sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ánh sáng phương Bắc (Tập 1) - Phần I - Chương 09 - Phần 2

Đầu tiên Lyra nghe những câu chuyện đó với thái độ vui vẻ, còn sau đó là chán nản. Tất cả mọi người đều ghét và sợ cô! Cô mong mỏi được ra khỏi chiếc cabin chật hẹp như một chiếc thùng này. Cô mong rằng mình đã ở trên phương Bắc, trong màn tuyết mênh mông dưới hiện tượng Cực quang rực rỡ. Và đôi khi cô mong được quay trở về Học viện Jordan, bò lê trên những mái nhà cùng Roger, nghe ting chuông của người Quản lý rung lên nửa tiếng trước bữa tối và những tiếng loảng xoảng, lèo xèo hay kêu la trong Nhà bếp… Rồi cô lại say sưa mơ rằng chưa có chuyện gì thay đổi, không có chuyện gì thay đổi, rằng cô có thể là Lyra của Học viện Jordan mãi mãi, mãi mãi.

Điều duy nhất có thể kéo cô ra khỏi nỗi chán chường và bực bội là La bàn vàng. Cô đọc nó hàng ngày, đôi khi cùng Farder Coram, đôi khi một mình, cô nhận thấy cô có thể ngày càng ham thích đắm mình sự tĩnh tâm để nghiên cứu những ý nghĩa của biểu tượng, những dãy núi sừng sững được ánh mặt trời chiếu sáng xuất hiện trong tâm trí.

Cô gắng hết sức giải thích cho Farder Coram nó có cảm giác thế nào.

“Nó gần giống như nói chuyện với ai đó, chỉ có điều ông không thể nghe rõ họ nói gì, và ông cảm thấy như thể mình ngớ ngẩn vì họ thông minh hơn ông, chỉ có điều họ không chịu đau khổ hay gì đó… Họ biết rất nhiều, Farder Coram ạ! Dường như họ biết hết mọi thứ, gần như vậy! Bà Coulter rất thông minh, bà ấy biết rất nhiều, nhưng đây là một loại kiến thức khác… Đó giống như sự thấu hiểu, cháu nghĩ vậy…”

Ông thường đưa ra những câu hỏi đặc biệt, còn cô tìm kiếm câu trả lời.

“Hiện bà Coulter đang làm gì vậy?” ông hỏi, đôi tay cô làm việc ngay lập tức. Ông hỏi: “Hãy nói cho ta biết mẹ cháu đang làm gì?”

“Vâng, Đức mẹ là bà Coulter, cháu nghĩ đến mẹ cháu khi đặt chiếc kim vào đó; con kiến là sự bận rộn — cái này thì dễ, đó là ý nghĩa đầu tiên; và một trong những ý nghĩa của chiếc đồng hồ cát là thời gian. Giờ thì gạt chiếc kim xuống đây, và vừa áp đặt suy nghĩ của mình lên nó.”

“Và làm thế nào cháu biết được ý nghĩa đó ở đâu?”

“Gần như cháu nhìn thấy nó. Hay đúng hơn là cảm nhận nó, như leo xuống một chiếc thang vào ban đêm, đặt chân xuống và lại có một thanh ngang khác. Vậy, cháu đặt tâm trí của mình xuống và lại có một ý nghĩa khác, cháu gần như cảm nhận được nó là gì. Rồi cháu đặt chúng lại gần nhau. Có một thủ thuật, như làm lác mắt ấy.”

“Vậy hãy làm đi, rồi xem nó nói gì?”

Lyra làm theo. Chiếc kim dài lập tức dịch chuyển, và dừng lại, lại dịch chuyển, lại dừng lại tại hàng loạt những điềm chính xác rồi lại dừng lại. Nó cũng có cảm giác uyển chuyển và mạnh mẽ như Lyra đang cảm nhận, như một con chim non đang tập bay. Farder Coram, quan sát từ phía bên kia bàn, chú ý những nơi chiếc kim dừng lại, quan sát cô bé giữ cho tóc khỏi xòa vào mặt và khẽ cắn môi, đôi mắt cô dõi theo chiếc kim, nhưng sau đó, khi hành trình của nó đã được xác định, cô lại nhìn đâu đó trên mặt La bàn. Tuy nhiên, đó không phải là ngẫu nhiên. Farder Coram là người chơi cờ, ông biết những người chơi nhìn nhận cuộc chơi như thế nào trong khi chơi. Một tay chơi chuyên nghiệp dường như thấy được những năng lực và ảnh hưởng trên bàn cờ, nhìn dọc những tuyến quan trọng mà bỏ qua những điểm yếu; đôi mắt Lyra cũng dõi theo một đường như vậy, theo một từ trường tương tự mà cô có thể thấy, còn ông thì không.

Chiếc kim dừng lại ở tia sét, đứa bé, con rắn, con voi, và một vật Lyra không tìm ra tên để đặt cho nó: một loại thằn lằn mắt to, chiếc đuôi cuốn xung quanh cành cây nang đứng. Sự kết hợp này lặp đi lặp lại nhiều lần, trong khi đó Lyra vẫn quan sát.

“Con thằn lằn đó mang ý nghĩa gì vậy?” Farder Coram hỏi, phá vỡ sự tập trung của cô.

“Cháu không có ý tưởng gì… Cháu có thể hiểu nó nói gì, nhưng chắc hẳn cháu không đọc ra được nó. Cháu nghĩ tia sét là sự giận dữ, đứa bé, cháu nghĩ là cháu… Cháu đang cố cho con thằn lằn một ý nghĩa, nhưng ông hỏi cháu, Farder Coram, làm cháu quên béng mất. Đấy, giờ thì không biết nó trôi nổi đi đâu mất rồi.”

“À, ta thấy rồi. Ta xin lỗi, Lyra ta thật là đáng trách. Cháu đã mệt chưa? Cháu có muốn nghỉ không?”

“Không, cháu không muốn nghỉ,” cô nói, nhưng hai má cô ửng đỏ và đôi mắt sáng rực. Cô có tất cả các dấu hiệu của việc bực bội do hào hứng quá mức, và nó còn trở nên tệ hơn do cô phải trốn trong cabin chật hẹp quá lâu.

Ông nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời đã gần tối, họ đang đi dọc theo dải nước trong nội địa trước khi đến được bờ biển. Vùng bọt váng màu nâu rộng lớn của sông dưới bầu trời ảm đạm kéo dài đến một dải những thùng đựng than, bên cạnh một nhà máy lọc dầu tỏa khói đen dày đặc đang uể oải hòa vào những đám mây.

“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Lyra hỏi. “Cháu có thể thấy ra ngoài một chút được không, Farder Coram?”

“Đây là vùng sông Colby,” ông trả lời. “Cửa sông Cole. Khi chúng ta ra đến được thành phố, chúng ta sẽ buộc thuyền gần khu Chợ khói và đi bộ lên bến tàu. Chúng ta sẽ đến đó trong một hoặc hai giờ tới…”

Nhưng trời đang tối dần, trong khung cảnh hoang vắng tiêu tàn của con sông, chẳng có gì chuyển động ngoài con thuyền của họ và tiếng máy vang lên từ nhà máy lọc dầu xa xa; Lyra đang mệt đến phát sốt, cô đã ở bên trong thuyền quá lâu; vì thế Farder Coram nói tiếp:

“Ừ, ta không cho rằng việc ở bên ngoài vài phút là chuyện gì ghê gớm. Nhưng ta không coi như thế là hít thở không khí trong lành cho đến khi chúng ta ra được đến biển. Nhưng cháu có thể đứng ở đầu thuyền và nhìn ra ngoài trong khi chờ đợi đến lúc đó.“

Lyra đứng lên, Pantalaimon biến thành một con hải âu ngay lập tức, hào hứng sải đôi cánh trong không gian. Bên ngoài rất lạnh, dù cô đã mặc áo ấm cẩn thận, Lyra nhanh chóng rùng mình. Pantalaimon, ngược lại, bay lượn trong không khí, kêu to thích thú, nhào lộn, lướt và lao như mũi tên, lúc thì phía trước thuyền, lúc dưới đuôi tàu. Lyra cảm thấy hân hoan trước cảnh đó, cảm thấy như mình cũng đang bay như nó, và giục nó hãy thách con nhân tinh của người thợ máy cùng đua. Nhưng con chim cốc phớt lờ nó và đậu xuống ngủ trên chiếc máy xới gần chủ của mình.

Không có sự sống nào trên vùng đất nâu cằn cỗi này, chỉ có tiếng máy bình bịch và tiếng nước bắn tung tóe dưới mũi tàu phá vỡ sự im lặng mênh mông. Những đám mây nặng nề treo là là nhưng không mang theo mưa, vùng không khí phía dưới đầy khói ảm đạm. Chỉ có Pantalaimon đang duyên dáng bay lượn là mang chút hơi hướng s sống và tươi vui.

Khi nó đang lao lên lao xuống lặn ngụp với sải cánh trắng nổi bật trên nền trời màu nâu, một thứ gì đó màu đen văng tới và đập vào người nó. Nó ngã sang một bên vì sốc và đau, Lyra hét lên, cảm thấy như chính mình đang đau đớn. Một thứ màu đen khác nữa hợp vào với cái thứ nhất, chúng chuyển động không giống loài chim, mà giống những con bọ cánh cứng bay, nặng nề và thẳng hướng, phát ra những tiếng vo ve.

Khi Pantalaimon ngã xuống, cố gắng quay người và trở lại chiếc thuyền cùng đôi tay Lyra đang tuyệt vọng, những thứ màu đen vẫn tiếp tục lao vào nó, kêu vo ve, lao xao và đầy thù hằn. Lyra gần như phát điên với sự sợ hãi của Pantalaimon và của chính mình. Nhưng lúc đó có thứ gì đó lao qua cô bay lên trên.

Đó là con nhân tinh của người thợ máy, dù trông có vẻ chậm chạp nặng nề, nó bay rất khỏe và nhanh. Nó táp bên này bên kia, đôi cánh đen vùng vẫy, thứ gì màu trắng vỡ ra, và một thứ nhỏ màu đen rơi xuống mặt sàn trải nhựa đường của cabin ngay dưới chân Lyra, đúng lúc Pantalaimon đậu xuống cánh tay vươn thẳng của cô.

Trước khi cô kịp vỗ về nó, nó biến thành một con mèo hoang và lao xuống sinh vật lạ, đánh nó lui vào chân tường, nó quay cuồng cào cấu để thoát thân. Pantalaimon giữ chặt nó xuống những móng vuốt sắc nhọn và nhìn lên bầu trời đang sẫm dần, nơi đôi cánh đen của con chim cốc đang lượn vòng cao hơn để tìm kiếm sinh vật màu đen khác.

Rồi con chim cốc lượn nhanh về và kêu gì đó với người thợ máy. Ông ta nói:

“Nó đi rồi. Đừng để con kia trốn thoát. Đây…” và ông hắt chút nước còn lại trong chiếc ca sắt ông đang uống đi rồi ném nó cho

Cô chụp nó ngay lên sinh vật lạ đó. Nó kêu vè vè và gầm gừ như một động cơ.

“Giữ chặt nó đấy nhé,” Farder Coram từ phía sau cô nói, rồi ông quỳ xuống luồn một tấm bài phía dưới chiếc ca.

“Nó là thứ gì vậy, Farder Coram?” Cô run rẩy hỏi.

“Chúng ta hãy xuống phía dưới xem thế nào. Cầm nó cẩn thận nhé, Lyra. Cầm thật chắc vào.”

Cô nhìn con nhân tinh của ngườiợ máy khi đi xuống, định cảm ơn nó, nhưng đôi mắt già cả của nó đang nhắm. Thay vào đó cô cảm ơn người thợ máy.

“Cô nên ở bên dưới thì hơn.” Ông chỉ nói có vậy.

Cô mang chiếc ca vào trong ca bin, Farder Coram đã tìm thấy một chiếc cốc đựng bia. Ông dốc ngược chiếc ca sắt lên trên chiếc cốc rồi rút tấm bài chắn giữa chúng ra, sinh vật lạ rơi xuống chiếc cốc. Ông nâng nó lên để mọi người có thể thấy rõ thứ sinh vật bé nhỏ đang giận dữ.

Nó dài khoảng bằng ngón tay cái của Lyra, màu xanh lá cây thẫm, không phải màu đen. Cánh cứng của nó giương lên, như một con bọ dừa đang sắp bay, chiếc cánh bên trong đang đạp dữ dội đến mức trông nó chỉ như một vết mờ. Sáu chân có móng của nó đang bám lấy mặt thủy tinh nhẵn bóng.

“Nó là cái gì vậy?” Lyra hỏi.

Pantalaimon, vẫn trong hình dáng một con mèo hoang, trèo lên chiếc bàn cách đó mấy mét, đôi mắt màu xanh lá cây của nó đảo qua đảo lại, nhìn theo sinh vật trong chiếc cốc.

“Nếu cháu bẻ nó ra,” Farder Coram nói, “cháu sẽ thấy không có thứ gì sống trong đó cả. Không phải động vật cũng không phải côn trùng, chắc chắn là như vậy. Trước đây ta đã nhìn thấy một con như thế không bao giờ nghĩ có thể gặp lại chúng ở một nơi mãi tận phương Bắc. Một thứ đến từ Châu Phi. Có một bộ máy chạy trong đó, có thứ đồng hồ lên dây cót làm con tim chi phối nó.”

“Nhưng ai gửi nó đến đây chứ?”

“Cháu thậm chí không cần phải đọc được biểu tượng, Lyra. Cháu có thể đoán dễ dàng như ta vậy.”

“Bà Coulter?”

“Tất nhiên rồi. Bà ta không chỉ lên thám hiểm phương Bắc, có rất nhiều thứ kỳ lạ có thể tìm thấy ở phương Nam hoang dã. Morocco là nơi lần cuối cùng ta nhìn thấy một trong những thứ này. Nguy hiểm chết người; một khi đồng hồ dây cót vẫn còn chế ngự nó, nó sẽ không bao giờ ngừng lại, và khi cháu thả tự do cho nó, nó sẽ nổi giận khủng khiếp đến mức nó giết chết thứ gì đầu gặp được”

“Nhưng mục đích phía sau nó là gì?”

“Do thám. Ta thật là ngu ngốc khi để cháu ra ngoài. Và đáng lẽ ta phải không cắt đứt dòng suy nghĩ của cháu để cháu tìm ra ý nghĩa của biểu tượng.”

“Cháu nghĩ ra rồi!” Lyra đột ngột reo lên thích thú. “Nó có nghĩa là không khí, con thằn lằn ấy! Cháu nhìn thấy, nhưng không thể hiểu được tại sao, vì thế cháu cố gắng tìm ra, rồi cháu bị đứt mạch suy nghĩ và quên mất.”

“À,” Farder Coram nói, “thế thì ta cũng hiểu rồi. Đó không phải là một con thằn lằn, nguyên nhân là như thế đấy. Đó là một con tắc kè hoa. Và nó tượng trưng cho không khí vì nó không ăn cũng không uống, nó chỉ sống nhờ không khí.”

“Còn con voi?”

“Châu Phi.” Ông nói, và reo lên. “Aha.”

Họ nhìn nhau. Càng khám phá thêm về sức mạnh của La bàn vàng, họ càng thấy sợ hãi trước nó.

“Lần nào nó cũng cảnh báo chúng ta về những chuyện này,” Lyra nói. “Đáng ra chúng ta phải nghe nó. Nhưng chúng ta có thể làm gì với thứ này, Farder Coram? Chúng ta có nên giết nó hay làm gì không?”

“Ta không biết, vì ta có thể làm bất cứ điều gì cũng được. Có thể chúng ta chỉ việc giữ chặt nó trong một chiếc hộp và không bao giờ thả nó ra. Điều làm ta lo lắng là con còn lại, đã trốn thoát. Giờ thì nó đang bay trở lại với bà Coulter, báo tin rằng nó đã nhìn thấy cháu. Ta thật đáng nguyền rủa, Lyra ạ. Sao ta lại ngu ngốc thế chứ.”

Ông loay hoay một lúc ở chiếc tủ búp phê và tìm thấy một hộp thiếc đựng lá thuốc có đường kính khoảng tám xăngtimet. Nó vốn được dùng để đựng các thứ ốc vít, nhưng ông đổ các thứ trong đó ra và lau mặt trong bằng một tấm vải buồm trước khi dốc ngược chiếc cốc lên trên, tấm bìa vẫn để trên miệng cốc.

Sau một lúc, khi một trong những chiếc chân của sinh vật thò ra và đẩy chiếc hộp với sức mạnh bất ngờ, họ bắt nó lại và đóng chặt chiếc hộp.

“Ngay khi chúng ta đến được tàu, ta sẽ cắt một số lính canh quanh bờ để đảm bảo an toàn,” Farder Coram nói.

“Nhưng bộ máy trong người nó có thể bị hỏng chứ?”

“Với một bộ máy bình thường, thì đúng là như vậy. Nhưng như ta đã nói, nó bị trói buộc bởi thứ tinh thần đó đến tận giây phút cuối cùng. Càng vùng vẫy, nó sẽ càng bị buộc chặt hơn, và sức mạnh chi phối nó càng trở nên dữ dội. Giờ thì hãy cho anh chàng này vào một chỗ…”

Ông gói chiếc hộp thiếc bằng một mảnh vải flannel để giảm bớt tiếng vù vù không ngớt, rất nó dưới gầm chiếc giường ông nằm.

Trời đã tối, Lyra nhìn ra ngoài cửa sổ khi những vùng sáng của Colby tiến lại gần hơn. Bầu không khí nặng nề ngày càng dày đặc và trở thành sương mù. Đến khi họ buộc thuyền vào bến tàu dọc Chợ khói, mọi thứ trong tầm mắt trở nên mờ ảo. Bóng tối lan đến những tấm lợp màu xám bạc long lanh như đính ngọc trai do dính sương đêm phủ trên những mái nhà kho hay cần trục, những quầy bán thuốc đóng bằng gỗ, tòa nhà nhiều ống khói bằng đá granit mà khu chợ được đặt tên theo đó, nơi suốt ngày đêm cá được treo và hun khói góp phần làm bầu không khí ẩm ướt, mùi nồng nồng dễ chịu của cá hồi, cá thu và cá êfin hun khói dường như ngấm vào từng viên cuội lót đường.

Lyra, cuốn mình trong tấm áo choàng với một chiếc mũ chụp lớn che mái tóc, đi giữa Farder Coram và người thợ máy. Cả ba con nhân tinh đều rất cảnh giác, sục sạo từng ngóc ngách phía trước, trông chừng phía sau, lắng nghe từng bước chân xa nhất vọng lại.

Nhưng họ là những người duy nhất trên đường. Những người dân Colby đều đã ở trong nhà, có lẽ họ đang nhấm nháp từng ngụm Jenniver bên cạnh bếp lò rít. Họ không nhìn thấy người nào cho đến khi đến được bến tàu, người đầu tiên họ nhìn thy là Tony Costa, anh đang đứng cạnh cửa.

“Ơn Chúa, mọi người đã đến.” Anh khẽ nói, để họ đi qua. “Chúng tôi vừa nghe tin Jack Verhoeven đã bị bắn và thuyền của ông ấy bị đắm. Không ai biết tin ông đang ở đâu. John Faa đã lên tàu và nóng lòng muốn khởi hành.”

Với Lyra chiếc tàu thật vĩ đại: một phòng lái và ống khói ở giữa tàu, một boong lớn đuôi tàu, một cần trục to phía trên cửa sập che vải bạt; ô cửa sổ có ánh đèn vàng và chiếc cầu, ánh đèn màu trắng ở đầu cột buồm; ba hay bốn người đàn ông đang đứng trên boong, hối hả làm một việc gì đấy mà cô nhìn không rõ.

Cô vội vã đi lên cầu tàu phía trước Farder Coram và nhìn quanh một cách thích thú. Pantalaimon biến thành một con khỉ và ngay lập tức trèo ngay lên cần trục, nhưng cô gọi nó xuống ngay. Farder Coram muốn họ ở bên trong, hoặc bên dưới, những phòng dùng cho một con tàu lớn.

Xuống dưới mấy bậc cầu thang có một phòng khách nhỏ nơi John Faa đang rì rầm bàn bạc cùng Nicholas Rokeby, người đàn ông Gypsy chịu trách nhiệm về con tàu. John Faa không làm việc gì vội vàng. Lyra đang đợi ông đón chào cô, nhưng ông kết thúc những nhận xét về thủy triều và hoa tiêu trước khi quay sang những người mới đến.

“Xin chào, các bạn của tôi.” Ông nói. “Jack Verhoeven đáng tiếc đã qua đời, chắc các bạn đã nghe nói. Còn con trai anh ấy thì bị bắt.”

“Chúng tôi cũng có tin xấu đây,” Farder Coram nói, và kể về cuộc chạm trán của họ với những sinh vật do thám biết bay.

John Faa lắc chiếc đầu lớn của mình, nhưng không trách cứ gì họ.

“Giờ thì sinh vật đó ở đâu?” ông hỏi.

Farder Coram mang chiếc hộp thiếc đặt trên bàn. Tiếng vù vù điên loạn phát ra từ chiếc hộp vang ra khắp phòng.

“Tôi đã nghe nói về con quỷ bị chi phối bởi thứ đồng hồ lên dây cót này, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy,” John Faa nói. “Không có cách nào để thuần phục nó và trả nó trở về, tôi không biết nhiều lắm về chuyện này. Cũng như tôi không biết liệu có tác dụng gì không khi bọc chì nó rồi thả xuống biển, vì một ngày nào đó nó có thể thoát ra, con quỷ sẽ đến tìm cô bé dù nó đang ở đâu. Không, chúng ta phải giữ nó bên mình, và canh phòng cẩn mật.”

Lyra là người phụ nữ duy nhất trong boong (vì John Faa đã quyết định không cho phụ nữ đi theo, sau khi đã cân nhắc rất lâu), cô có một cabin riêng. Không phải là một cabin rộng, chắc chắn là như vậy, thực ra nó chỉ vừa đủ kê một chiếc giường và có một lỗ thông hơi, tên đó phù hợp hơn là một ô cửa sổ. Cô bỏ mấy thứ đồ mang theo vào ngăn kéo bên dưới giường, hào hứng chạy lên trên để được đứng dựa vào thành tàu và nhìn nước Anh biến mất phía sau lưng. Ngay sau đó cô nhận ra cả nước Anh biến mất trong sương mù trước khi lên được bên trên.

Nhưng bản thân tiếng nước vỗ dưới chân tàu, sự chuyển động của không khí, ánh sáng phát ra từ cửa sổ con tàu lấp lánh hùng dũng trong bóng đêm, tiếng gầm động cơ, mùi muối, mùi cá và mùi than đã có sức cuốn hút riêng của chúng rồi. Không lâu sau, một sự hấp dẫn nữa xuất hiện, đó là khi con tàu bắt đầu tiến vào Biển German. Rồi ai đó gọi Lyra xuống ăn tối. Cô nhận thấy không đói như mình vẫn tưởng và quyết định sẽ là một ý kiến hay nếu đi nằm, vì Pantalaimon, con nhân tinh đáng thương của cô cảm thấy rất.

Vậy là cuộc hành trình lên phương Bắc của cô bắt đầu.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx