CHƯƠNG 35
Mùa đông ở trường QUEEN
Nỗi nhớ nhà của Anne đã nguôi ngoai, phần lớn là nhờ những chuyến thăm nhà cuối tuần. Miễn thời tiết ấm áp, các sinh viên Avonlea có thể đến Carmody bằng đường sắt mới mỗi tối thứ Sáu. Diana và một số thanh niên Avonlea khác đã đợi sẵn và cả nhóm vui vẻ cùng dạo bước về Avonlea. Anne nghĩ, những buổi tối thứ Sáu lang thang trên các ngọn đồi mùa thu trong không khí mát lành vàng rực, với ánh đèn từ những ngôi nhà ở Avonlea nhấp nháy xa xa, là thời gian đẹp nhất và thân thương nhất trong cả tuần.
Gilbert Blythe hầu như lúc nào cũng đi chung với Ruby Gillis và còn mang túi xách cho cô. Ruby giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, luôn nghĩ là mình đã lớn thật rồi; cô mặc váy dài hết cỡ được mẹ cho phép và bới tóc cao lúc ở thị trấn, mặc dù lại phải thả xuống khi về nhà. Cô có đôi mắt to, xanh lơ, nước da sáng và thân hình đầy đặn ưa nhìn. Cô cười rất nhiều, vui vẻ, thuần tính và chân thành tận hưởng những niềm vui trong cuộc sống.
“Nhưng mình không nghĩ bạn ấy là kiểu con gái Gilbert thích,” Jane thầm thì với Anne. Anne cũng không nghĩ vậy nhưng vì học bổng Avery nên không nói ra. Cô cũng không thể không nghĩ rằng sẽ rất dễ chịu nếu có một người bạn như Gilbert để chơi đùa, trò chuyện và trao đối ý kiến về sách vở, học hành và tham vọng. Gilbert có nhiều tham vọng, cô biết, và Ruby Gillis có vẻ không phải kiểu người để thảo luận tới nơi tới chốn những chuyện như vậy.
Không có chút tình cảm khờ dại nào trong những ý nghĩ của Anne về Gilbert. Đối với Anne, cánh con trai, trong những lúc cô nghĩ về họ, chỉ đơn thuần là bạn tốt. Nếu cô và Gilbert là bạn, cô sẽ không quan tâm chuyện cậu có bao nhiêu người bạn khác hay cậu đi cùng ai. Anne là một thiên tài trong việc kết bạn và có rất nhiều bạn gái, nhưng cô lờ mờ nhận thức được tình bạn với người khác phái có lẽ cũng là cơ hội để hoàn thiện khái niệm về tình bằng hữu và trang bị những quan điểm phóng khoáng hơn trong đánh giá và so sánh. Không phải Anne có thể định nghĩa cảm xúc của mình về những chuyện đó rõ ràng như vậy. Nhưng cô nghĩ nếu có thể cùng Gilbert đi từ ga về nhà qua cánh đồng xào xạc, dọc những con đường nhỏ mọc dày dương xỉ, họ có thể sẽ có nhiều cuộc trò chuyện vui vẻ thú vị về thế giới mới đang rộng mở chung quanh, về hy vọng và tham vọng của mình. Gilbert là một thanh niên thông minh, có suy nghĩ độc lập cùng một quyết tâm giành được những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống cũng như mang đến cho cuộc sống những gì tốt đẹp nhất. Ruby Gillis nói với Jane Andrews là cô không hiểu được đến một nửa những gì Gilbert Blythe nói; cậu nói giống hệt những khi Anne Shirley trầm ngâm; còn về phần mình cô chẳng thấy vui thú gì khi bận tâm đến sách hay đến bất cứ thứ gì mình vốn không phải lo đến. Frank Stockley hăng hái và cởi mở hơn nhiều nhưng không đẹp trai bằng một nửa Gilbert nên cô không thể quyết định mình thích ai nhất!
Ở trường, Anne dần hút được về phía mình một nhóm nhỏ bạn bè, những sinh viên nhiều tham vọng, giàu trí tưỏng tượng và hay suy tư như chính cô. Với cô gái “màu hồng” Stella Maynard và “cô gái mơ mộng” Priscilla Grant, Anne nhanh chóng trở nên thân thiết, nhận ra cô thiếu nữ Grant xanh xao có vẻ sống nội tâm thật ra lại đầy trò nghịch phá, chọc ghẹo và vui vẻ, trong khi Stella mắt đen, sôi nổi lại có một trái tim tràn ngập mơ mộng và các hình ảnh tưởng tượng lãng mạn rực rỡ giống của Anne.
Sau kỳ nghỉ Giáng sinh, các sinh viên từ Avonlea bỏ buổi về nhà thứ Sáu để ở lại học hành chăm chỉ. Đến thời điểm này tất cả sinh viên trường Queen đều đã khẳng định vị trí của mình trên bảng xếp hạng, một số lớp đã thể hiện được sự khác biệt và định hình những sắc thái riêng. Một số chuyện đã được công nhận rộng rãi. Mọi người đều thừa nhận rằng ứng cử viên cho huy chương nhìn chung giới hạn trong ba người - Gilbert Blythe, Anne Shirley và Lewis Wilson; còn học bổng Avery thì khó đoán hơn, có đến một phần sáu sinh viên có thể là người chiến thắng. Huy chương đồng môn toán gần như chắc chắn sẽ về tay một cậu bé người đất liền mập mạp nhìn tức cười với trán dô ra và áo khoác vá chằng vá đụp.
Ruby Gillis là hoa khôi của trường năm đó, còn trong các lớp học Năm Hai thì Stella Maynard được bầu là người xinh nhất, cùng với một thiểu số tuy nhỏ nhưng vô cùng nhiệt thành ủng hộ Anne Shirley. Ethel Marr được tất cả những giám khảo công tâm nhất thừa nhận là người có kiểu tóc thời trang nhất, còn Jane Andrews - cô Jane giản dị, cần cù, chu đáo - nhận vinh dự trong những môn nữ công gia chánh. Ngay cả Josie Pye cũng được coi là cô gái miệng lưỡi sắc bén nhất trường Queen. Vì vậy có thể nói một cách công bằng rằng các học trò cũ của cô Stacy đều giữ vững được vị trí của mình trong môi trường cao đẳng rộng lớn hơn môi trường cũ nhiều.
Anne học đều và chăm chỉ. Cuộc cạnh tranh với Gilbert vẫn quyết liệt như hồi còn ở Avonlea, dù không được công khai trong lớp, nhưng không hiểu vì sao sự cay đắng đã biến mất. Anne không còn mong chiến thắng vì muốn đánh bại Gilbert nữa mà vì ý thức được một cách vô cùng tự hào về một chiến thắng đẹp trước đối thủ xứng tầm. Cũng đáng để phấn đấu chiến thắng, nhưng cô không còn nghĩ nếu không thắng thì sẽ không sống nổi nữa.
Bất chấp việc học hành, các sinh viên vẫn kiếm được cơ hội thư giãn. Anne dành rất nhiều thời gian rảnh rỗi để đến Beechwood, thường xuyên ăn bữa tối Chủ nhật ở đó và đến nhà thờ cùng bà Barry. Chính bà cũng phải thừa nhận mình đã già đi, nhưng đôi mắt đen của bà vẫn chưa mờ và miệng lưỡi cũng chẳng hề giảm sức mạnh. Nhưng bà không bao giờ sắc giọng trước mặt Anne, cô gái cho đến giờ vẫn là người được bà cụ khó tính này yêu quý nhất.
“Con bé Anne đó luôn luôn tiến bộ,” bà nói. “Ta thấy mệt mỏi với những đứa con gái khác - đứa nào cũng một kiểu đều đều đơn điệu chẳng bao giờ thay đổi đến là khó chịu. Anne nhiều sắc màu như cầu vồng, màu nào cũng tỏa sáng đẹp hết mức. Ta không thấy con bé ngộ nghĩnh như ngày còn nhỏ, nhưng nó khiến ta yêu nó và ta thích những người làm ta yêu họ. Ta tránh được rất nhiều rắc rối khi khiến mình yêu những người đó.”
Rồi, hầu như chưa ai kịp nhận ra thì mùa xuân đã đến, ở Avonlea hoa tháng Năm bung cánh hồng trên những mảnh đất cằn nơi tuyết vẫn còn nấn ná; và “tấm màn xanh” đã buông trên những cánh rừng và trong thung lũng. Nhưng ở Charlottetown, những sinh viên trường Queen đang lo lắng thì chỉ nghĩ và nói về thi cử.
“Chẳng giống như học kỳ sắp kết thúc chút nào,” Anne nói. “Sao kia chứ, mùa thu năm trước dường như quá dài để mà trông ngóng tới... cả một mùa đông học hành trường lớp. Còn giờ thì chúng ta đang ở đây, với kỳ thi sẽ lù lù xuất hiện vào tuần tới. Các cậu này, đôi khi mình cảm thấy như thể những kỳ thi này là tất cả, nhưng khi mình nhìn những chồi cây mập mạp vươn mình trên những cây dẻ kia và không khí xanh xanh mờ sương ở cuối phố, chúng chẳng còn quan trọng đến một nửa.”
Jane, Ruby và Josie, những đứa vừa tạt qua chơi, không hiểu nổi cách nhìn này. Đối với chúng những kỳ thi sắp tới quả thật vẫn luôn rất quan trọng - quan trọng hơn nhiều so với chồi dẻ hay sương mù tháng Năm. Với Anne thì tất cả đều vô cùng ổn thỏa, vì chắc chắn ít nhất sẽ thi đỗ nên có những lúc cô đánh giá thấp chuyện thi cử, nhưng một khi cả tương lai bạn phụ thuộc vào chúng - như cách suy nghĩ chân thành của những cô gái kia - bạn không thể nhìn chúng một cách thản nhiên cho được.
“Mình đã giảm bảy pound trong hai tuần vừa rồi,” Jane thở dài. “Có nói đừng lo lắng cũng chẳng ích gì. Mình sẽ lo lắng. Lo lắng cũng có giúp ta được chút đỉnh đấy chứ - khi ta lo lắng thì cũng giống như ta đang làm gì đó. Thật kinh khủng nếu mình không lấy được bằng sau khi đi học ở Queen cả mùa đông và tiêu tốn bao nhiêu tiền như thế.”
“Mình chẳng quan tâm,” Josie Pye nói. “Nếu năm nay mình không đậu thì năm sau mình sẽ trở lại. Cha mình thừa tiền cho mình đi học. Anne này, Frank Stockley nói giáo sư Tremaine bảo rằng Gilbert Blythe chắc chắn sẽ được huy chương còn Emily Clay nhiều khả năng sẽ giành được học bổng Avery.”
“Ngày mai chuyện đó có thế làm mình buồn, Josie,” Anne cười thành tiếng, “còn ngay lúc này thật tình mình cảm thấy chỉ cần biết hoa violet vẫn đang nở tím cả thung lũng bên dưới Chái Nhà Xanh và những cây dương xỉ con vẫn nhô đầu lên trên đường Tình Nhân, chuyện mình có giành được Avery hay không chẳng có gì khác biệt cả. Mình đã cố hết sức và mình bắt đầu hiểu được cái gọi là “niềm vui tranh đấu”. Ngay sau việc cố gắng và chiến thắng thì điều tốt nhất chính là cố gắng và thất bại. Các cậu, đừng nói về thi cử nữa! Hãy nhìn vòm trời xanh nhạt bên trên những ngôi nhà kia và tưởng tượng ra mình đang ngước lên nhìn những rừng sồi tím sẫm sau Avonlea.”
“Cậu sẽ mặc gì trong lễ tốt nghiệp, Jane?” Ruby hỏi một cách thực tế.
Jane và Josie đồng thanh trả lời và cuộc trò chuyện nghiêng về chủ đề thời trang. Nhưng Anne, khuỷu tay chống trên thành cửa sổ, bầu má mềm mại tì lên bàn tay nắm chặt, đôi mắt ngập tràn ảo ảnh, nhìn vô ưu qua những mái nhà thành thị rồi vút lên trên vòm trời hoàng hôn huy hoàng đó, dệt những giấc mơ của tương lai từ tấm vải vàng của sự lạc quan tuổi trẻ. Mọi cái ở Bên Kia đều là của cô cùng với tất cả khả năng của nó đang ẩn nấp một cách đáng hy vọng trong những năm tháng sắp tới – mỗi năm, một bông hồng triển vọng sẽ được kết vào vòng hoa vĩnh cửu.
CHƯƠNG 36
Vinh quang và mơ mộng
Vào buổi sáng kết quả cuối cùng của cả kỳ thi được dán lên bảng thông báo ở trường Queen, Anne và Jane cùng nhau bước xuống phố. Jane mỉm cười hạnh phúc; kỳ thi đã qua và cô cảm thấy chắc chắn một cách dễ chịu rằng ít nhất mình cũng đậu, những tính toán sâu xa hơn không hề làm phiền Jane; cô không có khát vọng cao xa nên không bị ảnh hưởng bởi những lo âu đi kèm theo nó. Vì chúng ta phải trả giá cho mọi thứ chúng ta nhận được hoặc lấy đi trong thế giới này; và cho dù cũng đáng để có tham vọng nhưng chúng lại không dễ gì để đạt được bên cạnh đó còn đòi hỏi ở người ta rất nhiều cố gắng và hy sinh, rất nhiều sự lo lắng và nản lòng. Anne nhợt nhạt và lặng lẽ; trong mười phút nữa cô sẽ biết ai giành được huy chương và ai nhận được học bổng Avery. Ngay lúc này, ngoài mười phút đó ra, dường như không còn gì đáng gọi là Thời gian nữa.
“Dĩ nhiên dù sao cậu cũng được một trong hai phần thưởng đó thôi,” Jane nói, không thể hiểu được sẽ bất công đến thế nào nếu có một kết quả khác.
“Mình không hy vọng gì ở học bổng Avery,” Anne nói. “Mọi người đều nói Emily Clay sẽ giành được. Và mình sẽ không diễu tới bảng thông tin để xem ngay trước mặt mọi người đâu. Mình không có can đảm. Mình sẽ đi thẳng tới phòng thay đồ nữ. Cậu phải đọc thông báo rồi đến nói cho mình biết nhé, Jane. Và mình xin cậu hãy vì tình bạn bao năm nay của chúng mình mà làm điều đó càng nhanh càng tốt. Cứ nói thẳng nếu mình thất bại, không cần cố dùng từ nào nhẹ nhàng hơn; và cho dù thế nào cũng đừng tỏ ra thông cảm với mình. Hứa với mình đi, Jane.”
Jane trang trọng hứa; nhưng, thật ngẫu nhiên, không cần phải có một lời hứa như vậy. Khi bước lên bậc tam cấp ở cửa ra vào của trường Queen, cả hai nhìn thấy hành lang đông nghịt bọn con trai đang công kênh Gilbert Blythe trên vai và la hét hết cỡ, “Hu ra Blythe, giành huy chương rồi!” Trong một khoảnh khắc Anne thấy đau nhói bởi cảm giác thua cuộc và thất vọng. Vậy là cô đã thua còn Gilbert thắng! Vậy đấy, bác Matthew sẽ tiếc lắm - ông vẫn chắc chắc cô sẽ thắng.
Và rồi!
Ai đó la lớn: “Ba tràng vỗ tay cho cô Shirley, người giành học bổng Avery!”
“Ôi, Anne,” Jane thở hổn hển, khi họ lao tới phòng thay đồ nữ giữa tiếng hoan hô nhiệt liệt. “Ôi, Anne, mình tự hào biết bao nhiêu! Chẳng tuyệt vời sao?”
Và rồi đám con gái xúm lại quanh hai cô bạn và Anne lọt giữa nhóm người cười đùa, chúc tụng. Mọi người thụi vai, lắc mạnh tay cô. Cô bị đẩy, bị kéo, bị ôm hôn và trong lúc đó cố hết sức để thì thầm với Jane: “Ôi, bác Matthew và bác Marilla sẽ hài lòng lắm! Mình phải báo tin về nhà ngay.”
Lễ tốt nghiệp là sự kiện quan trọng tiếp theo. Buổi lễ diễn ra trong hội trường lớn. Các bài diễn văn được trình bày, luận văn được đọc, những bài ca cất lên, các văn bằng, giải thưỏng và huân chương được phát.
Ông Matthew và bà Marilla ở đó, tai và mắt chỉ tập trung vào một sinh viên duy nhất trên sân khấu - một cô gái cao dong dỏng trong bộ váy xanh lơ, hai má ửng hồng và đôi mắt sáng lấp lánh, người đọc bài luận xuất sắc nhất và được mọi người chỉ chỏ, thầm thì bàn tán vì đã giành được học bổng Avery.
“Chắc hẳn em rất mừng vì chúng ta đã giữ con bé lại phải không, Marilla?” Ông Matthew thầm thì khi Anne vừa kết thúc bài luận, lần đầu tiên lên tiếng kể từ lúc bước chân vào hội trường.
“Đây có phải lần đầu tiên em vui mừng đâu,” bà Marilla trả miếng. “Anh cứ thích nhai đi nhai lại, Matthew Cuthbert.” Bà Barry đang ngồi hàng sau bèn rướn người lên phía trước và lấy ô thúc vào lưng bà Marilla.
“Cô không hãnh diện vì con bé Anne đó hả? Ta thì có đấy,” bà nói.
Tối đó Anne về Avonlea cùng ông Matthew và bà Marilla. Từ tháng Tư đến nay cô gái chưa hề đặt chân về nhà và cảm thấy không thể chờ thêm ngày nào nữa. Hoa táo đã nở và cả thế giới đều mới mẻ trẻ trung. Diana đến Chái NhàXanh gặp cô. Trong căn phòng nhỏ màu trắng của mình, nơi bà Marilla đã đặt một lọ hoa hồng bên bệ cửa sổ, Anne nhìn ngắm xung quanh và thở một hơi dài hạnh phúc.
“Ôi, Diana, tuyệt vời biết bao khi được quay trở lại. Tuyệt vời biết bao khi được nhìn thấy những ngọn linh sam đang chĩa thẳng lên bầu trời hồng... cả vườn cây ăn quả trắng xóa kia và Nữ Hoàng Tuyết già nữa. Hương bạc hà thoang thoảng chẳng dễ chịu lắm sao? Và cây hoa trà kia nữa - ôi, đó là sự kết hợp hài hòa của một bài hát, một hy vọng và một lời cầu nguyện. Và thật tuyệt biết bao khi được gặp lại cậu, Diana!”
“Mình tưởng cậu thích cái cô Stella Maynard đó hơn mình chứ,” Diana nói giọng trách móc. “Josie Pye nói với mình như vậy. Josie nói cậu mê tít cô ta.”
Anne bật cười rút bông “loa kèn tháng Sáu” đã tàn ra khỏi bó hoa rồi ném vào người Diana.
“Stella Maynard là cô gái thân thiết nhất trên thế giới sau một người và người đó là cậu, Diana,” cô nói. “Mình yêu cậu hơn bao giờ hết và có rất nhiều chuyện để kể với cậu. Nhưng giờ mình cảm thấy dường như chỉ cần ngồi đây nhìn cậu cũng đã đủ vui rồi. Có lẽ mình mệt rồi - mệt mỏi vì học hành và tham vọng. Ngày mai mình muốn dành ít nhất hai tiếng nằm trên bãi cỏ trong vườn, tuyệt đối không nghĩ ngợi gì.”
“Cậu đã làm rất tuyệt, Anne. Chắc bây giờ cậu sẽ không đi dạy khi đã được học bổng Avery đâu nhỉ?”
“Không. Tháng Chín mình sẽ tới trường Redmond. Chẳng tuyệt vời sao? Lúc đó mình sẽ có cả kho tham vọng mới sau ba tháng hè rực rỡ, hạnh phúc. Jane và Ruby sẽ đi dạy. Chẳng tuyệt sao khi nghĩ tới chuyện tất cả chúng mình đều qua hết, ngay cả Moody Spurgeon và Josie Pye?”
“Hội đồng trường Nevvbridge đã mời Jane vào trường họ rồi,” Diana nói. “Gilbert Blythe cũng sẽ đi dạy. Cậu ấy phải làm thế thôi. Rốt cuộc, cha cậu ấy không đủ tiền cho cậu ấy đi học đại học năm sau, nên cậu ấy định tự kiếm tiền. Mình hy vọng cậu ấy sẽ được dạy ở đây nếu cô Ames quyết định rời đi.”
Anne cảm nhận thấy một nỗi ngạc nhiên buồn bã kỳ lạ. Cô không biết chuyện này; cô đã mong rằng Gilbert sẽ cùng đến Redmond. Cô biết làm gì đây khi không còn cuộc cạnh tranh truyền cảm hứng giữa hai người? Chẳng phải mọi việc, cho dù tại một trường đại học cộng đồng với viễn cảnh về một tấm bằng đích thực, sẽ có phần tẻ nhạt khi cô không còn người bạn đối thủ nữa?
Hôm sau lúc ăn sáng, Anne đột nhiên nhận thấy ông Matthew trông không được khỏe. Chắc chắn tóc ông đã bạc hơn nhiều so với một năm trước.
“Bác Marilla,” cô ngần ngừ hỏi khi ông đã ra ngoài, “bác Matthew có khỏe không ạ?”
“Không, bác ấy không khỏe lắm,” bà Marilla lo lắng nói, “Xuân này, bác ấy đã bị vài cơn đau tim khá nguy kịch vậy mà vẫn chẳng chịu nghỉ ngơi lấy một chút. Ta thật sự lo lắng cho bác ấy, nhưng dạo gần đây bác ấy có khá hơn và chúng ta đã có một người làm thuê khá được việc, nên ta hy vọng bác ấy sẽ nghỉ ngơi và hồi phục. Có thể bây giờ bác ấy sẽ được như thế khi con đã về nhà. Con luôn làm bác ấy vui lên.”
Anne vươn người qua bàn và đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt bà Marilla.
“Chính bác trông cũng không khỏe như con muốn, bác Marilla. Bác có vẻ mệt mỏi rồi. Con e bác đã làm việc cực quá. Giờ con về nhà rồi, bác phải nghỉ ngơi đi. Con sẽ chỉ dành một ngày hôm nay để đi thăm tất cả nơi chốn thân quen cũ và tìm lại những giấc mơ xưa, rồi sẽ đến lượt bác lười biếng trong khi con làm việc.”
Bà Marilla mỉm cười trìu mến với cô gái của mình. “Không phải tại công việc đâu - tại đầu ta đấy. Dạo gần đây ta thường xuyên bị đau - ở đằng sau mắt ấy. Bác sĩ Spencer đã làm ầm lên về chuyện đeo kính, nhưng cũng chẳng làm ta khá lên chút nào. Có một bác sĩ nhãn khoa rất giỏi sẽ tới đảo cuối tháng Sáu và bác sĩ Spencer nói ta phải đi gặp ông ấy. Chắc ta phải làm thế thôi. Giờ ta không thể đọc hay may vá thoải mái được nữa. À, Anne, phải nói là con đã thực sự học rất tốt ở Queen. Lấy bằng Lớp Một trong một năm và giành được học bổng Avery... ái chà, bà Lynde nói kiêu hãnh đi trước thất bại và bà ấy không hề tin tưởng vào chuyện phụ nữ học cao, bà ấy nói như vậy không phù hợp với thiên chức phụ nữ. Ta không mảy may tin chuyện đó. Nhắc đến Rachel mới nhớ - gần đây con có nghe nói gì về ngân hàng Abbey không, Anne?”
“Con nghe nói nó đang nguy kịch,” Anne trả lời. “Sao vậy ạ?”
“Rachel đã nói chuyện đó. Tuần trước bà ấy lên đây và nói có một số tin đồn về ngân hàng. Bác Matthew thật sự lo lắng. Tất cả tiền tiết kiệm của chúng ta đều gửi ở ngân hàng đó - từng xu một. Lúc đầu ta muốn bác Matthew gửi tiền vào ngân hàng Savings nhưng ông cụ Abbey là bạn thân của cha chúng ta và cha luôn gửi tiền ở ngân hàng của ông ấy. Bác Matthew nói ngân hàng nào do ông ấy lãnh đạo cũng đủ tin cậy đối với bất cứ ai.”
“Con nghĩ nhiều năm nay ông ấy chỉ lãnh đạo trên danh nghĩa thôi,” Anne đáp. “Ông ấy đã già lắm rồi, cháu ông ấy mới là người điều hành đích thực.”
“Vậy đấy, khi Rachel nói chuyện đó, ta muốn Matthew đi rút tiền ngay và bác ấy bảo sẽ suy nghĩ. Nhưng hôm qua ông Russel vừa nói với bác ấy rằng ngân hàng vẫn ổn.”
Anne có một ngày tốt lành trong sự bao bọc của thế giới bên ngoài. Cô không bao giờ quên ngày hôm đó, trời vô cùng sáng sủa, vàng rực và trong lành, không hề vướng một bóng râm nào và hoa nở bạt ngàn. Anne dành một vài giờ huy hoàng của ngày hôm đó cho vườn cây ăn quả; cô tới Bong Bóng Thần Rừng, hồ Liễu và thung lũng Tím; cô ghé qua nhà mục sư và có một buổi trò chuyện mãn nguyện với cô Allan; cuối cùng, vào buổi tối, cô cùng ông Matthew lùa bò qua đường Tình Nhân về bãi cỏ sau nhà. Khắp khu rừng rực rỡ ánh tà dương và sự huy hoàng ấm áp của nó tuôn trào xuống những khe đồi phía Tây. Ông Matthew cúi đầu bước chầm chậm; Anne, cao và dáng thẳng, điều chỉnh bước chân để bước sóng đôi với ông.
“Hôm nay bác đã làm việc rất vất vả, bác Matthew,” cô nói giọng trách móc. “Sao bác không thư thả hơn một chút?”
“À ừ, có vẻ như ta không thể,” ông Matthew nói khi mở cửa sân cho đàn bò vào. “Chỉ là ta già đi thôi, Anne, mà lại hay quên mất điều đó. Thế đấy, ta đã luôn luôn làm việc vất vả và ta thà gục xuống khi đang làm việc.”
“Nếu con là đứa bé trai mà bác đề nghị,” Anne nói giọng tiếc nuối, “thì giờ con đã có thể giúp bác rất nhiều để bác rảnh tay trong cả trăm việc. Con thật tâm ước gì mình được như thế, chỉ cần thế thôi.”
“À ừ, ta thà là có con còn hơn có cả tá con trai, Anne à,” ông Matthew vừa nói vừa vỗ vỗ vào cánh tay cô gái. “Chỉ cần con nhớ điều đó thôi - còn hơn có cả tá con trai. À ừ, ta nghĩ một đứa con trai thì không lấy được học bổng Avery đúng không? Chỉ có con gái - con gái của ta - đứa con gái mà ta tự hào.”
Ông trao cho cô gái nụ cười bẽn lẽn quen thuộc trong lúc bước vào sân. Anne mang theo ký ức về nụ cười này khi trở về phòng tối hôm đó và ngồi rất lâu bên khung cửa sổ rộng mở, nghĩ về quá khứ rồi mơ tới tương lai. Bên ngoài, Nữ Hoàng Tuyết mờ trắng trong ánh trăng, ếch nhái ca vang trong đầm phía bên kia Dốc Vườn Cây Ăn Quả. Anne luôn ghi nhớ vẻ đẹp yên bình, óng ánh màu bạc và sự tĩnh lặng thơm ngát đêm hôm đó. Đó là đêm cuối cùng trước khi nỗi đau thương chạm vào cuộc đời cô, và cuộc đời không bao giờ còn giống như xưa được nữa khi cái chạm thần thánh lạnh lùng đó lướt qua.
@by txiuqw4