chàng chỉ hơi choáng váng vì miếng đòn đột ngột và chỉ cần nửa phút đồng hồ để phục hồi sinh lực. Chơi trò ú tim với Trần Chương, chàng nằm thẳng đơ, không động đậy.

Trần Chương giật tóc mai gọi:

- Hoàng Lương, anh Hoàng Lương...

Đợi Trần Chương gọi đến lần thứ mười, chàng mới từ từ hé mắt. Trần Chương đỡ chàng ngồi dậy. Chàng rờ gáy, giọng mỏi mệt:

- Anh là ai?

Trần Chương đáp:

- Người mà anh đợi.

- À, Hoài Thanh. Phải, chúng mình có hẹn với nhau. Tại sao anh lại đánh lén tôi.

- Xin anh tha lỗi. Tôi cần kiểm điểm xem anh có thật là Hoàng Lương không.

- Hừ, giá anh mạnh tay chút nữa thì hết cả kiểm điểm. Có lẽ tôi cũng phải hạ anh đo ván để kiểm điểm lại căn cước của anh.

Trần Chương móc túi lấy giấy tờ vứt xuống sàn, giọng bực bội:

- Đây, chứng minh thư của tôi, anh tha hồ nghiên cứu. Nếu tôi không lầm, anh đã biết rõ diện mạo của tôi, khỏi cần coi giấy tờ.

Đến lượt Văn Bình đấu dịu:

- Tôi nói đùa đấy, anh đừng đề bụng. Chẳng là vì anh đón tiếp tôi một cách hơi bất thường nên tôi bất bình, thế thôi. Tính tôi hay cằn nhằn với bạn thân, tôi bất bình vì coi anh là bạn thân. Vì dầu sao anh và tôi chung lập trường.

Trần Chương lắc đầu:

- Anh lầm rồi. Lập trường của anh và tôi hoàn toàn khác nhau. Sở dĩ tôi gặp anh là để thương lượng. Thương lượng về việc gì, anh đã biết rõ.

- Vâng, tôi xin nói ngắn lại để tiết kiệm thời giờ. Vì, theo chỗ tôi hiểu, thời giờ của chúng ta rất eo hẹp. Người ta phăng ra thì nguy. Bề ngoài tôi là Hoàng Lương, thông tín viên báo buổi trưa xuất bản tại Sài Gòn, nhưng thật ra tôi là đặc phái viên của ông Hoàng... Tôi đích thân từ Vọng các sang đây theo lời yêu cầu của Sulô. Sulô cho biết anh đang bị đại sứ Lê Văn Hiến làm khó dễ. Nhân danh chính quyền Nam Việt, tôi sẵn sàng...

- Trong trường hợp tôi nhận lời, tôi sẽ phải làm gì?

- Như anh đã biết, trong thời gian đầu tiên, tạm định là sáu tháng, anh sẽ cung cấp cho chúng tôi một số tin tức tình báo. Sau đó, anh sẽ lưu lại hợp tác với chúng tôi ở cơ sở Trung ương, hoặc chúng tôi cấp thông hành giả cho anh ra nước ngoài sống kín đáo, dĩ nhiên với sự trợ cấp của chúng tôi.

- Vâng, tôi xin đồng ý. Tuy nhiên, còn một vấn đề nữa là, có lẽ không quan trọng lắm đối với sở Mật vụ Sài Gòn, song lại rất quan trọng đối với một cá nhân nhỏ bé, thiếu phương tiện như tôi.

- Vấn đề tài chính?

- Vâng, Sulô nói rằng ông Hoàng hứa thưởng một số tiền lớn vào khoảng nửa triệu đô la.

- Thưởng tiền là chuyện dĩ nhiên. Song có lẽ anh nghe lầm. Ông Hoàng chưa bao giờ hứa nửa triệu đô la.

- Ồ, nếu thế thì.

- Anh muốn rút lui ư? Việc này hoàn toàn do anh quyết định, nếu anh từ chối, tôi sẽ để anh ra về tự do và long trọng cam kết không tiết lộ cho thượng cấp của anh biết. Nhưng theo thiển ý, anh không nên từ chối thì hơn. Anh đang bị đại sứ Lê văn Hiến và đại uý Trần Chương trù ếm, mai kia về Hà Nội anh sẽ nguy hại đến tính mạng. Hợp tác với chúng tôi giá không được đồng nào cũng đã lợi cho anh rồi, phương chi còn có tiền thưởng. Anh nghĩ lại đi...

- Ông Hoàng định cho tôi bao nhiêu?

- Hai triệu bạc Việt Nam là tối đa. Tính ra đô la ngón nghét hai chục ngàn rồi.

- Trời ơi, ít quá.

- Tuỳ anh...

- Tôi như kẻ sắp chết đuối, không thể nào từ chối, xin anh thông cảm. Giá anh đề nghị lại với ông Hoàng.

- Đó là việc sau. Bây giờ chỉ có thể đưa anh hai triệu. Anh lên đường ngay được không?

- Không được. Vì còn Thiên Hồng, vợ chưa cưới của tôi.

- Tại sao họ cho phép anh rời sứ quán?

- Lê Văn Hiến và Trần Chương đi dự tiếp tân vắng tại tòa đại sứ Trung Quốc. Thiên Hồng nhờ tôi ra phố mua sắm một vài món đồ vặt vãnh, tôi kiếm cớ lẻn đến đây. Vả lại, họ đang đối xử với tôi một cách hậu hĩ vì tin tưởng là Thiên Hồng thuyết phục được tôi.

- Họ không sợ anh trốn ư?

- Không. Thiên Hồng được giữ lại làm con tin. Hơn nữa, họ thừa biết tôi là người không thể nào đầu hàng đối phương. Đề nghị với anh, đêm nay, tôi sẽ tìm cách gây hoả hoạn trong sứ quán rồi vượt tường trốn ra bằng lối sau. Yêu cầu anh mang xe đợi tôi. Tôi sẽ dùng đèn bấm làm hiệu. Hy vọng chúng tôi được thoát nạn, nếu không...

- Yên tâm. Tôi cố gắng bảo vệ cho anh và Thiên Hồng, miễn hồ ở bên ngoài toà nhà sứ quán. Khi cần, tôi cũng không ngần ngại đột nhập. Thôi chào anh. Anh có tin là nhân viên của Trần Chương đang theo dõi anh không?

- Có thể có, cũng có thể họ thả lỏng cho tôi để tìm đầu mối. Nếu nhân viên của họ phăng ra anh và báo cáo về thì cũng đến mai họ mới đọc tới, khi ấy tôi đã biệt tích. Hân hạnh được cộng tác với anh... Hẹn anh lát nữa...

- Chào anh hoài Thanh...

Văn Bình lẳng lặng nhìn người đàn ông lạ đi khuất sau hành lang. Margot Lan lững thững bước vào. Thấy chàng, nàng ôm ghì lấy, hôn vào môi, dáng điệu say đắm như là người yêu thật thụ và từ lâu chưa được gặp.

Chàng kéo nàng ngồi xuống giường, giọng tha thiết.

-Em đã đánh lừa anh.

Margot Lan bịt miệng chàng:

- Vì vậy em phải đến với anh để tạ tội. Em chỉ có thể ở lại nửa giờ là lâu nhất. Anh ơi, lát nữa chúng mình xa nhau, em không biết anh là ai, và anh cũng không biết em là ai.

- Anh biết em là Margot Lan.

- Trên cõi đời này có hàng ngàn Margot và hàng ngàn Lan. Đàn bà đều giống nhau như giọt nước, tuy nhiên, em hy vọng là anh sẽ tìm thấy nơi em một sự khác biệt. Em không dám cầu mong viễn công chỉ hy vọng là anh mang mãi kỷ niệm đêm nay vào lòng.

Văn Bình liếc nhìn đồng hồ tay.

Còn sớm chán. Chàng còn đủ thời giờ để hẹn hò với người đẹp.

Xa xa, vẳng lại tiếng thầm thì ân ái của xóm thanh lâu quốc tế bí mật Đồng Pha Lan.

Đêm đã khuya lắm.

Đúng theo lời hẹn, Văn Bình lái xe đến gần phi trường Wattay thì quẹo vào một con đường ngoằn ngoèo tối om. 3 phút sau, chàng rẽ sang tay phải.

Trước mặt chàng, toà biệt thự đồ sộ và kín đáo của đại sứ Lê Văn Hiến đứng sừng sững trong bóng tối. Tuy không ánh đèn nào lọt ra ngoài, Văn Bình biết rằng nhân viên sứ quán Bắc Việt đang thức. Đêm nào, họ cũng thức đến sáng. Để tránh những cặp mắt tò mò của dân chúng, và nhân viên điệp báo Tây phương, cửa sổ đều được che rềm kín mít, đèn điện được lồng trong những cái chao bằng cạt-tông đen dầy cộm, và dài lòng thòng.

Trong căn phòng quen thuộc đầy hoa hồng và thược dược, đại tá Trần Chương đang hoàn tất những chi tiết, hành trình cuối cùng với đại sứ Lê văn Hiến.

Vẻ mặt của Trần Chương trở nên nghiêm trọng một cách lạ lùng. Hắn nắm tay Lê Văn Hiến:

- Đồng chí đã lo liệu xong vụ phòng thủ trên mái nhà chưa?

Lê Văn Hiến đáp:

- Xong rồi. Hồi tối, tôi đích thân thay các băng đạn trung liên bằng đạn mã tử. Hai nhân viên xạ thủ được tôi mời uống cà phê pha thuốc loạn hồn. Giờ này, chân tay chúng đã rã rời, mắt cũng toé đầy đom đóm vàng đỏ, chúng chẳng còn nghe, còn thấy gì nữa hết. Dầu chúng có sức khoẻ như voi nan, cưỡng lại được công dụng của thuốc và bắn trúng mục tiêu, thì băng đạn mã tử kia cũng không giết nổi đàn ruồi. Tôi đã bố trí hết sức chu đáo để nếu địch có tai mắt gần đây cũng không thể ngờ vực được là chúng ta dàn cảnh.

Đại tá Trần Chương mỉm cười sung sướng.

Khi ấy là 12g 15p.

Ngoài xe, trên con đường vắng vẻ, tối om, bị che khuất bởi nhiều bụi dăng dầy và thân cây cổ thụ rườm rà, Văn Bình vừa hút xong điếu Salem thần tiên. Đó là điếu thuốc bạc hà đầu tiên từ lúc chàng từ giã Đồng Pha Lan tới sứ quán Bắc Việt.

Ngần ngừ mãi chàng mới rút gói thuốc ra, lấy bàn tay khum lại như ống loa để che lửa, rồi ngả đầu vào ghế, say sưa rít từng hơi khói dài khoan khoái. Vì gió ngược, chàng không sợ người lạ ngửi được hơi khói thơm tho. Vả lại, Vạn Tượng là thiên đường của đệ tử Phù dung, ngày cũng như đêm, nhất là đêm, bầu không khí thành phố sực nức mùi thơm của á phiện nướng lèo sèo trên đèn dầu phụng.

Tòa nhà đối diện vẫn chìm ngập dưới bóng tối dầy đặc. Văn Bình lim dim cặp mắt, nhớ tới những người đẹp đang trằn trọc giờ này trên giường, tâm trí hướng về chàng. Có người cảm thấy lạnh lùng kinh khủng, như trời trở lạnh đột ngột, mặc dầu thời tiết Sài Gòn nóng như lò nướng bánh, và hốt hoảng ôm cái gối vào lòng, toàn thân run lẩy bẩy. Có người vùng vẵng quay mặt vào tường, không thèm để ý đến lời nịnh nọt dỗ dành, van vỉ. Có người tung mền ngồi dậy, uống thêm một viên thuốc cực mạnh để chấm dứt cơn thức cô đơn. Và cũng có người lại tung mền ngồi dậy nhưng lại pha vội ly cà phê đặc đầy ắp, và đen kịt để uống cho khỏi ngủ, để được thức đến rạng đông, dành những ý nghĩ đẹp nhất trong lòng cho chàng... cho văn Bình yêu quý.

Văn Bình lắc đầu nhiều lần như muốn gạt bỏ tư tưởng xốn xang trong óc. Chàng vừa nghĩ đến Simon. Giờ này, nàng đang lang thang trong khu Đồng Pha Lan, đỏ mắt tìm chàng.

Chàng lại nghĩ tới ông Hoàng. Chàng buột miệng:

- Hừ, ông già vớ vẩn này khệnh khạng lên Vạn Tượng làm gì?

Bỗng nhiên, màn đêm u uất bị xé toang. Trước mắt, lửa nổi lên rần rần.

Giờ ấy, ngoài Văn Bình ra, còn có nhiều người thấy ngọn lửa đỏ ối trong toà đại sứ Bắc Việt.

Một trong những người này là ông Hoàng, tổng giám đốc Mật vụ, mà Văn Bình vừa mệnh danh là "ông già vớ vẩn". Trái với sự nhận định vụng trộm của Văn Bình, ông tổng giám đốc không hề vớ vẩn chút nào. Trái lại, ông vẫn sáng suốt.

Và có lẽ còn sáng suốt hơn trai tơ cường tráng.

Có lẽ còn sáng suốt hơn điệp viên Văn Bình, Z.28 nữa là khác.

Giờ này, ông Hoàng đang ở trên lầu ba của một toà biệt thự xây cất chưa xong, cách sứ quán Bắc Việt hai trăm thước, trên đường từ trung tâm thành phố đi phi trường Wattay.

Dưới vườn, ngoài hành lang, trong phòng, không một ánh đèn. Ông tổng giám đốc Mật vụ là người cần đèn hơn ai hết, vì từ nhiều năm nay, ngày cũng như đêm, ông đều trầm mình trong ánh đèn đề nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị kế hoạch, ấn định chiến thuật hoạt động cho hàng trăm điệp viên dưới quyền đồn trú trên khắp thế giới.

Đêm nay, ông phải tắt đèn đề bào vệ bí mật. Qua cửa sổ mở hé, ông nhìn về hướng đông, nơi tọa lạc tòa đại sứ Bắc Việt.

Ống viển kình hồng ngoại tuyến tối tân của hãng Zeiss đen trên cặp mắt cận thị nặng đã giúp ông nhìn rõ như ban ngày. Ông thấy rõ lá cờ vàng sao đỏ năm cánh, rộng bằng cái chiếu Phát diệm, bay phơ phất trước cơn gío mạnh từ rừng bên thổi tới.

Tuy ở xa, ông cảm tưởng là nghe rõ tiếng vải kêu sột soạt, thậm chí ông còn nghe rõ cả tiếng chân người dẫm nhè nhẹ trên thảm cối và tiếng thì thầm.

Vì thật ra, ông đã có một vành tai bén nhạy, cực kỳ bén nhạy, trong pháo đài khét tiếng bất khả xâm phạm của Lê Văn Hiến. Vành tai này là một dụng cụ điện tử tinh vi do công ty Continental ở Hoa kỳ chế tạo riêng cho sở Mật vụ Việt Nam.

Đặt ống nhòm xuống thành cửa sổ, ông Hoàng mỉm cười. Một tia lửa đỏ ối vừa bay vút khỏi nóc nhà đối diện. Ông xoa tay, trịnh trọng cắt điếu xì gà Ha-van. Ông hút xì gà như một số người Mỹ nhai kẹo cao su, nghĩa là hút luôn miệng. Từ chập tối đến giờ, công việc quá bận rộn, và quá hệ trọng không cho ông có đủ thời giờ châm thuốc nữa.

60 phút trước, một chiếc Opel đen sì như củ súng đưa ông vào tòa nhà cô đơn. Xe không mở đèn mặc dầu trời tối không thua đêm củ mật. Máy xe nổ im ru, nhờ được gắn hai ống sắp-măng đặc biệt. Loại "bô" hãm phanh này của hãng Abrth, nổi danh ở Ý đại lợi, có thể biến tiến máy rú dữ dằn của một trăm mã lực thành tiếng thì thầm nho nhỏ.

Tài xế lượn qua những đống gạch gỗ lộn xộn, dáng điệu quen thuộc như chủ nhân, rồi chui vào ga-ra. Nửa phút sau, cửa ga-ra sập xuống, ông Hoàng từ tốn bước ra khỏi xe, mở cửa hông, lên nhà trên.

Biệt thự không có thang máy nên ông phải nghỉ nhiều lần trên cầu thang bê tông, thở phì phò, trước khi lên tới lầu ba. Năm ngoái, nhân một cuộc khám sức khẻo, y sĩ riêng đã cảnh cáo ông rằng ông mắc bệnh đau tim, không nên trèo thang lầu, và ông nên dưỡng sức một thời gian nếu không sẽ nguy hại đến tính mạng. Ông ầm ừ như không nghe lời. Ông tự nghĩ không còn sống thêm bao lâu nữa.

Giá hoàn thành được công tác Vạn Tượng rồi nhắm mắt ông cũng bằng lòng... Vì đây là công tác mà ông lấy làm thích thú nhất. Thích thú nhất vì đối phương đã bị ông cho vào xiếc dễ dàng như trở bàn tay. Thích thú nhất vì Văn Bình, điệp viên số một của ông, cũng bị ông cho vào xiếc...

Cùng đi với ông là một thanh niên cao lêu nghêu, vẻ mặt lì lợm, và một thiếu nữ đẹp lạ lùng. Chàng sếu vường này là Lê Diệp. Còn cô gái không phải là Nguyễn Hương, nữ bí thư có nhan sắc nghiêng nước, nghiêng thành, vị hôn thê không bao giờ cưới của Văn Bình, luôn luôn ở bên ông như bóng với hình.

Lê Diệp dừng lại hỏi nhỏ:

- Ông mệt rồi. Ông để tôi cõng ông lên lầu tiện hơn.

Ông Hoàng gạt phắt:

- Không sao. Để tôi vận động một chút cho mạch máu lưu thông. Lâu ngày ở trong văn phòng, gân cốt của tôi đã rỉ sét hết.

Thiếu nữ phá lên cười. Lê Diệp suỵt:

- Đừng cười cô. Họ nghe được thì hỏng bét.

Ông Hoàng nói:

- Ồ, mình ở xa họ gần nửa cây số. Trừ phi họ đặt máy ghi âm trong nhà này thì mới nghe được...

Ba người đã lên tới hành lang lầu ba. Lê Diệp mở cửa phòng, kéo ghế cho ông Hoàng ngồi. Ông hoàng hỏi cô gái:

- Anh ấy đến chưa?

Cô gái đáp:

- Thưa rồi. Lúc nãy, xe vào, tôi thấy anh ấy ngồi núp sau đống gạch. Ông yên tâm. Anh ấy quen thuộc toà nhà này như nhà riêng vậy. Tài xạ thủ cũng không đến nỗi thua ai. Với hai xạc-giơ đạn thuốc mê trong súng hãm thanh, anh ấy có thể triệt hạ một trung đội võ trang cực mạnh. Công an Lào không bao giờ léo hảnh đến đây. Còn họ thì chắc chắn là không bao giờ ngờ tới. Văn bình khôn ngoan, tài giỏi như vậy mà còn không biết, nữa là...

Ông Hoàng quay sang Lê Diệp:

- Anh nhớ hết chưa?

Lê Diệp đáp:

- Tôi có thể đọc lại, không sai một dấu chấm phết.

- Trước khi anh bắt tay vào việc, tôi cần nhắc lại một vài điều căn bản. Khỏi cần giải thích dài dòng, anh đã hiểu tại sao tôi lại cất công lên đây với anh. Vì công tác của ta có thể thay đổi vào giờ chót. Cho đến phút này, ta có thể nói là đã thành công được non nửa. Phần còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào anh.

Thường lệ, không ai lọt được vào toà đại sứ Bắc Việt. Nhưng, đêm nay, tôi tin là mọi việc sẽ bớt phức tạp hơn nhiều. Bên trong hàng rào, họ còn hàng rào thép gai thứ nhì, cao gần bốn thước, luôn luôn truyền điện 320 vôn. Chạm vào sẽ té ngã, đồng thời chuông báo động reo lên. Tuy nhiên, đêm nay, họ phải cúp điện. Thứ nhất, vì có hoả hoạn. Thứ hai, vì nhân viên của họ cần vượt tường trốn ra.

Như vậy, anh có thể nhảy vào vườn dễ dàng, sau khi ngọn lửa đầu tiên nổi lên. Anh nên nhớ kỹ điều này: bốn hướng đông, tây, nam, bắc đều có bãi mìn, loại mìn muỗi rất nhạy, đụng nhẹ là nổ tung. Ban ngày, bãi mìn được chê kín bằng chướng ngại vật, tối đến, những chướng ngại vật này được dẹp bỏ, biến sứ quán thành một pháo đài kiên cố.

- Thưa, theo toạ độ, tôi sẽ đột nhập bằng hướng đông, sau lưng sứ quán trong một hành lang rộng hai thước. Tôi mang loại giày đặc biệt số 743 của Sở, có tác dụng chống mìn.

- Anh nên thận trọng. Giày 743 được gắn ở mũi một bộ phận điện tử, có thể đánh hơi thấy mìn. Cách trái mìn 20 phân, nó sẽ phát ra luồng điện 30 vôn làm bàn chân anh rung rung, giúp anh có thời gian bước sang chỗ khác.

Vượt khỏi bãi mìn, anh mới thắng được một phần mười mà thôi, vì anh phải lẻn vào nhà sau, trèo cầu thang cấp cứu lên lầu, vào phòng Trần Chương. Tôi hy vọng anh không gặp ai. Nếu gặp, anh phải đối phó ngay, kín nhẹm và thần tốc. Khầu súng thuốc mê của ta rất hiệu nghiệm, trúng đạn là gục ngã lập tức.

Sau khi lọt vào phòng Tần Chương, anh chỉ có từ 2 đến 4 phút, anh ráng thực hiện kế hoạch trong khoảng thời gian đã định.

- Tôi xin nhớ.

Lê Diệp lặng lẽ xuống lầu.

Trong phòng chỉ còn lại ông Hoàng và thiếu nữ bí mật. Ông Hoàng ngoắt tay, cô gái từ từ lùi ra hành lang.

15 phút sau, ông Hoàng ra cửa sổ, dùng ống viễn kính chiếu sang sứ quán Bắc Việt, rồi ông điền nhiên ngồi hút xì gà Ha-van.

Khác mọi lần, ông Hoàng không mặc bộ âu phục cũ kỹ, và sờn chỉ bất hủ. Có lẽ là lần đầu ông cải trang: sơ mi ngắn tay xanh thẫm bỏ ngoài quần, chân dận giày đế cao su êm ru, đầu đội cát-kết đen, xùm xụp xuống tận mắt.

Cái hộp hình chữ nhật như hộp bích quy Lu trên bàn phát ra tiếng tút tít quen thuộc. Ông Hoàng giật mình, nhỏm dậy, bấm nút:

- Tôi nghe đây.

Hộp này là hệ thống walkie-talkie tối tân, liên lạc trực tiếp giữa ông Hoàng và Lê Diệp, trên một tần số bí mật, các máy nghe khác không bắt nổi.

Tiếng nói khàn khàn của Lê Diệp cất lên trong văn phòng vắng vẻ:

- Thưa, lửa đã cháy rồi, tôi đang ở trong phòng Trần Chương. Tuyệt nhiên không gặp ai hết.

- Tủ sắt ra sao?

- Kiểu ZV-917-H của Tiệp Khắc.

- Kích thước?

- Cao 1th85, ngang 75ph, sâu 60ph. Gồm hai ống khoá.

- Thế thì may. Đó là kiểu 1952 có ba vỏ thép và vỏ khí bí mật. Anh cắt dây điện chưa?

- Rồi. Tôi sợ còn một đường dây thứ hai nữa. Hiện tôi đang tìm.

- Không. Loại 1952 này chỉ có một đường dây mà thôi. Anh bắt đầu mở đi. Cẩn thận: vặn từ phải sang trái, ngược chiều kim đồng hồ.

Ông Hoàng nghe tiếng lách cách. Tuy không thấy mặt Lê Diệp song ông Hoàng đã đoán biết chàng sếu vườn đổ mổ hôi đầy mình, mắt dán vào ổ khoá mạ kền sáng loáng, chứa đựng cạm bẫy hiểm hóc.

Lê Diệp là chuyên viên mở tủ sắt, cũng như Văn Bình, và các điệp viên thượng thặng quốc tế. Nhưng tủ ZV-917-H này thuộc vào loại tối tân, khó mở nhất, nên ông Hoàng phải trực tiếp điều khiển bằng làn sóng điện.

Ông Hoàng biết được những bí mật ghê gớm của tủ ZV là do sự hợp tác chặt chẽ giữa sở Mật vụ Việt Nam và trung ương Tình báo Hoa kỳ, CIA. Cơ quan CIA gài được nhân viên torng xí nghiệp quốc doanh chế tạo tủ sắt ZV ở Tiệp Khắc. Mỗi quốc gia trong khối Nga-Hoa đặt làm một tủ loại riêng. ZV nghĩa là dành cho Bắc Hàn và Bắc Việt, 917 là mật số về ổ khoá, và H là mật số về hệ thống phòng thủ.

Nhân viên CIA chụp lén được bản mật số về ổ khoá và hệ thống phòng thủ két sắt, và chuyển bản sao cho ông Hoàng. Tuy nhiên, ông Hoàng còn phải khắc phục trở ngại cuối cùng nữa mới hy vọng mở được tủ két, đó là tìm ra chữ số của ổ khoá thứ ba. Hai ổ khoá thứ nhất có thể mở dễ dàng, nhờ chìa được rèn sẵn.

Nhưng còn ổ khoá chữ số...

Ông Hoàng đã giải quyết khó khăn này một cách hoàn toàn khoa hoc: trong văn phòng của Trần Chương, ông cho người đặt lén một dụng cụ truyền âm đặc biệt. Đặc biệt vì nó chỉ ghi âm tiếng mở lách cách của ổ khoá chữ. Ghi âm xong, nó chuyển ra ngoài, một dụng cụ tiếp tân khác chuyển tới một địa điểm bí mật và thu vào băng nhựa.

Băng nhựa này được trao cho ban chuyên viên của sở Mật vụ. Và 24 tiếng đồng hồ sau, ông Hoàng đã khám phá ra chữ số.

Ông hoàng giục:

- Đến đâu rồi?

Lê Diệp đáp qua walkie-talkie:

- Thưa, đã mở xong khoá thứ hai.

- Rọi đèn bấm vào... xem trước mặt có bao nhiêu nút?

- 3.

- Màu sắc?

- Xin kể từ trái qua phải: thứ nhất lá vàng, thứ hai là đỏ, thứ ba là đen.

- Cẩn thận: bấm nút đỏ, đúng 3 lần. Bấm không đủ 3 lần thì ổ khoá chữ bị hóc, nửa giờ sau mới xoay được. Còn bấm trên 3 lần thì đạn độc dược xi-a-nuya sẽ bắn ra. Bấm đi...

- Bấm xong rồi...

- Bây giờ, anh mở ổ khoá chữ, xoay từ trái sang phỉa, nhớ chưa, từ trái sang phải, thuận chiều kim đồng hồ. Anh thấy mũi tên đỏ trên ổ khoá không?

- Thưa thấy.

- Nó chỉ đúng số nào?

- Số 8.

- Cẩn thận: ở khoá này gồm 18 số, chứ không phải 9 số, từ 0 đến 9 như thường lệ. Nó gồm những số từ 0 đến 9 bằng mực đỏ, và từ 0 đến 9 bằng mực xanh. Vậy đây là số 8 nào?

- Xanh.

- Vậy anh xoay một nấc đến 9 rồi ngừng lại.

- Thưa rồi.

- Xoay từ số 0 đỏ đến số 8 đỏ.

- Rồi.

- Có nghe tiếng gì lạ không?

- Tiếng rì rầm như động cơ xe hơi, nhưng nhỏ hơn nhiều.

- Trong 5 giây, tủ sắt sẽ mở ra. Bên trong gồm 3 ngăn. Anh kéo ngăn phía trên, trong đó có những tài liệu góc trái, có ngôi sao đỏ 5 cánh. Xong chưa?

- Rồi. Thưa, chỉ có 2 tài liệu.

- Chụp đi. Anh chỉ có 90 giây.

Thời gian lạnh lùng trôi qua. Cách ông Hoàng 300 thước, Lê Diệp đang quỳ gối xuống đất, bấm nút máy ảnh. Máy ảnh này là kỳ công của kỹ thuật điện tử Hoa Kỳ: mỗi giây đồng hồ, nó tự động chụp một tấm, tự động lên phim, và chụp không cần ngắm, không cần đèn riêng.

Tài liệu gồm đúng 40 trang, kể cả thời gian giở từng trang Lê Diệp chỉ mất 80 giây. Đang còn 10 giây phù du nữa. Mồ hôi chảy đầm đìa trên mặt, Lê Diệp không dám đưa ống tay lên lau, sợ phí thời gian quý báu.

Tiếng ông Hoàng vọng ra:

- Hết 90 giây. Xong chưa?

Lê Diệp thở phào:

- Rồi.

- Đóng tủ lại. Chữ số, nhớ xoay về số 8 xanh. Còn hai ổ khoá kia, mặc kệ nó. Nó sẽ tự động khoá lại khi anh sập cửa. Bên ngoài, lửa đã bắt đầu cháy lớn, anh phải ra ngay mới kịp.

Nhanh như nhái bén, Lê Diệp phi thân ra cửa, cái máy ảnh nhỏ xíu được cất kỹ trong túi. Bên ngoài, tiếng chân người chạy rần rần, và tiếng kêu "cháy, cháy"...

Sân sau hồi nãy tối om giờ đây sáng rực. Tuy vậy, Lê Diệp không sợ bại lộ vì mọi người đều bận chữa lửa, và mọi người đều vắt giò lên cổ mà chạy bán mạng như chàng.

Trong chớp mắt, chàng đã vượt qua bãi mìn và hàng rào thép gai. Khí trời ở trong và ngoài sứ quán Bắc Việt không khác nhau, một mùi ẩm thấp làm người khỏe húng hắng ho, thế mà ra đến ngoài Lê Diệp lại cảm thấy thơ thới, như kẻ nghẹt thở được đưa vào lều dưỡng khí.

Xe hơi vẫn đợi chàng ở chỗ cũ. Chàng vọt lên. Phía xa, cảnh huyên náo mờ dần. Hoả hoạn đã được chế ngự. Trừ một gian phòng hành chính bên dưới bị thần lửa viếng thăm, toàn thể sứ quán đều nguyên vẹn.

Mọi việc xảy ra trong vòng 10 phút. Và 10 phút này đã được ông Hoàng lợi dụng triệt để.

Ngay sau khi Lê Diệp lọt vào toà đại sứ Bắc Việt, tiếp theo tiếng kêu hoả hoạn đầu tiên, ông tổng giám đốc mật vụ đã dán mắt vào cái đồng hồ bấm giờ Seiko đặt ngăn ngắn trên bàn. Tuy nổi tiếng bình tĩnh, ông cũng cảm thấy sốt ruột và cũng muốn thời gian chạy chậm lại: 3 phút vào, 3 phút ra, 4 phút bên tủ sắt, vị chi 10 phút. Lê Diệp không thể ở lại lâu hơn nữa.

Lê Diệp phải hoạt động nhanh lẹ trong vòng từ 2 đền 4 phút là do 2 nguyên nhân: thứ nhất, thời gian, thứ hai, quan trọng hơn, đó là sau 5 phút, tài liệu sẽ bị nhoè hết chữ để rồi tan thành than.

Thật vậy, tủ sắt ZV được thiết kế bằng chất thép riêng, trang bị võ khí phòng thủ riêng, giấy được dùng để ghi chép tài liệu cất trong tủ sắt cũng được làm theo một công thức riêng, hoàn toàn bí mật, và hoàn toàn hữu hiệu. Giấy này trắng ngà và hơi dày như giấy 80 gờram được dùng để đánh máy chữ, khi chế tạo, được trộn vào một hoá chất đặc biệt, hễ tay người đụng vào là nhèo chữ và giấy cháy thành than.

Vì vậy Lê Diệp phải đeo găng tay. Tuy nhiên không phải găng da thường vì da thuộc cũng làm hỏng giấy. Mà là găng tê ri len dày cộm.

Đề phòng gián điệp chụp lén, giấy này chỉ có thể đem ra khỏi tủ lâu nhất là 5 phút. Vì vậy Lê Diệp phải mang theo máy ảnh riêng.

Đến khi biết chắc chắn Lê Diệp đã ra khỏi vùng nguy hiểm, ông Hoàng mới xô ghế đứng dậy. Cô gái bí mật đứng chờ ông trên ngưỡng cửa không biết từ bao giờ. Dáng điệu khoan thai, ông rít một hơi xì gà Ha-van. Đột nhiên, ông khen:

- Chà, ngon ghê.

Cô gái giật mình:

- Thưa, ông khen Lê Diệp phải không? Lê Diệp giỏi thật! Nếu là người khác vị tất nửa giờ đã xong.

Ông Hoàng cười:

- Không, tôi không khen Lê Diệp. Điếu xì gà này ngon ngoài sức tưởng tượng nên tôi khen. Xì gà của thủ tướng Castro đấy... chở từ Cuba sang đây biếu tôi....

Trong bóng tối, cô gái trợn tròn mắt, nhìn ông già. Nàng quen ông Hoàng đã lâu, và hơn một lần đã phục vụ dưới quyền ông, song đây là lần thứ nhất, nàng nghe ông ca ngợi thú hút xì gà Cuba giữa lúc cần tập trung tư tưởng để điều khiển một công tác thập phần hiểm nghèo.

Thấy nàng ngạc nhiên, ông Hoàng nhún vai gày gò, và mỉm cười thân mật như cha với con:

- Cô lại ngạc nhiên rồi... Ừ, kể ra cô ngạc nhiên cũng phải. Trên thế giới, tôi mới thấy Văn Bình, Z.28 có cái tính dở hơi này... Trong khi thiên hạ sợ cuống cuồng thì cười tươi như hoa, mọi người lo bạc đầu thì uống sâm banh và du hí thục mạng. Tôi cũng có tính như Văn Bình. có lẽ tôi cần truyền lại cho cô.

- Thưa... ông vừa bảo là tính dở hơi...

- Ấy, nghề của cô và tôi là nghề dở hơi, nên tính tình, thói quen, tư tưởng... cũng cần phải dở hơi cho thích hợp. Ngữ vựng điệp báo có một danh từ lạ lùng, tạm gọi là "lạc tán tư tưởng"...

- Thưa, "lạc tán tư tưởng"...? Tôi mới được nghe lần đầu.

- Dĩ nhiên, vì danh từ này do Văn Bình đặt ra. Người ta thường nói đến " tập trung tư tưởng" hoặc "phân tán tư tưởng". Bị tra tấn tàn nhẫn, muốn khỏi đau đớn, phải làm thần kinh hệ tê liệt tạm thời bằng phương pháp "tập trung tư tưởng". "Phân tán tư tưởng" là nghệ thuật "tập trung tư tưởng" được đưa lên mức độ tinh vi. Thay vì "tập trung", người ta "phân tán" tư tưởng, cùng một lúc đến năm, bảy việc khác nhau. "Lạc tán tư tưởng" là nghĩ đến những việc vui. Về phần tôi, tôi chỉ có thể nghĩ đến xì gà Ha-van, vì ngoài thú hút xì gà ra tôi không còn thú nào khác.

Đột nhiên, ông Hoàng đổi giọng, giọng nói thân mật và trẻ trung mà cô gái chưa bao giờ được nghe.

- Lát nữa, Văn Bình sẽ nổi trận lôi đình như thường lệ. Sợ rằng Văn Bình sẽ doạ từ chức thẳng tay. Vì vậy, tôi phải nhờ đến cô. Trong lúc này, Sở rất cần một điệp viên tài giỏi về mọi mặt như Văn Bình. Tôi không thể cho Văn Bình biết mọi chi tiết của kế hoạch vì những lý do mà cô đã thấy. Thôi, chúng ta lên đường ngay kẻo chậm.

Cô gái mở cửa cho ông tổng giám đốc lên. Nàng định ngồi xuống phía vô-lăng, song ông Hoàng gạt đi:

- Lâu lắm, tôi chưa lái xe. Đêm nay, cô cho tôi rượt lại một lát.

Cô gái há miệng toan phản đối, nhưng sực nhớ ông Hoàng là một cụ già bướng bỉnh nên lại lặng thinh.

Nàng không ngăn được sửng sốt khi thấy ông Hoàng sử dụng xe hơi nhanh nhẹn và gọn gàng như thanh niên ba mươi tuổi nữa. Động cơ vừa rú tròn trịa, ông Hoàng đã gài số - không phải là số một mà là số hai - tông hết ga xăng, bốn bánh chồm trên đường, phóng nhanh vào đêm tối.

Thì ra ông Hoàng chỉ già về tuổi tác, chứ về khối ốc sáng suốt và gân cốt thì chưa già. Nàng được nghe nhiều người thuật lại trong chuyến đơn thương độc mã công tác tại Phi luật dân, ông đã lái xe đua, lao như tên bắn ở những đường phố đông đúc... Khi ấy, nàng đinh ninh nhân viên của Sở đặt ra một huyền thoại để tâng bốc ông tổng giám đốc ốm yếu, bây giờ nàng mới chứng kiến sự thật tận mắt.

Kim tốc độ vọt qua con số 120. Cô gái nói to:

- Xin ông hãy hãm bớt. Bệnh tim tái phát thì...

Ông tổng giám đốc cười:

- Ô, lên cầu thang tôi thở hồng hộc chẳng qua vì nhiều năm nay tôi quen dùng thang máy. Chứ còn xe hơi... xe hơi là một phần của đời tôi. Có lẽ cô chưa biết thuở thiếu thời tôi sống bằng nghề thử xe hơi và phi cơ. Đêm nào, trước khi lên giường ngủ, tôi cũng phóng xe đua hàng trăm cây số. Trong số nhân viên của Sở, Văn Bình giống tôi nhiều nhất.

Cô gái cảm thấy lòng se lại khi ông tổng giám đốc nhắc đến tên Văn Bình. Dường như chàng là từ thạch còn nàng là sắt. Nàng yêu chàng một cách thản nhiên, cũng như đã yêu hàng chục người đàn ông dại gái khác trong quá khứ. Nàng yêu chàng theo chỉ thị đặc biệt của ông Hoàng. Nàng đinh ninh sẽ quên chàng dễ dàng. Ngờ đâu...

Ngờ đâu, nàng đã yêu chàng thành thật...

Chiếc Opel đen sì phóng ra bờ Sông. Ban đêm, sông Cửu Long lấp lánh như chứa lân tinh.

Toà đại sứ Nam Việt hiện ra bên trái. Cửa mở rộng, bên trong le lói ánh đèn.

Cô gái lẩm bẩm một mình:

- Anh ơi!

Lửa bốc rần rần.

Thoạt nhìn, Văn Bình tưởng mái nhà đối diện chìm ngập trong biển lửa đỏ ối. Nhưng một phút sau chàng mới nhận thấy nghệ thuật đốt nhà tinh vi và khôn ngoan của nhân viên sứ quán Bắc Việt. Ngọn lửa lên cao nhưng được thu hẹp vào một góc.

Dưới ánh sáng bập bùng, Văn Bình thoạt thấy hai bóng đen. Họ vượt ra ngoại hàng rào kẽm gai, rồi chạy nhanh về phía chàng đậu xe.

Nhanh nhẹn, chàng mở cửa. Cả hai thót lên. Chàng rồ máy, động cơ nổ ngon lành, và trong chớp mắt xe hơi vọt ra đường cái. Liếc bằng đuôi mắt, Văn Bình nhận ra Thiên Hồng.

Thiên Hồng trong ảnh đẹp hơn Thiên Hồng ở ngoài bằng xương, bằng thịt. Chàng mỉm cười:

- Hân hạnh.

Thiên Hồng nhìn chàng, vẻ mặt chứa đầy lo sợ và sửng sốt. Gã đàn ông ngồi bên vẫn lầm lì như pho tượng.

Văn Bình lái ra bờ sông. Bờ sông Cửu Long. Tim Văn Bình đột nhiên đau nhói. Kế hoạch Cửu Long... thảo nào người ta đặt ra kế hoạch này là kế hoạch Cửu Long...

Đến khi xe hơi chạy vào sân sứ quán, và cánh cổng sắt từ từ khép lại, gã đàn ông mới thở phào, giọng sung sướng:

- Thế là xong.

Văn Bình giật mình khi thấy một bóng người cao lêu nghêu chực sẵn trên tam cấp.

Bóng người cao lêu nghêu này là Lê Diệp. Ông Hoàng và Lê Diệp không dư thời giờ để lên Vạn Tượng nghỉ mát. Vả lại, Vạn Tượng là một thị trấn nóng bức, đầy bụi, thiếu mọi tiện nghi cần thiết. Ông tổng giám đốc phải từ giã Sài Gòn, tạm gác hàng chục hồ sơ quan trọng, chắc chắn không phải để đón tiếp đệ nhị tham vụ sứ quán Hoài Thanh hoặc đại tá Trần Chương, con hùm sám điệp báo của sứ quán Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Nghĩa là ông Hoàng còn có một mục đích nào khác. Một mục đích vô cùng trọng đại mà không hiểu vì cố ý hay vô tình ông không thông báo trước cho chàng.

Văn Bình cảm thấy thái dương nóng ran. Lửa tức giận bốc cháy ngùn ngụt trong lòng chàng. Chàng muốn tóm cổ chàng sếu vườn Lê Diệp, bạn thân nhất đời, để ném tung ra ngoài đường. Dường như đọc được ý nghĩ của chàng, Lê Diệp chỉ để ý đến cặp tình nhân miễn cưỡng vừa tới.

Lê Diệp nghiêng đầu, đon dả:

- Chào anh Hoài Thanh. Chào cô Thiên Hồng.

Đại tá Trần Chương - trong bộ vỏ Hoài Thanh - lí nhí chào lại. Thiên Hồng không đáp, mặt cúi xuống nền nhà, dáng điệu mệt mỏi.

Lê Diệp lại nói:

- Chúng tôi đã dọn xong phòng ngủ. Mời các bạn nghỉ ngơi một lát. Sáng mai, đúng 5 giờ, sẽ có phi cơ riêng về Sài Gòn.

Văn Bình đứng án ngữ ngay cửa ra vào mà Lê Diệp vẫn coi như không có. Chàng sếu vườn dang tay, xô cữa phòng bên, làm hiệu cho Thiên Hồng.

Văn Bình đang tần ngần thì cửa phòng hé mở. Qua ô cửa, chàng thấy khuôn mặt già nua quen thuộc của ông Hoàng. Chàng lặng lẽ tiến vào. Ông Hoàng kéo ghế mời:

- Anh ngồi xuống đây. Thành thật khen ngợi anh.

Ông tổng giám đốc cười:

- Anh đừng giận tôi, tội nghiệp. Bắt buộc tôi phải dùng anh làm con mồi. Vì trừ anh ra, không ai làm tròn được nhiêm vụ khó khăn và bạc bẽo ấy.

- Cám ơn ông. Lần đầu tiên, ông an ủi tôi. Ông đã biết người đàn ông và người đàn bà vào sứ quán là ai chưa?

- Theo căn cước, người đàn ông là đệ nhị tham vụ hoài Thanh, còn người đàn bà là Thiên Hồng.

- Không, tôi không hỏi căn cước, vì trong nghề này, căn cước chỉ là giấy lộn. Tôi muốn hỏi chân tướng của họ.

- À, thật ra người đàn ông không phải là Hoài Thanh. Theo chỗ tôi biết, hắn là Trần Chương, chỉ huy điệp báo của sứ quán Bắc Việt.

- Ông định tướng kế, tựu kế, mượn tay Trần Chương để phăng ra hệ thống của địch tại miền Nam ư? Đó chỉ là hy vọng viển vông. Trần Chương là tay cừ khôi, xỏ dây vào mũi chẳng phải dễ nào. Tôi chỉ sợ ông nuôi ong tay áo mất thôi.

- Vậy anh đề nghị ra sao?

- Bắt.

- Bắt Trần Chương ư? Tôi không tin đó là thượng sách. Hắn như cá nằm trốc thớt, làm thịt lúc nào mà chả được.

Giọng Văn Bình tỏ vẻ gay gắt:

- Nghĩa là tôi bị mang ra làm trò hề... Ông nhẫn tâm thật...

Ông Hoàng bâng khuâng nhìn qua cửa sổ ra sông Cửu Long màu nâu đục ngầu:

- Hừ... thoạt tiên tôi cũng không định như vậy. Theo kế hoạch sơ khởi, anh chỉ có nhiệm vụ lôi kéo Hoài Thanh, nhưng mọi việc đã thay đổi quá nhanh chóng...

- Nhưng ít nhất ông cũng phải cho tôi biết. Nếu ông bận thì còn Nguyên Hương, Lê Diệp...

- Nhưng đến khi ấy tôi lại không thể cho anh biết hết chi tiết...

- Vậy, tôi xin ông...

- Anh lại đòi từ chức phảỉ không? Được, lát nữa, sau khi tôi trình bày ngọn ngành nếu anh vẫn cương quyết, tôi cũng không dám ép... Từ nhiều tháng nay, tôi đã cho nhân viên theo dõi hoạt động của sứ quán Bắc Việt. Vụ Hoài Thanh là kẽ hở thứ nhất giúp chúng ta xâm nhập sứ quán. Nhưng nếu không có hắn cũng chẳng sao.

- Vì ông đã có sẵn một mục đích quan trọng khác?

- Phải. Vụ tổ chức thâm nhập sứ quán Bắc Việt, lôi kéo nhân viên đối phương chỉ là tấm bình phong để ru ngủ địch mà thôi. Mục đích chính là thừa cơ địch sơ ý ta cho người lẻn vào chụp trộm tài liệu. Tôi được biết trong phòng Trần Chương có tủ két đựng tài liệu vô cùng quan trọng. Hầu hết báo cáo của nhân viên Trung ương cục hoạt động ở phía nam vĩ tuyến 17 đều gửi phúc trình qua sứ quán Bắc Việt ở Vạn Tượng. Phần lớn chỉ thị từ Hà Nội chuyển vào Nam cũng qua đường dây này. Nếu Trần Chương không giả dạng Hoài Thanh và rời sứ quán, nếu guồng máy phòng thủ của sứ quán không bị lơi lỏng trong 15 phút, thì đến thế kỉ thứ 25 chúng ta cũng không lọt vào nổi. Chẳng qua gậy ông đập lưng ông, họ tưởng lừa được ta, té ra ta lại lừa họ.

- Ông đã đoạt được tài liệu chưa?

- Rồi. Phần việc này do Lê Diệp đảm trách. Đảm trách với sự giúp đỡ của Sulô.

- Sulô?

- Phải, Sulô là nhân viên tin cậy của tôi.

- Trời ơi, ông còn tin Sulô nữa ư? Hắn là kẻ phản phé. Lần thứ nhất trong đời, tôi thấy ông dùng lầm người.

- Sulô phản phé ở chỗ nào?

- Hôm tôi gặp hắn lần đầu tôi khám phá ra ngay. Hắn vừa rời lữ quán Constellation thì nhân viên của địch theo sau. Sau đó, lời nói của hắn một lúc một khác, tiền hậu bất nhất. Địch đã săng-ta hắn, bắt hắn thổ lộ bí mật. Thế mà ông lại gửi điện tín cho hắn, nhờ hắn chuyển lại cho tôi. Khác nào lạy ông tôi ở bụi này.

- Rồi sao nữa?

- Địch đã đọc trước bức điện ông gửi cho tôi. Sulô đã chạy ba chân bốn cẳng qua Thái Lan. Mai kia, gặp hắn, tôi sẽ bẻ gãy cổ.

- Anh lầm rồi... Với bề ngoài rụt rè, khệnh khạng, Sulô lại là một nhân viên quyền biến, gan dạ, và nhất là trung kiên. Hắn làm việc dưới quyền tôi đã lâu, và không những biết hắn, tôi còn biết rõ đời tư của hắn nữa. Tôi có thể đoan chắc với anh rằng trong suốt quá trình anh hoạt động ở Vạn Tượng, nhất cử nhất động của Sulô đều được tôi cho phép.

Văn Bình giọng mỉa mai:

- Và ông cũng cho phép hắn trốn biệt tích sang Nồng khai nữa phải không?

Ông Hoàng xua tay:

- Không. Hắn không đi đâu cả. Hắn vẫn ở đây với tôi.

Văn Bình trợn mắt:

- Ở đây với ông trong toà đại sứ?

Ông Hoàng lẳng lặng tiến lại cánh cửa ăn thông với phòng bên, và gõ vào 3 tiếng ngắn.

Cửa mở, Sulô khoan thai bước vào, trên vai vẫn tòng teng cái máy ảnh cũ mèn, xộc xệch, tưởng như không bao giờ dựng phim nhựa, mặt hắn hếch lên, nửa xuẩn ngốc, nửa kiêu căng.

Sulô cúi đầu chào:

- Vâng lệnh ông tổng giám đốc, tôi phải giả vờ mềm yếu và ngu xuẩn, xin anh thứ lỗi.

Văn Bình đờ người, ngồi phịch xuống ghế. Ông Hoàng đứng dậy:

- Thôi trời sắp sáng rồi. Gần trưa, tôi phải tham dự phiên họp của Hội đồng Nội các đề trình bày một số tài liệu chụp được trong sứ quán Bắc Việt. Tôi chắc anh cũng chưa muốn về. Vả lại, công việc của Sở chưa bề bộn lắm, anh có thể ở lại vài ba tuần lễ.

Được lời như cởi tấm lòng, Văn Bình ném điếu Salem vào đĩa đựng tàn trên bàn:

- Vâng nếu ông cho phép, tôi xin nghỉ xả hơi nửa tháng. Khí hậu Vạn Tượng dạo này rất tốt.

Ông Hoàng lại cười:

- Đúng. Khí hậu Vạn Tượng dạo này rất tốt, nhờ có Đồng Pha Lan. Người già sẽ trẻ lại, ngưởi ốm sẽ khoẻ lên, tôi hy vọng anh lên cân và trí óc sáng suốt.

Biết ông Hoàng chế giễu, Văn Bình lặng thinh. Nhưng ông Hoàng quái ác vẫn chưa chịu buông tha:

- À, anh ở lại một mình chắc buồn, để tôi nhờ anh em trong toà đại sứ làm hướng đạo giùm.

Văn Bình lắc đầu quầy quậy:

- Thưa, tôi quen sống một mình, không thích bạn bè.

Ông Hoàng đặt tay vào nắm cửa. Song Văn Bình cản lại:

- Thưa ông...

Ông Hoàng tủm tỉm cưởi:

- À, suýt nữa quên. Tôi xin giới thiệu anh với một người bạn thân. Người ấy sẽ thay tôi thuyết phục anh.

Văn Bình lắc đầu:

- Tôi chịu đựng hết nổi rồi... Không ai thuyết phục tôi được đâu. Ông không cho tôi đi, tôi cũng...

Chàng ngưng bặt. Cánh cửa vừa khép lại, bỗng được xô ra, và một giai nhân núi lửa hiện ra bằng xương bằng thịt. Gian phòng ảm đạm của sứ quán như tràn ngập ánh sáng thần tiên.

Văn Bình buột miệng sững sờ:

- Simon.

Phải, người đẹp là Simon, hoa khôi của Vọng các ban đêm, bạn đường khăng khít của chàng. Chàng xin được ở lại để hú hí với Simon, nhưng sợ ông Hoàng chê cười nên chống chế là ở lại nghỉ ngơi. Chàng không ngờ Simon lại có mặt vào lúc nàng không nên có mặt nhất. Ông Hoàng... lại ông Hoàng... Simon là nhân viên chìm của ông Hoàng. Nàng đã cho chàng vào xiếc từ đầu đến cuối... Thế mà chàng cứ đinh ninh nàng là vũ nữ ngây thơ, không dính dáng đến cuộc đời điệp báo.

Ông Hoàng dường như không đề ý đến Văn Bình trong phòng. Ông ấn mũ dạ lên đầu, giọng thân mật:

- Chào cô Simon. Cô biết Văn Bình không?

Simon đứng lại, nhìn Văn Bình một giây rồi phá lên cười. Ông Hoàng thản nhiên bước ra ngoài hành lanh. Thẹn đỏ mặt, Văn Bình quên cả đưa tiễn ông tổng giám đốc xuống xe. Chàng nắm chặt tay Simon:

- Hừ, em lừa anh!

Simon cười tươi như hoa:

- Ai bảo anh háu ăn! Em xin mãi, ông cụ mới bằng lòng cho em ở lại Vạn Tượng. Công việc của em bên Thái đang ngập đến cổ.

- Tại sao đêm qua gặp anh, em không cho anh biết?

- Đâu được. Em có nhiệm vụ thay cái đồng hồ tay của anh bằng một dụng cụ ghi âm. Vì ông Hoàng muốn theo dõi mọi hoạt động của anh vào giờ chót.

Văn Bình nhìn đồng hồ. Chàng giật mình đánh thót. Ham mê sắc đẹp, chàng không có thời gian kiểm lại vật tuỳ thân nữa. Chiếc đồng hồ vỏ vàng tự động này theo chàng từ nhiều năm nay nên chàng nhớ rõ từng vết sớt, từng chỗ bị mờ. Simon đánh tráo một cái mới tinh hảo mà chàng không biết.

Dưới sân, chiếc Cilroen chở ông Hoàng đã nổ máy. Simon cầm tay Văn Bình:

- Tội nghiệp ông cụ... Già cả, ốm yếu như vậy mà vẫn phải làm việc ngày đêm. Hôm nay trời xấu, về đến Paksé chắc chắn phi cơ sẽ nhồi ông cụ tha hồ mà nôn mửa. À, anh đã nói hết chuyện với ông cụ chưa?

Văn Bình đáp ngay không nghĩ:

- Rồi.

Chàng quên hẵng ý định từ chức. Song Simon đã nhắc giùm chàng:

- Ông tổng giám đốc phàn nàn với em là lần này anh sẽ xin thôi. Ông cụ...

- Trời, ông cụ nói bao giờ?

- Trước khi gặp anh.

Văn Bình thở dài nhè nhẹ. Gan ruột chàng có gì, ông già ma quái ấy đã thấy hết, nghe hết. Ông Hoàng đã khôn ngoan dùng thần Vệ nữ để đàn áp con thiên mã bất kham.

Simon đứng sát vào người chàng, giọng nũng nịu:

- Em đã đánh cuộc với ông tổng giám đốc. Em quả quyết rằng không bao giờ anh từ chức. Nếu em thắng, ông Hoàng phải trả 10 ngàn đô la, và em được quyền nghỉ phép 3 tháng. Trời ơi, 3 tháng hoàn toàn hạnh phúc, hai đứa mình sẽ vù qua Thái lan dưỡng sức. Anh này, em biết một bãi biển sạch kinh khủng, mát cũng kinh khủng... Chúng mình ở trên một ngôi nhà cô đơn trên núi, nhìn xuống biển, không sợ ai quấy rầy. Em đã nói trước với ông Hoàng rồi, anh ạ...

- Nói sao?

- Em nói là trong 3 tháng nghỉ phép, Sở không được liên lạc thư từ. Anh phải hoàn toàn được tự do. Ông Hoàng đã đồng ý...

Như bị dán băng keo vào miệng. Văn Bình không thốt ra được lời nào. Mọi việc đã được ông Hoàng tính toán kỹ lưỡng từ trước. Chàng đã rơi vào rọ. càng vùng vẫy càng bị lưới sắt cứa đứt vào da thịt.

Song lẽ, đây lại là rọ lưới ái tình. Hàng triệu người trên trái đất cầu mong được giam hãm như Văn Bình mà không bao giờ toại nguyện.

Simon ngoan ngoãn chìa đôi môi đỏ mọng:

- Em đắc tội lắm. Anh còn giận em không?

Dĩ nhiên là không. Trăm ngàn lần không. Bình sinh, chàng không bao giờ giận đàn bà. Phương chi nàng là Simon, giai nhân vô giá của đất Thái huy hoàng.

Simon ôm chầm lấy nàng. Chàng cúi xuống hôn thật lâu vào miệng nàng. Không rõ vì nàng dùng son môi đặc biệt, hay hơi thở khác thường của nàng mà Văn Bình cảm thấy tâm thần ngây ngất. Từ thuở quen nhau đến giờ, chàng đã hôn môi nàng hàng chục lần, và lần nào chàng cũng lâng lâng như lạc vào một thế giới chứa đầy bí mật, những bí mật lạ lùng gấp vạn, gấp triệu lần bí mật trong Bóng tối Đồng Pha Lan.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx