sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ánh sáng phương Bắc (Tập 1) - Phần I - Chương 03 - Phần 2

Tony Makarios bé nhỏ không phải là cậu bé duy nhất bị quý bà có con khỉ vàng bắt cóc. Cậu còn thấy hàng chục đứa bé khác trong hầm nhà, cả trai lẫn gái, không có đứa nào vượt quá mười hai tuổi, và dù tất cả đều có những câu chuyện như nhau, không đứa nào biết chắc về tuổi của mình. Điều Tony không để ý, tất nhiên là yếu tố tất cả chúng đều có điểm chung với nhau: không có đứa trẻ nào trong chiếc hầm ấm áp và ướt át đó đã đến tuổi dậy thì.

Quý bà tốt bụng nhìn cậu ngồi trên chiếc ghế dài dựa vào tường và được một bà giúp việc đưa cho một cốc nước chocolate từ chiếc xoong đặt trên bếp lò sắt. Tony ăn nốt chiếc bánh kẹp và uống chất nước ngọt ngào mà không quan tâm gì nhiều đến xung quanh, những người xung quanh cũng không mấy quan tâm đến cậu: cậu quá bé nhỏ để trở thành một mối đe dọa, và quá dửng dưng để biết mình trở thành một nạn nhân.

Một cậu bé khác đưa câu hỏi.

“Thưa bà. Bà đưa chúng cháu đến đây làm gì?”

Đó là một cậu bé có vẻ ngoài khá bướng bỉnh. Nước chocolate cậu vừa uống vẫn còn bám trên môi. Nhân tinh của cậu là một chú chuột đen gầy. Quý bà đứng nói chuyện với người đàn ông mập mạp có phong cách của một thuyền trưởng viễn dương, và khi bà quay lại để trả lời, đôi mắt bà nhìn vào chiếc đèn dầu khuôn mặt thiên thần, tất cả bọn trẻ đều im lặng.

“Chúng tôi cần sự giúp đỡ của các cháu. Và các cháu không ngại giúp chúng tôi, phải vậy không?”

Không đứa trẻ nào có thể nói được một lời. Chúng đều nhìn bà chằm chằm, rồi bất giác ngượng nghịu. Chưa bao giờ chúng gặp một quý bà như thế này, bà quá dịu dàng, ngọt ngào và tốt bụng đến mức chúng cảm thấy mình không xứng đá được hưởng sự may mắn được bà nhờ giúp đỡ. Dù bà có yêu cầu điều gì, chúng cũng thấy hạnh phúc vì được gần bà thêm một lúc nữa.

Bà ta nói với chúng rằng họ sắp có một chuyến đi. Chúng ta sẽ được ăn uống no nê và mặc quần áo đầy đủ, và ai muốn đều có thể gửi thư về nhà cho gia đình báo cho mọi người biết mình vẫn an toàn. Thuyền tưởng Magnusson sẽ đưa chúng lên thuyền sớm, và khi thủy triều lên, họ sẽ ra biển để đi về hướng Bắc.

Những đứa trẻ muốn gửi thư về nhà nhanh chóng ngồi quanh quý bà xinh đẹp khi bà viết mấy dòng theo ý chúng. Bà để chúng vạch một dấu X nguệch ngoạc ở cuối tờ giấy rồi gấp lại cho vào một phong bì ướp nước hoa, cuối cùng viết địa chỉ chúng đọc. Ty cũng muốn gửi thư về nhà cho mẹ, nhưng cậu có một suy nghĩ thực tế rằng mẹ cậu không biết chữ. Cậu bám lấy tay áo lông cáo của quý bà và thì thầm rằng nó muốn bà nói với mẹ cậu nơi cậu sẽ đến, thế thôi, quý bà cúi chiếc đầu thơm tho xuống đủ gần cậu bé hôi hám để nghe, và gật đầu hứa sẽ chuyển lời nhắn của cậu.

Rồi bọn trẻ tụ tập lại để tạm biệt. Con khỉ vàng vuốt ve tất cả các nhân tinh của lũ trẻ, và chúngđều vuốt ve chiếc áo lông cáo của bà để lấy may. Cũng có thể chúng đang vẽ ra chút sức mạnh hay hy vọng từ lòng tốt của quý bà, và bà ta đảm bảo mọi lợi ích của chúng, nhìn ngắm chúng được thuyền trưởng dũng cảm chăm sóc trên chiếc tàu hơi nước tại cầu tàrời đã tối, ánh sáng lấp lánh trên sông. Quý bà đứng trên cầu tàu và vẫy cho đến khi không thể nhìn thấy mặt bọn trẻ nữa.

Rồi bà ta quay vào với con khỉ vàng nép bên ngực, ném xấp thư bé nhỏ vào đống lửa trước khi quay trở lại đường cũ.

Bọn trẻ sống tại khu nhà ổ chuột rất dễ bị dụ dỗ và bắt cóc, nhưng cuối cùng mọi người cũng phát hiện ra, còn cảnh sát thì miễn cưỡng điều tra tìm kiếm. Rồi không còn ai quan tâm nữa. Nhưng những lời đồn đại bắt đầu lan tràn, qua từng người, từng người một, nó thay đổi và được thêm bớt. Một thời gian sau lũ trẻ con biến mất ở Norwich, sau đó là Sheffield, rồi Manchester. Những người dân đã nghe chuyện ở những nơi này thêm vào những vụ bắt cóc mới khiến câu chuyện hấp dẫn hơ

Và thế là huyền thoại về những nhóm người bỏ bùa mê bắt cóc trẻ con huyền bí xuất hiện. Một số người nói trưởng nhóm là một quý bà xinh đẹp, những người khác lại nói đó là một người đàn ông cao mắt đỏ, trong khi đó, câu chuyện thứ ba lại nói về một thanh niên cười và hát cho nạn nhân của mình nghe khiến chúng đi theo ngoan ngoãn như một con cừu.

Còn về việc họ đọn trẻ đi đâu, không có lời giải thích nào giống lời giải thích nào. Người thì nói chúng bị đưa xuống địa ngục, dưới mặt đất, đến chốn thần tiên. Người khác nói đến một nông trại nơi bọn trẻ bị giam cầm và vỗ béo để ăn thịt.

Người khác nói chúng bị bắt và bán làm nô lệ cho những người Tartar giàu có… Và còn nhiều cách nói khác nữa.

Nhưng một điều mọi người đều đồng ý là về chuyện tên của những kẻ bắt cóc giấu mặt kia, chúng phải có một cái tên, hoặc không bị đánh đồng chung chung, và nói về chúng - đặc biệt là khi bạn đang an toàn và yên ở nhà, hay trong Học viện Jordan, thật là một chuyện thú vị. Cái tên được dành cho chúng, mà chẳng ai biết tại sao, là Gà trống tây.

“Đừng có về muộn, nếu không bọn Gà trống tây đấy.”

“Cháu trai tôi ở Northampton, nó biết một người phụ nữ có con bị bọn Gà trống tây bắt cóc...”

“Bọn Gà trống tây đã ở Stratford. Chúng nói chúng đang đi về phía Nam.”

Và, đây là kết quả không thể tránh:

“Hãy chơi trò trẻ con và bọn Gà trống tây đi!” Lyra nói với Roger, cậu bé làm bếp. Cậu có thể đi theo cô đến cùng trời cuối đất.

“Chơi trò đó thế nào?”

“Cậu trốn còn mình sẽ tìm và cắt cậu thành từng miếng, ngay lập tức, như bọn Gà trống tây vẫn làm.”

“Cậu không biết chúng làm gì. Có thể chúng không hề làm như vậy.”

“Cậu sợ chúng,” cô nói, “mình chắc chắn thế đấy.”

“Mình không sợ. Dù sao, mình cũng không tin chúng.”

“Mình cũng thế,” cô nói vẻ quả quyết, “mình chỉ làm những gì chú mình đã làm vào lần gần đây nhất ông ấy đến Học viện Jordan. Mình đã nhìn thấy. Ông ấy ở trong Phòng nghỉ, trong đó có những người khách không mấy lịch sự, chú mình chỉ nhìn người đó một cách nghiêm khắc và người đó ngã xuống chết ngay lập tức, miệng sùi đầy bọt mép.”

“Còn lâu mới có chuyện đó.” Roger nói với giọng nghi ngờ. “Không thấy ai nói gì về chuyện ấy trong bếp cả. Dù sao, cậu cũng không được phép vào Phòng nghỉ.”

“Tất nhiên là không. Họ không nói cho những người giúp việc những chuyện như vậy. Và mình đã từng ở trong Phòng nghỉ. Dù sao đi nữa, chú mình luôn luôn làm như vậy. Chú ấy đã làm như vậy với một vài người Tartar khi họ bắt chú ấy. Họ trói chú ấy lại và chuẩn bị mổ bụng chú ấy. Nhưng khi người đàn ông đầu tiên xông tới với con dao trên tay, chú mình chỉ việc nhìn vào hắn ta, và hắn ta lăn ra chết. Bọn còn lại chạy đến và chú ấy cũng làm tương tự, cuối cùng chỉ còn lại một tên. Chú mình nói ông sẽ tha cho hắn sống nếu hắn cởi trói cho chú ấy. Hắn đã làm theo, và chú mình vẫn giết hắn để dạy cho hắn một bài học.”

Roger không chắc chắn lắm về điều này cũng như về bọn Gà trống tây. Nhưng câu chuyện thú vịđể có thể bỏ phí, vì thế chúng chuyển sang đóng vai Ngài Asriel và bọn Tartar, và dùng nước tắm cốt chanh để làm bọt mép.

Tuy nhiên, đó chỉ là một cách lấp liếm vì Lyra vẫn muốn chơi trò Gà trống tây. Cô dụ dỗ Roger xuống hầm rượu và chúng vào đó bằng bộ chìa khóa sơ cua của ông quản gia. Cùng nhau chúng nhón chân đi dưới những mái vòm, nơi rượu Tokey, Canary, Burgundy và Brantwin của Học viện được sắp xếp một cách rắc rối theo số năm tuổi. Những khung tò vò bằng đá cổ phía trên đầu chúngđược đỡ bởi những cây cột to gấp mười lần độ lớn của một thân cây, các phiến đá lát các chai và thùng rượu. Thật là cuốn hút. Những tên Gà trống tây lại bị lãng quên, hai đứa trẻ nhón gót đi từđầu này đến đầu kia, cầm một cây nến trên tay với những ngón tay run rẩy, nhìn ngó từng góc tối. Một câu hỏi nảy ra trong óc Lyra mỗi lúc một bức bối: Rượu có mùi vị thế nào?

Có một cách đơn giản để trả lời câu hỏi của Lyra. Lyra, bỏ qua sự phản đối kịch liệt của Roger, cầm lên một chai lâu năm nhất, hình dáng kỳ lạ nhất và có màu xanh lá cây đậm nhất có thể tìm thấy. Không có gì để mở nút chai, cô đập vỡ chỗ cổ chai. Chúng ngồi tụm với nhau trong góc xa nhất, uống từng ngụm chất lđỏ sẫm rất bốc, tự hỏi bao giờ thì chúng sẽ say, và làm thế nào chúng có thể nói khi đã say. Lyra không thích mùi vị của rượu lắm, nhưng cô phải công nhận loại rượu này rất ngon và dễ uống. Buồn cười nhất là nhìn hai con nhân tinh của họ, có vẻ như đầu óc chúng ngày càng mụ đi. Chúng ngã lăn ra và cười rúc rich như điên, biến thành những cái phễu và cố trở nên xấu xí hơn.

Cuối cùng, gần như cùng lúc, bọn trẻ phát hiện ra say rượu là thế nào.

“Có phải say rượu là thế này không?” Roger thở hổn hển, sau khi nôn thốc nôn tháo.

“Đúng vậy.” Lyra nói, cũng trong tình trạng tương tự. “Cả mình cũng say rồi.” cô nói thêm một cách bướng bỉnh.

Lyra chẳng học được gì từ việc đó ngoại trừ việc chơi trò Gà trống tây dẫn đến những nơi rất thú vị. Cô nhớ đến những lời chú mình nói trong lần nói chuyện gần đây nhất giữa họ, và bắt đầu khám phá tầng hầm, vì những gì trên mặt đất chỉ là một phần nhỏ của cả khu Học viện. Khoảng từ thời Trung cổ, Jordan (nhận thấy nó đang chen nhau một bên là Học viện Thánh Michael, một bên là Học viện Gabriel, còn phía sau là Thư viện của đại học) đã bắt đầu mở rộng khu tầng ngầm của mình. Những đườngm, đường ống thông, mái vòm, mái trần, cầu thang được đào sâu trong lòng đất phía dưới Jordan rộng hàng nghìn mét đến mức bên dưới cũng có nhiều không gian như bên trên. Học viện Jordan đang đứng trên một cái móng rỗng.

Và bây giờ Lyra thích thú được khám phá nó, cô từ bỏ sào huyệt cũ của mình, những chỗ trú ẩn trên mái trần Học viện và cùng Roger lao vào thế giới lạ lẫm này. Từ việc chơi trò Gà trống tây đứa trẻ chuyển sang săn chúng, vì còn gì giống hơn việc chúng đang lẩn dưới lòng đất?

Vì thế một ngày nọ cô và Roger tìm đường vào khu hầm mộ dưới Nhà nguyện. Đây là nơi các thế hệ Hiệu trưởng đã được chôn cất, mỗi người được đặt trong chiếc quan tài gỗ sồi nẹp chì xếp dọc những bức tường đá. Một viên đá phía dưới khắc tên họ:

SIMON LE CLERC

HIỆU TRƯỞNG 1765—1789

CEREBATON

YÊN NGHỈ

“Thế có nghĩa là gì vậy?” Roger hỏi.

“Phần đầu tiên là tên ông Hiệu trưởng, và cụm cuối cùng là chữ La Mã. Còn các năm ở giữa là thời gian ông ta làm Hiệu trưởng. Cái tên còn lại chắc là nhân tinh của ông ta. “

Chúng đi dọc mái vòm tĩnh lặng, nhìn những chữ trên các tấm đá khác.

FRNCIS LYALL

HIỆU TRƯỞNG 1748—1765

ZOHARIAL

YÊN NGHỈ

IGNATIUS COLE

HIỆU TRƯỞNG 1745—1765

MUSCA

YÊN NGHỈ

Trên mỗi chiếc quan tài, Lyra thích thú khi thấy một tấm bảng đồng gắn những hình ảnh khác nhau: một con giống túi, một con rắn, hay một con khỉ. Cô nhận ra đó là hình ảnh những con nhân tinh của người chết. Khi con người đến giai đoạn trưởng thành của họ sẽ mất đi sức mạnh biến hình và khoác lấy một bộ dạng cố định không thay đổi nữa.

“Trong mỗi chiếc quan tài này có một bộ xương người!” Roger thầm thì.

“Thân xác vẫn còn nguyên,” Lyra thì thầm lại, “và giòi bọ đang ngọ nguậy trong mắt bọn họ đấy.”

“Chắc dưới này thể nào cũng có ma,” Roger nói rùng mình một cách thích thú.

Dưới hầm mộ đầu tiên chúng tìm thấy một lối đi hai bên có xếp các giá xây bằng đá. Mỗi giá chia thành từng ô vuông, trong mỗi ô vuông là một chiếc xương sọ.

Nhân tinh của Roger, đuôi nhét chặt giữa hai chân, run rẩy nép vào người Roger và khe tru lên.

“Suỵt,” Roger nói.

Lyra không nhìn thấy Pantalaimon, nhưng cô biết nó đã biến thành bướm đêm đậu trên vai cô, có lẽ cũng đang run bắn.

Cô tiến đến và nhẹ nhàng nhấc chiếc xương sọ gần nhất khỏi nơi đặt nó.

“Cậu đang làm gì vậy?” Roger hỏi. “Cậu không được phép động vào chúng!”

Cô lật đi lật lại nó, không quan tâm đến lời Roger. Có gì đó đột nhiên rơi khỏi cái lỗ dưới đáy xương sọ, lọt qua kẽ tay cô và rơi xuống sàn nhà khiến cô suýt đánh rơi chiếc sọ vì bất ngờ.

“Một đồng xu!” Roger nói, sờ vào nó. “Có lẽ là một kho báu đấy!”

Cậu mang đồng xu đến gần ngọn nến và cả hai đứa trẻ đều mở to mắt. Đó không phải là một đồng xu, mà là một tấm đồng nhỏ khắc hình một con mèo.

“Giống như hình trên chiếc quan tài,” Lyra nói. “Đây là nhân tinh của ông ta. Chắc chắn là vậy.”

“Tốt hơn là trả nó về chỗ cũ.” Roger nói một cách khó khăn, và Lyra lật ngược chiếc xương sọ, thả tấm đồng lại nơi an nghỉ từ xa xưa trước khi trả chiếc sọ vào vị trí trên giá. Chúng phát hiện ra trong mỗi chiếc sọ đều có hình tấm đồng khắc hình con nhân tinh của người đó, thể hiện rằng người bạn đồng hành suốt đời của chủ nhân vẫn gần bên cả trong cái chết.

“Cậu nghĩ những người này là ai khi còn sống?” Lyra hỏi.

“Có lẽ là các Học giả, mình đoán vậy. Chỉ có các Hiệu trưởng mới có quan tài. Có thể qua hàng thế kỷ có quá nhiều Học giả đến mức không đủ chỗ đề mai táng họ, vì thế người ta chỉ cắt đầu họ và giữ lại. Dù sao thì đó cũng là phần quan trọng nhất của họ.”

Chúng không tìm được một tên Gà trống tây nào, nhưng những hầm mộ dưới Nhà nguyện giữ Lyra và Roger bận bịu cả ngày. Một lần cô đã thử trêu đùa với các Học giả đã chết, bằng cách thay đổi vị trí các tấm đồng trong chiếc sọ khiến con nhân tinh trong đó không còn đúng với người chủ nữa. Pantalaimon bị kích động bởi chuyện này đến mức nó biến thành một con dơi, bay lên bay xuống kêu lên những tiếng the thé điếc tai và đập cánh vào mặt Lyra, nhưng cô không quan tâm, đây là một trò đùa quá vui để có thể bỏ qua. Tuy nhiên, sau đó cô đã phải trả giá cho chuyện này. Trên chiếc giường trong căn phòng nhỏ tại đỉnh của Cầu thang Mười hai, cô được mấy bóng ma viếng thăm đứng bên cạnh giường. Họ giơ những ngón tay xương xẩu về phía cô rồi giật chiếc mũ trùm đầu của mình ra để lộ vết đang rỉ máu nơi đáng lẽ phải có chiếc đầu. Chỉ khi Pantalaimon biến thành con sư tử và gầm lên, họ mới chịu rút lui qua các bức tường cho đến khi tất cả những gì còn nhìn thấy được là cánh tay, rồi những bàn tay vàng vọt xanh xao, rồi đến những ngón tay cào xé, và không còn gì nữa. Điều đầu tiên cô làm vào sáng hôm sau là hối hả lao xuống hầm mộ vừa đặt những tấm đồng về đúng chủ vừa thì thầm “Xin lỗi! Xin lỗi!” với những chiếc xương sọ.

Khu hầm mộ rộng lớn hơn hầm rượu rất nhiều nhưng nó cũng có giới hạn. Khi Lyra và Roger đã khám phá hết tất cả các góc và chắc chắn không có tên Gà trống tây nào để tìm kiếm ở đây, chúng chuyển sự quan tâm sang hướng khác - nhưng chưa kịp làm thì chúng bị Cha cố gọi trở lại Nhà nguyện.

Cha cố người đàn ông cao tuổi béo mập thường được gọi là Cha Heyst. Công việc của cha là chủ trì mọi vấn đề tế lễ của Học viện, thuyết giáo, cầu nguyện và nghe xưng tội. Khi Lyra còn nhỏ, Cha đã quan tâm đến phần hồn của cô. Cô đáp lại bằng cách giễu cợt với thái độ lãnh đạm láu cá và sự ăn năn giả bộ của mình. Cô không hứa hẹn là một con chiên ngoan đạo, ông đã nhận ra là như vậy.

Khi nghe tiếng ông gọi, Lyra và Roger miễn cưỡng quay ra, kéo lê chân, bước vào Nhà nguyện rộng lớn tù mù toàn mùi nấm mốc. Ánh nến lung linh khắp mọi phía trước các bức tượng thánh, tiếng lách cách xa xa vọng lại từ phòng để đàn ống, một người Gypsy đang đánh bóng bục giảng kinh bằng đồng thau. Cha Heyst đang vẫy từ cửa vào phòng họp dành cho những người đóng góp cho nhà xứ.

“Các con ở đâu vậy?” Ông nói với chúng. “Ta chỉ thấy con đến đây được hai hay ba lần. Các con phải làm gì nào?”

Giọng điệu ông ta không có vẻ kết tội. Có vẻ ông muốn thể hiện mình chỉ có ý quan tâm. Con nhân tinh của ông đang đập chiếc đuôi thằn lằn trên vai ông.

Lyra trả lời. “Chúng con muốn xem hầm mộ một chút.”

“Để làm gì mới được chứ

“Để xem… quan tài. Chúng con muốn xem tất cả các quan tài.” Cô trả lời.

“Nhưng tại sao nào?”

Cô nhún vai. Đây là phản ứng quen thuộc của cô mỗi khi bị hỏi dồn.

“Còn con,” ông tiếp tục, quay sang Roger, nhân tinh của Roger đang lo lắng vẫy chiếc đuôi chó sục của mình để làm ông nguôi ngoai, “tên con là gì?”

“Roger, thưa Cha.”

“Nếu con là một người giúp việc, thì con làm việc ở đâu?”

“Trong bếp, thưa Cha.”

“Vậy con có phải có mặt ở đó vào lúc này không?”

“Có, thưa Cha.”

“Vậy thì cho con đi.”

Roger quay người chạy đi. Lyra di di chân trên nền nhà.

“Còn với con, Lyra,” Cha Heyst nói, “ta thấy hài lòng khi thấy con quan tâm đến những gì nằm trong Nhà nguyện. Con là một đứa trẻ may mắn, khi được sống trong tất cà những thứ lịch sử như thế này.”

“Vâng,” Lyra nói.

“Nhưng ta thấy thắc mắc về cách chọn bạn của con. Con có phải một đứa trẻ cô độc không?”

“Không.” Cô nói.

“Con có… con có thèm muốn cuộc sống của những đứa trẻ khác không?”

“Không.”

“Ta không nói đến cậu bé Roger làm bếp. Ta muốn nói đến những đứa trẻ giống như con. Đứa trẻ xuất thân cao quý. Con có muốn có vài người bạn như thế?“

“Không.”

“Những… những cô bé gái khác, có thể…”

“Không.”

“Con biết đấy, không ai trong chúng ta muốn mất đi tất cả những niềm vui và trò tiêu khiền bình thường của tuổi thơ. Đôi lúc ta nghĩ cuộc sống sẽ cô đơn lắm với con ở đây giữa những Học giả lớn tuổi, Lyra ạ. Con có thấy vậy không?”

“Không.”

Ông chụm hai ngón cái vào nhau trên hai bàn tay đang đan các ngón, không nghĩ ra thêm bất cứ điều gì để nói với đứa trẻ bướng bỉnh này.

“Nếu có điều gì khó khăn với con,” cuối cùng ông nói, “con biết con có thể đến tâm sự với ta. Ta hy vọng con luôn cảm thấy có thể làm như vậy.”

“Vâng,” cô nói.

“Con vẫn cầu nguyện đấy chứ?”

“Vâng.”

“Cô bé ngoan. Thôi, con đi chơi đi.”

Với một vẻ được giải thoát khó giấu giếm, cô quay người đi. Không tìm được những Gà trống tây dưới lòng đất, cô quay ra đường. Ở đó, cô như được về nhà.

Rồi, khi cô gần như đã không còn hứng thú gì với chúng, những con Gà trống tây lại xuất hiện tại Oxford.

Đó là vào quãng thời gian diễn ra Hội chợ ngựa, lòng sông chật kín những chiếc thuyền nhỏ và thuyền nửa mui, những thương nhân và khách du lịch. Những bến tàu dọc khu cảng tại Jericho rực rỡ ánh đèn cùng tiếng ồn ào của móng ngựa xen lẫn tiếng người mặc cả. Lyra luôn thích thú với các Hội chợ ngựa, cũng như cơ hội được ngồi thử trên lưng một con ngựa không-hiếu-thắng-lắm, có vô số các nguy cơ có thể khiến chúng nổi khùng.

Và năm nay cô có một kế hoạch lớn. Thích thú với cuộc truy đuổi chiếc thuyền nhỏ năm trước, lần này cô định có một chuyến đi trước khi bị phát hiện. Nếu cô và các đồng đội làm việc trong các bếp ăn Học viện của mình có thể đến được tận Abingdon, họ có thể đánh chiếm đập nước…

Nhưng năm nay không có cuộc chiến nào cả. Khi cô đi tha thẩn quanh khu đỗ thuyền tại cảng Meadow trong ánh nắng sớm cùng hai đứa trẻ lang thang khác, truyền tay nhau điếu thuốc lá ăn cắp được và phì khói thuốc một cách tự hào, cô nghe thấy một tiếng hét rất quen.

“À, hóa ra mày đã làm thế với nó hả, đồ ngu?”

Đó là một giọng nói khỏe khoắn, giọng của một người phụ nữ có lá phổi bằng đồng. Ngay lập tức Lyra nhìn quanh tìm kiếm, vì đó là Mẹ Costa, người đã tát Lyra chóng váng hai lần nhưng lại cho cô bánh gừng nóng đến ba lần, và gia đình bà được chú ý bởi họ có một chiếc thuyền to lớn và lộng lẫy. Họ là hoàng tử giữa đám người Gypsy, Lyra rất hâm mộ Mẹ Costa, nhưng dù gì thỉnh thoảng cô vẫn cảnh giác với bà, vì đó là con thuyền bà ta đã đánh cắp.

Một trong những đồng minh của Lyra tự động nhặt một hòn đá khi cậu nghe thấy tiếng nói, nhưng Lyra nói. “Hãy vứt xuống. Bà ấy đang nổi cơn tam bành. Bà ấy có thể bẻ gẫy xương sống cậu như bẻ một cành củi đấy.”

Thực ra, trông Mẹ Costa có vẻ lo lắng hơn là tức giận. Người đàn ông đang nói chuyện với bà, một lái buôn ngựa, đang nhún vai và giang tay.

“Vâng, tôi không biết.” ông ta nói. “Ông ta ở đây một phút rồi đi ngay. Tôi không biết ông ta đi đâu…”

“Ông ta đang giúp anh! Ông ta đang giữ những con ngựa hăng máu của anh để giúp đỡ anh!”

“Ồ, ông ta không thể ở đây được, phải không? Bỏ việc giữa chừng…”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx