Hồng môn của Nạp Lan gia lập tức thay đổi, Nạp Lan Hồng ngồi ở trong phòng, giấu không được nội tâm vui vẻ, nói: “Duật nhi, Hoàng Thượng thật sự là long ân mênh mông cuồn cuộn, Thanh Thanh vi đại cách cách, ngươi thì được tấn phong là Đức thân vương, phải biết rằng, thân vương thì không hề được dung cho người bên ngoài hoàng tộc, Hoàng Thượng đối với ngươi thật sự là vài phần kính trọng, chúng ta phải hảo hảo ăn mừng một phen.”
“Lần này ít nhiều nhờ Tâm Di từng ở tổng đà Thiên Địa hội lấy được danh sách, con mới có thể thuận lợi bình định Thiên Địa hội,” Nạp Lan Đức Duật nhìn Tâm Di nói.
“Tổ tông tích đức, Tâm Di là phúc tinh của nhà chúng ta!” Nạp Lan Hồng đối với người con dâu này là vừa lòng vô cùng, từ lúc Tâm Di vào cửa, con trai liền một đường thăng chức, tuy rằng sau lưng cũng có người nói xấu, nhưng xem ra, kia đều là hâm mộ cùng đố kỵ, Huống chi Tâm Di thông minh, hiền hoà, tôn trọng hắn, hắn còn có cái gì không hài lòng, nếu nhất định phải nói không vừa lòng, thì phải là đến hiện tại mới chỉ có một cháu gái.
Mà Tâm Di lại cau mày, trầm mặc không nói, Nạp Lan Đức Duật hỏi: “Làm sao, Tâm Di, ngươi không vui sao?”
“Ta một chút cũng không vui, trèo càng cao thì ngã càng đau, hôm nay hắn có thể cho ngươi nhiều vinh quang như vậy, ngày khác cũng có thể thu hồi hết thảy, hắn đối với ngươi phong thưởng càng cao, trong lòng đối với ta nghi kỵ lại càng thâm.”
“Tâm Di, ngươi lo lắng nhiều, ngươi cùng Duật nhi vì Hoàng Thượng làm nhiều chuyện như vậy, có công nên mới có phong thưởng thôi,” Nạp Lan Hồng không cho là đúng nói,
“A mã, công cao cái chủ (công cao át thế chủ) nha! Có bao nhiêu đại công cũng có bấy nhiêu tội, thân là hoàng đế, sẽ không cho phép có người nào uy danh lớn hơn hắn, Hàn Tín, Nhạc Phi, Viên Sùng Hoán, rất trung, kết cục lại càng thảm, thái độ làm người của Ung Chính ta rất rõ ràng, hắn sở dĩ cấp Đức Duật liên tục gia phong, chính là làm cho ta tin tưởng hắn sẽ không qua sông đoạn cầu, làm cho ta tiếp tục giúp hắn, bởi vì long ỷ hắn còn không có tọa ổn, chờ hắn đem dị kỷ bài trừ, tọa ổn giang sơn, cũng chính là lúc đối phó chúng ta.”
Nạp Lan Đức Duật cũng lo lắng: “Ngươi nếu hiểu được tâm tư của hắn, vì sao còn muốn giúp hắn?”
“Nhìn hắn, ta nhớ tới di ngôn của Khang Hi lúc lâm chung, cho nên hắn mỗi lần muốn nhờ ta, ta cũng không nỡ cự tuyệt, ta càng giúp hắn, hắn lại càng không thể dễ dàng tha cho sự tồn tại của ta, hắn là hoàng đế, như thế nào có thể bị một cái tiểu nữ tử nắm trong tay?” Tâm Di đối với Ung Chính hiểu biết thật sự thấu triệt, cho nên từ lúc Nạp Lan Đức Duật từng bước thăng chức, nàng đã lo lắng đường rút.
Đang nói, người đến chúc mừng, Tiết Ngôn mang theo Tam tỷ muội kia, mặt sau còn có Hoàng Gia Nhạc, nhìn bộ dáng hắn cùng Hồng Dao chỉ biết bọn họ hai người chuyện tốt mau đến.
Tam tỷ muội gần nhất, trước hết cấp Nạp Lan Đức Duật chúc, “Đức thân vương!”
Nạp Lan Đức Duật vội xua tay, “Đừng, ngàn vạn lần đừng! Ta nhìn thấy các ngươi ba cái liền sợ!”
“Ngươi sợ cái gì nha? Chúng ta chính là tiểu nữ tử, ngươi hiện tại là thân vương, trong triều đình trừ bỏ Trương Đình Ngọc cùng vài vị cựu thần, ai còn có thể cùng ngươi so?” Thu Yến vẫn tùy tiện như vậy, nói chuyện không chỗ nào cố kỵ.
“Cũng đừng tâng bốc ta, ta đã muốn mau rời đi,” Thấy Hồng Dao mặt núp ở phía sau, liền giễu cợt Hoàng Gia Nhạc, “Hoàng lão đệ, nhĩ hảo tinh mắt, liền đem một kẻ tốt mắt lừa được rồi.”
Nạp Lan Đức Duật chức quan so với Hoàng Gia Nhạc lớn hơn, cho nên Hoàng Gia Nhạc không dám phản bác, cũng ngượng ngùng phản bác, đỏ mặt ở một bên không hé răng, Tâm Di nhìn thấy hắn như vậy, vội thay hắn giải vây, đem đề tài chuyển dời đến nơi khác.
Bọn họ đến, Nạp Lan Hồng tự nhiên là phải thiết yến khoản đãi, Nạp Lan Đức Duật uống hơi quá, liền đứng dậy đi ra ngoài (anh ý đi gặp William Cường nhưng ta không biết nói sao nên…), khi trở về, nghe được phía sau mấy ngọn giả sơn tựa hồ có tiếng người, trong lòng cảm thấy kỳ quái, liền lén lút đi qua coi.
______________________________
chú thích
Hàn Tín (chữ Hán giản thể: 韩信, chính thể: 韓信, latin hóa: Hán Xìn) (? – 196 TCN), còn gọi là Hoài m hầu (淮陰候), là một danh tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang thời Hán Sở tranh hùng, có công rất lớn giúp Lưu BangHạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm đánh bạ.Hàn Tín là một danh tướng bách chiến bách thắng. Tên tuổi của ông gắn liền với những trận đánh nổi tiếng, được hậu thế nhắc đến như những điển hình về nghệ thuật quân sự. Có thể nói không ngoa rằng về mặt quân sự trong tranh chấp giữa Hán và Sở, gần như một mình Hàn Tín quyết định cán cân nghiêng về phía nào. Ông rất giỏi về quân sự nhưng về chính trị, ông không phải là đối thủ của Lưu Bang.
Dù sao đi nữa, hậu thế vẫn luôn nhìn nhận ông là một trong các đại tướng cầm quân xuất sắc nhất. Đền ơn bà giặt lụa, lại không báo oán anh hàng thịt chứng tỏ ông là người trung hậu, đạo đức, nhân từ và bị Lưu Bang, người bị các sử gia Trung Quốc gọi là “hoàng đế vô lại”, lợi dụng.
Cùng thời với Hàn Tín, còn một nhân vật khác cũng có tên Hàn Tín[5]. Ông là con cháu nước Hàn thời Chiến Quốc. Khi các nước ở Sơn Đông nổi dậy chống Tần, để có danh nghĩa tập hợp lực lượng, người ta tìm lại con cháu của chư hầu cũ đưa lên ngôi. Đại thần nước Sở là Hạng Lương đã sai Trương Lương tìm Hàn Thành làm Hàn vương. Hàn Tín là người cùng họ nên cũng được làm tướng. Sau khi Hàn Thành bị Hạng Vũ giết, Hàn Tín được Lưu Bang lập làm Hàn vương để có vây cánh chống Hạng Vũ.
Năm 204 TCN, Hạng Vũ vây ngặt Huỳnh Dương. Lưu Bang nhờ Kỷ Tín đóng giả ra hàng để chạy thoát về Thành Cao, cử Hàn vương Tín cùng Tung Công, Ngụy Báo và Chu Hà ở lại giữ thành. Hạng Vũ biết bị Kỷ Tín lừa, giết Tín rồi đánh thành mạnh hơn. Chu Hà, Tung Công giết Ngụy Báo vì sợ Báo lại phản Hán lần nữa. Cuối cùng Hạng Vũ vẫn hạ được thành, Tung Công và Chu Hà không hàng nên bị giết, Hàn Tín bị cầm tù. Lúc này Đại tướng quân Hàn Tín kia đang bình định nước Triệu.
Khi diệt xong Hạng Vũ, Lưu Bang cải phong Hàn Tín lên Thái Nguyên là vùng xa xôi, giáp địa giới Hung Nô (hệt như cách làm với Sở vương Hàn Tín), do đó dẫn đến việc Tín làm phản, dẫn Hung Nô vào đánh Hán. Sau này Tín chạy sang nương nhờ bên Hung Nô.
Rất ngẫu nhiên là cả hai Hàn Tín đều nổi danh trong thời Tần mạt Hán hưng, đều theo thờ Lưu Bang và cả hai đều bị vua phụ. Đây có lẽ là sự trùng hợp ngẫu nhiên có một không hai trong lịch sử.
Viên Sùng Hoán (袁崇煥; tên tự: Viên Tố 元素 và Tự Như 自如; 6 tháng 6 năm 1584 – 22 tháng 9 năm 1630) là một danh tướng chống Mãn thời Minh. Tuy xuất thân là một văn thần, đỗ Tiến sĩ, nhưng người ta biết ông nhiều với tư cách là một chỉ huy quân sự, từng nhiều lần đánh bại quân Hậu Kim đầu thế kỷ 16.
Sau chiến thắng Ninh Viễn lần thứ nhất, Viên Sùng Hoán bị nhiều đồng liêu dèm pha vì việc ông chủ độn ghòa hoãn với Hậu Kim. Ông phải dâng sớ giải trình mục đích: “Ngoài quan ải đất hẹp người đông nên phải xây dựng sửa sang lại ba thành Cẩm Châu, Trung Tả và Đại Lãng để phòng tuyến kéo dài ngoài quan ải đến 400 dặm. Nếu như thành chưa được tu sửa xong mà quân nhà Kim đã đánh thì tất phải thua. Ta đã ở vào thế đánh thì thắng thủ thì bại. Vì thế nhân nhà Kim đánh nhau với Triều Tiên, chúng ta lấy kế hòa để tiến, hoãn binh củng cố thành trì. Khi nhà Kim đến thì chúng ta đã tu sửa tốt thành trì vùng biên để vững chắc thì nhà Kim không thể làm gì được”. Tuy Minh Hy Tông đồng ý với cách lý giải của Viên Sùng Hoán, việc xì xào của triều thần cũng tạm thời lắng xuống, nhưng những nghi ngờ trong lòng họ vẫn chưa dứt hẳn.
Sau khi chiến dịch tập kích Bắc Kinh thất bại, biết Viên Sùng Hoán là một đối thủ rất nguy hiểm, là người duy nhất có khả năng gây trở ngại rất nhiều cho đế nghiệp của mình, Hoàng Thái Cực đã sử dụng dùng đòn ly gián nội bộ để diệt trừ danh tiếng và cả sinh mạng Viên Sùng Hoán.
Biết Sùng Trinh là một ông vua đa nghi, triều thần có nhiều người đố kỵ với Viên Sùng Hoán, Hoàng Thái Cực đã phao tin Viên Sùng Hoán đã có thỏa ước ngầm với Hậu Kim, dẫn đến những thuận lợi trong chiến dịch chống Kim của ông.
Quả nhiên, vua tôi nhà Minh đều trúng kế. Một số triều thần vu cáo ông là kẻ dẫn Hổ nhập quan, nhằm uy hiếp triều đình, buộc triều đình phải chấp thuận chủ trương nghị hòa với Hậu Kim của ông, và qua đó đôi bên sẽ ký hiệp ước bất bình đẳng trước sự uy hiếp của quân Hậu Kim. Một số khác vu cáo việc quân Hậu Kim vây thành Bắc Kinh lần này hoàn toàn là do Viên Sùng Hoán dẫn về. Khi quân Kim rút lui, ông lại không truy kích, giữa ông và Hoàng Thái Cực thông đồng âm mưu… Bên cạnh đó, Vương Vĩnh Quang cùng đồng đảng lại liên tiếp dâng tấu biểu vu cáo Viên Sùng Hoán cố tình giết Mao Văn Long (là viên tướng trấn giữ vùng biên giới gần với Triều Tiên) để lấy lòng nhà Kim, cấu kết và tư thông với giặc, đề nghị triều đình xử tội[10][13].
Hoàng đế Sùng Trinh là một người độc đoán lại đa nghi, sẵn có lòng nghi ngờ Viên Sùng Hoán không thực sự trung thành, cứu binh chậm trễ, vì vậy, lập tức triệu Viên Sùng Hoán vào triều đình vấn tội, trách cứ ông tại sao đưa viện binh về quá trễ, rồi hạ lệnh bắt ông vào ngục. Tháng 8 năm 1630, sau hơn nửa năm bị giam trong ngục, Viên Sùng Hoán bị xét xử vào tội “dối vua phản quốc”, tội thông đồng với quân địch với lập luận là: quân địch tự ý thoái lui chứ không phải bị Viên Sùng Hóa đánh bại, Viên Sùng Hoán cũng không đuổi theo quân địch mà đóng quân ở lại kinh thành là có ý đồ. Tội danh này phải xử cực hình: Ngũ mã phân thây (5 ngựa xé xác) trước cổng kinh thành, vợ con thì bị bắt đi đày cách xa 3.000 dặm.[14]
Đau đớn nhất cho Viên Sùng Hoán là kể cả những người dân chúng kinh thành mà ông hết lòng bảo vệ, cũng cho rằng Viên Sùng Hoán cấu kết và dẫn đường cho giặc Kim vào xâm lược nên ai cũng hận ông đến tận xương tủy. Sau khi ông thọ hình trước cổng thành, nhiều người đã tranh giành thân xác ông như muốn ăn tươi nuốt sống để thỏa nỗi thù hận.[14]
Cái chết của Viên Sùng Hoán khiến cho quân dân rúng động, binh sĩ tiền phương chán nản và bất mãn. Quân Kim từ lúc đó ngày càng chiếm thế chủ động chiến trường. Nhà Minh đã không còn một viên tướng nào đủ tài năng và nhiệt huyết để có thể đọ sức được với Hoàng Thái Cực, đẩy lùi quân Kim. Cũng chính vì sự kiện này mà các nhà quân sự đời sau bình luận rằng nhà Minh mất nước, không mất vì giặc cướp mà mất ngay từ trong cổng ngõ, không mất ở bờ cõi mà mất ngay từ lời xàm tấu Đài quan[15]
Nỗi oan Viên Sùng Hoán kéo dài hơn 100 năm. Trớ trêu thay, vị vua công bố sự thật và xuống chiếu minh oan cho ông lại là con cháu của đối thủ không đội trời chung: Hoàng đế Đại Thanh Càn Long, cháu 5 đời của Hoàng Thái Cực.
Nhạc Phi (tiếng Trung giản thể: 岳飞, phồn thể: 岳飛), bính âm: Yùe Fēi; tên chữ là Bằng Cử 鵬舉; (1103 – 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng quân của ông đã đánh nhau với quân Kim 126 trận và toàn thắng. Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, chức tước của ông trước khi bị giết là Đại nguyên soái. Người Trung Hoa luôn lấy Nhạc Phi làm gương, đời đời kính nhớ người con chí hiếu, cũng là một người anh hùng dân tộc, một bậc sĩ phu dũng liệt trung thần.
Khi Bắc Tống diệt vong, Cao Tông lên ngôi tháo chạy về phía nam, Nhạc Phi là một quan cấp dưới với lòng ngay thẳng nghiêm túc, đã vượt cấp dâng sớ cho Cao Tông trách mắng chủ trương bán nước của phái chủ hoà, khuyên vua Cao Tông "thân chinh thống lĩnh sáu quân vượt lên phía Bắc", khôi phục lại Trung Nguyên. Nhưng Cao Tông bạc nhược lại không nghe những ý kiến đúng đắn, mà ngược lại Nhạc Phi còn bị những quan lại của phái chủ hoà khép cho tội danh "quan nhỏ vượt chức" mà đòi bãi chức quan của Nhạc Phi.
Nhưng quyết tâm của Nhạc Phi chống giặc Kim không bao giờ thay đổi, ông đầu quân vào Chiêu thảo sứ Hà Bắc là Trương Sở, được Sở đối đãi vào hàng quốc sĩ, lệnh cho Nhạc Phi theo Vương Ngạn vượt sông chiến đấu chống quân Kim. Quân Tống đến huyện Tân Hương (thuộc tỉnh Hà Nam hiện nay), thấy quân Kim đông đảo, Vương Ngạn không dám ra đánh, Nhạc Phi một mình dẫn bộ hạ huyết chiến cùng quân Kim, tự mình xông vào trận địa địch đoạt lấy đại kỳ chỉ huy của địch, quân sĩ thấy thế hăng hái xông lên đánh tan quân Kim thu phục lại Tân Hương. Ngày hôm sau lại đánh trận lớn, Nhạc Phi thân thể đầy thương tích, quân sĩ đều dồn hết sức mà đánh, quân Kim tháo chạy, tên tuổi Nhạc Phi lúc này vang danh khắp Hà Bắc.
Năm Kiến Viêm thứ 4 (1130), tướng Kim là Ngột Truật cất đại quân vượt sông Trường Giang đánh Tống, thế như chẻ tre, quân Tống tháo chạy hoảng hốt. Nhạc Phi tiến quân đến Thường Châu (thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay), đánh với Ngột Truật bốn trận, quân Kim thua trận. Nhạc Phi tiếp tục truy kích, giành thêm chiến thắng ở trấn Giang Đông, Thanh Thuỷ. Ngột Truật nhanh chân cho quân chạy về Kiến Khang (nay thuộc thành phố Nam Kinh), Nhạc Phi cho quân phục kích tại núi Ngưu Đầu đánh bại Ngột Truật, Ngột Truật lại chạy về Hoài Tây, Nhạc Phi thu hồi được Kiến Khang, bảo toàn được nửa mảnh giang sơn Giang Nam của Nam Tống. Lúc này Nhạc Phi đã có trong tay 4 vạn quân, trở thành danh tướng kháng Kim oai danh bốn phương, khi tuổi đời mới tròn 27.
Sau khi thu phục được Kiến Khang, Nhạc Phi chuyển quân sang đánh các vùng như Giang Tây, Hồ Nam, Lưỡng Quảng và Phúc Kiến, bình định diệt trừ các đám quân thảo khấu, củng cố được chính quyền Nam Tống. Để khen thưởng cho chiến công của Nhạc Phi, Tống Cao Tông đã cho thêu bốn chữ lớn trên nền cờ "Nhạc Phi tận trung" để tưởng thưởng, lại thăng Nhạc Phi làm Tri sứ tỉnh Giang Tây. Nhưng Nhạc Phi vẫn chưa hài lòng, ông không quên khôi phục Trung Nguyên, đã nhiều lần dâng sớ yêu cầu Bắc phạt, nhưng Tống Cao Tông không chấp nhận.
Năm Thiệu Hưng thứ 4 (1134), người Kim cùng với chính quyền Ngụy Tề ở phương Bắc do người Kim nâng đớ,liên quân tiến đánh Nam Tống, đánh chiếm 6 quần Tương Dương ở trung lưu sông Trường Gian, trực tiếp uy hiếp sự sinh tồn của nhà Nam Tống. Tống Cao Tông lại phải lệnh cho Nhạc Phi xuất quân, nhưng lại hạn chế ràng buộc ông chỉ được phép thu phục 6 quận Tương Dương, không cho phép đánh tiến lên phía Bắc. Tuy bị triều đình chế ngự nhưng đây rốt cuộc lại là một cơ hội để "tận trung báo quốc" của Nhạc Phi. Nhạc Phi cứ thế Bắc tiến, mạnh mẽ tiến công đến Đặng Châu (nay thuộc Nam Dương tỉnh Hà Nam), Tương Châu (nay thuộc huyện Tương Dương tỉnh Hà Bắc), Dĩnh Châu (nay là huyện Chung Tường tỉnh Hồ Bắc), Tuỳ Châu (nay là huyện Tuỳ tỉnh Hồ Bắc), Đường Châu (nay là huyện Đường tỉnh Hà Nam), phủ Tín Dương (nay là huyện Tín Dương tỉnh Hà Nam). Những chiến công này của ông đã cổ vũ mạnh mẽ quân dân Nam Tống đấu tranh chống quân xâm lược Kim, kiên định thể hiện quyết tâm thu phục Trung Nguyên của Nhạc Phi. Nhưng do sự xúi giục của Tần Cối đứng đầu của phái đầu hàng, Cao Tông đã cho triệu hồi Nhạc Phi về kinh, thăng chức cho ông làm Thanh Viễn quân Tiết độ sứ.
Năm Thiệu Hưng thứ 6 (1136), quân Tống dưới sự chủ trì của đại tướng Trương Tuấn phái chủ chiến, Nhạc Phi, Hàn Thế Trung... cùng các lộ cất quân Bắc phạt. Nhạc Phi xuất quân ở trấn Tương Dương, dương Đông kích Tấy, lệnh cho thuộc tướng là Ngưu Cao giả vờ tiến quân, còn mình thì dẫn quân chủ lực tấn công phía Tây Bắc, năm trận đánh thắng cả năm, thu phục rất nhanh Y Dương, Lạc Dương, Thương Châu, Quắc Châu, tiến vào một dãy bờ phía nam sông Hoàng Hà, thu phục cả một vùng đất rộng lớn về cho nhà Nam Tống. Nhân dân khắp nơi nô nức đón chào Nhạc Phi và quân đội, hàng trăm đám nghĩa quân lớn nhỏ đùn đùn xin đến hưởng ứng. Trong tình thế hết sức thuận lợi này, phái chủ hoà và phái đầu hàng của tập đoàn thống trị Nam Tống mà đứng đầu la Cao Tông và Tần Cối lại tỏ ra sợ hãi. Bọn họ liền cho triệu hồi các lộ quân Bắc phạt, một lần nữa lại khiến cho chí lớn của Nhạc Phi khó thực hiện.
Năm Thiệu Hưng thứ 10 (1140), quân Kim lại ồ ạt xâm chiếm xuống phía Nam, công phá vây hãm Củng, Bột, tướng Lưu Kỳ phải cấp báo, Nhạc Phi lại phụng mệnh tiếp viện. Nhạc Phi lệnh cho Lương Hưng thống lĩnh quân kỵ lén vượt Hoang Hà quấy phá hậu phương quân Kim, còn mình thì dẫn quân chủ lực trực chỉ Trung Nguyên, liên tiếp thu phục Yển Thành (nay thuộc tỉnh Hà Nam), Trịnh Châu, Lạc Dương... Nhạc Phi đã đại phá đội kỵ binh tinh nhuệ của Ngột Truật tại Yển Thành, lại đánh bại quân chủ lực của Kim ở Chu Tiên trấn (nằm ở phía tây nam huyện Khai Phong tỉnh Hà Nam). Ngột Truật cho quân rút về Khai Phong không dám nghênh chiến, quân Tống khí thế hừng hực. Nhưng một lần nữa triều đình lại đem thắng lợi của Nhạc Phi làm vốn xin hoà với người Kim, trong một ngày liên tiếp cho phát đi 12 lệnh kim bài triệu hồi Nhạc Phi. Trước đó, Tần Cối đã bí mật lệnh cho các tướng lĩnh rút lui, để lại một mình Nhạc Phi cùng quân của ông thâm nhập trận địa.
Nhạc Phi bị ép vào thế khó đã ngửa mặt than: "Công lao 10 năm, đã bị phá hỏng trong một buổi!". Lần ra quân này, không những khiến cho giấc mộng "tận trung báo quốc", "thu thập lại giang sơn cũ" của Nhạc Phi trở nên hão huyền mà lại còn gặp phải vận rủi. Người Kim vốn hận Nhạc Phi đến tận xương tuỷ, đã cấu kết với Tần Cối, bắt triều đình nhà Tống phải giết hại Nhạc Phi để làm điều kiện hoà nghị. Tống Cao Tông đã điều Nhạc Phi đi làm Khu mật phó sứ để tước bỏ hết binh quyền của ông. Ngày 25 tháng 12 năm Thiệu Hưng thứ 11 (1141), Nhạc Phi và con trai của mình, Nhạc Vân, bị gian thần Tần Cối thuốc chết tại đình Phong Ba thuộc Đại lý tự Lâm An. Giai thoại kể rằng, Nguyên soái Hàn Thế Trung đã chất vấn Tần Cối: xử tội Nhạc Phi, thế bằng chứng đâu? Tần Cối trả lời: Không có, nhưng cũng không cần có. 3 chữ "không cần có" (mạc tu hữu 莫須有) từ đó gắn liền với tên Nhạc Phi và đi vào tiếng Trung để chỉ những lời buộc tội ngụy tạo.
Đời sau có giả thuyết là vua Tống Cao Tông mượn tay Tần Cối để diệt trừ Nhạc Phi. Có rất nhiều lý do:
1. Nhạc Phi khi trực chỉ phủ Hoàng Long, kinh đô nhà Kim, thì sẽ cứu hai vua Huy Tông và Khâm Tông. Cao Tông sợ phải dâng lại ngai vàng cho hai người đó nên cách duy nhất để tránh việc đó là Nhạc Phi phải biến mất.
2. Nhạc Phi công cao cái chủ. Thắng nhiều trận nên uy danh át cả vua. Tình trạng tương tự cũng đã xảy ra khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, tổ tiên của Cao Tông, cũng đã thủ tiêu Trịnh n.
3. Cao Tông chỉ muốn ăn chơi và hưởng lạc của kẻ làm vua. Kinh phí dùng để cho chiến tranh có thể dùng để xây cung điện và mở tiệc tùng.
Truyền thuyết cũng nói rằng những kẻ có ý định xử tội Nhạc Phi đã bị hồn ma của ông săn đuổi và phải tự sát.
Món bánh giò cháo quẩy của người Hoa được làm bằng bột chiên trong dầu, luôn luôn làm từng cặp dính nhau, đó là tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc dầu hành tội.
Nhạc Phi và sự kiện Tĩnh Khang cũng được tiểu thuyết gia kiếm hiệp Kim Dung nhắc đến trong một số tác phẩm của ông: Anh hùng xạ điêu, Tiếu ngạo giang hồ. Trong tiểu thuyết dựa Kim Dung "Võ lâm ngũ bá", Chu Đồng cũng là thầy dạy võ của Đông tà Hoàng Dược Sư
Trong gần 20 năm chiến đấu chống quân Kim, Nhạc Phi đã trải qua 26 trận, chưa bại trận nào, không hổ danh là "Thường thắng tướng quân". Lịch sử gọi Nhạc Phi là người văn võ mưu trí, có những ưu điểm của Hàn Tín, Bành Việt, Chu Bột, Quán Anh, tác phong của Gia Cát Khổng Minh (Tống sử, "Nhạc Phi truyện"). Mỗi lần sắp vào cuộc chiến, Nhạc Phi đều triệu các chỉ huy để bàn bạc, mưu định xong mới đánh, cho nên mỗi lần đánh nhau ông đều chiến thắng. Bất ngờ gặp địch, ông không hề nao núng, người Kim có câu "Bạt núi dễ, đánh quân Nhạc khó".
Là một viên tướng can đảm và hiểu biết chiến thuật, Nhạc Phi đã giành được nhiều thắng lợi trong các trận chiến chống lại quân đội nhà Kim. Chiếm ưu thế do những khó khăn mà quân kỵ binh của đối phương gặp phải trong địa hình đồi núi của miền nam Trung Quốc, ông đã giành được những thắng lợi mặc dù quân của ông nói chung là ít hơn. Quân của ông đã thành công trong việc giành lại lãnh thổ phía nam sông Dương Tử và sông Hoài. Tuy nhiên, cố gắng của ông nhằm thu hồi các vùng đất phía bắc mà nhà Nam Tống đã đánh mất trước đó đã bị các quan lại (là những người cho rằng chiến tranh kéo dài có thể sẽ quá tốn kém) khác chống lại.
@by txiuqw4