sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 16

1

Gần đến 10 giờ, tôi nói qua tình hình với Mochizuki rồi rời khỏi phòng.

Nhét điện thoại vào túi trước khi rời đi trở thành phản xạ. Không, cũng không hẳn đúng. Chuyện vừa xảy ra ở phòng ăn hẳn đã truyền cho tôi ý nghĩ đó. Tốt hơn hết nên đem theo điện thoại phòng trường hợp khẩn cấp. Điều đáng kể là, tôi đã gọi được cho Mei lúc tối, kể cả khi sóng cực kỳ yếu...

Tôi không gặp bất kỳ ai trên hành lang lờ mờ tầng hai, từ phòng 202 tới phòng 223. Hình như mọi người đều nghe theo lời của thầy Chibiki, ở yên trong phòng.

Trên hành lang trước phòng Mei có một khung cửa sổ, tôi nhìn thử ra ngoài.

Gió vẫn rung giật dữ dội, nhưng có vẻ đã tạnh mưa. Mây kéo đến dày đặc phủ kín bầu trời, mặt trăng chỉ còn là quầng sáng nhợt nhạt. Dưới ánh sáng lờ mờ đó, tôi nhận ra hình dáng đen thẫm của cánh rừng bao quanh ngôi nhà.

Ở phía vạt rừng này, tại một góc bãi cỏ sau nhà, tôi để ý thấy một căn nhà cấp bốn nho nhỏ. Nó không đủ lớn để gọi là nhà ngang hay nhà phụ. Có lẽ đó là chuồng hay nhà kho.

Tôi đang lơ đãng quan sát khung cảnh thì đèn trong nhà đó bất thần bật sáng. Hình như ai đó vừa bật đèn.

Tôi không để tâm xem ai bật đèn. Chắc là ông hoặc bà Numata đấy thôi. Có lẽ họ xuống đó lấy đồ cần dùng.

Tôi rời khỏi cửa sổ, chậm rãi hít một hơi dài, rồi gõ cửa phòng 223.

Một lát sau, Mei mở cửa. Cô khoác một chiếc áo len màu ngà mỏng bên ngoài bộ đồng phục hè, làn da trông còn nhợt nhạt hơn thường ngày.

“Vào đi,” cô nói cụt lủn, bảo tôi vào mà chẳng cười lấy một cái. Đêm nay trời không nóng, nhưng điều hòa nhiệt độ trong phòng cô chạy ro ro. “Cứ tự nhiên. Ngồi đâu tùy thích.”

Hệt như câu cô nói vào lần đầu mời tôi lên phòng khách “Dưới ánh chiều tà của Yomi”. Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn bên cửa sổ. Mei ngồi mớm ở một trong hai chiếc giường trong phòng. Đột nhiên, cô nói, “Bọn mình đã trò chuyện về Misaki.” Cô bình thản nhìn tôi. Tôi khẽ gật đầu.

Dĩ nhiên, “Misaki” mà cô ám chỉ không phải là “Misaki” hai mươi sáu năm trước, không phải “Misaki” trong họ của cô, càng không phải “Misaki” khu phố cô sống. Cô muốn nhắc tới người em họ Fujioka Misaki, đã mất ở bệnh viện Yumigaoka hồi cuối tháng Tư.

“Thực tình tớ đã băn khoăn mãi từ khi gặp cậu lần đầu ở bệnh viện, cứ thắc mắc không hiểu vì sao cậu rời khỏi thang máy ở tầng ngầm thứ hai.” Tôi nói như để khơi gợi dòng hồi tưởng của Mei. “Misaki điều trị ở đó, ngày hôm ấy cô bé qua đời, phải không? Thi thể đặt ở nhà xác. Cậu nói cậu mang con búp bê cho Misaki. Nhưng kể cả vậy...”

“Cậu vẫn thấy lạ?”

“Phải.”

"Chuyện hơi phức tạp một chút.” Mei cụp mắt xuống. “Tôi vốn không muốn kể cho ai nghe cả, nhưng...”

“Tớ hỏi cậu có thấy phiền không? Cậu sẽ kể chứ?”

Ngừng một lúc, mắt vẫn cụp, Mei đáp, “Được.”

2

“Fujioka Misaki và tôi là chị em họ. Hai đứa cùng tuổi. Nhưng... nên nói thế nào nhỉ? Tình hình không thực sự như thế.”

Mei khẽ ngước mắt lên, câu chuyện bắt đầu tuôn chảy. Cô đã chọn lối nhập đề úp mở. Tôi ngại đi sâu phân tích, bèn ngoẹo đầu sang một bên. Mei không bận tâm, tiếp tục nói.

“Mẹ Misaki tên là Mitsuyo. Mẹ tôi - Kirika - tên thật là Yukiko. Họ là chị em gái, bằng tuổi nhau.”

“Bằng tuổi...” Tôi nói chen vào, đầu vẫn nghiêng nghiêng. “Họ là chị em sinh đôi?”

"Chi em sinh đôi. Cùng mang họ Amane. Bà Amane chưa bao giờ lấy chồng.”

Thì ra bà lão ở “Dưới ánh chiều tà của Yomi” là bà ngoại Mei.

“Bọn họ sinh đôi khác trứng nhưng trông vẫn giống nhau, lại lớn lên cùng một nơi, được nuôi dưỡng cùng một cách, trưởng thành bên nhau... Dì Mitsuyo lấy chồng trước. Dì cưới một người họ Fujioka. Dượng là nhân viên một công ty kinh doanh thực phẩm, trẻ trung và chí thú. Một thời gian sau, Yukiko lấy Misaki Kotaro - bố tôi. Ông là một doanh nhân thành đạt, giàu có, quanh năm đi khắp nơi. Có thể nói là đối lập hoàn toàn với dượng Fujioka. Dì Mitsuyo có con với chú Fujioka trước.”

“Là Misaki?”

Mei lẳng lặng gật đầu, rồi nhẹ nhàng đảo mắt về phía tôi, cô nói, “Và một người nữa.”

“Sao cơ?”

“Dì ấy sinh đôi.” Mắt Mei lại cụp xuống. “Hai bé gái, cũng là sinh đôi khác trứng nhưng giống nhau lạ thường.”

Fujioka Misaki có chị em sinh đôi? Tôi lại nghiêng đầu sang một bên. Có nghĩa là...? Không thể nào.

“Yukiko cũng mang thai, sau Mitsuyo một năm. Nhưng khi đứa con chào đời thì có chuyện.”

“Cậu từng kể rồi.”

“Yukiko buồn bã vô cùng. Đến độ gần như phát điên. Thêm một đòn nữa giáng xuống khi được biết vì thai chết lưu, trong tương lai bà không thể sinh con được nữa.”

“Ôi trời!”

Đến đoạn này, tôi bắt đầu có ý niệm mơ hồ về những điều Mei sắp kể.

“Gia đình Fujioka được đón một cặp sinh đôi nhưng gặp chút vấn đề về tài chính, không thể nuôi cùng lúc hai đứa trẻ. Trái lại, nhà Misaki cần làm gì đó để vực dậy tinh thần Yukiko, lúc này đã tuyệt vọng cùng cực. Mitsuyo rất thương Yukiko. Trong tình trạng đó, cậu có thể nói sự cân bằng giữa cung và cầu đã được thiết lập.”

"Cung và... cầu?”

“Phải. Cậu hiểu tôi muốn nói gì, phải không?” Mei hỏi, không đánh mất vẻ lặng lẽ thường thấy. “Một trong hai nhóc sinh đôi của gia đình Fujoka được cho làm con nuôi của nhà Misaki.”

“Vậy là...”

“Là tôi. Fujioka Mei trở thành Misaki Mei vào năm hai tuổi. Tôi không nhớ được vì sao lại chọn tôi chứ không phải Misaki.”

Mei ngừng một lúc rồi nói tiếp, như để dẹp câu hỏi đó đi. “Tôi đoán có lẽ vì tên của hai chị em.”

“Tên?”

“Nếu Misaki chuyển sang nhà Misaki, em ấy sẽ trở thành Misaki Misaki. Tôi quyết định nghĩ rằng họ đưa ra sự lựa chọn dựa trên lý do ngốc nghếch như vậy đấy.” Nét cười nhợt nhạt thoáng qua đôi môi hồng của cô trước khi biến mất chóng vánh. “Và như vậy, cho đến khi bắt đầu biết ghi nhớ, tôi được nuôi dưỡng trong gia đình Misaki với tư cách là con gái độc nhất của Kirika, tức Yukiko. Chưa từng nghe kể mình là con nuôi. Nên khi còn nhỏ, tôi hoàn toàn tin Mitsuyo là dì Mitsuyo. Tôi cũng nghĩ Misaki là em bà con, cùng tuổi, tình cờ giống tôi. Kể cả khi biết rằng hai đứa chung ngày sinh nhật, tôi cũng nghĩ là, tuyệt! Một sự trùng hợp tuyệt vời. Tôi cứ tưởng là do hai bà mẹ cũng là chị em sinh đôi. Lên lớp Năm, tôi phát hiện ra sự thật. Bà Amane lỡ miệng, rồi giải thích ngọn ngành cho tôi. Nhưng ngày hôm đó, Kirika... mẹ tôi nổi điên lên. Chắc hẳn nếu có thể, thì mẹ định sẽ giấu tôi suốt đời.”

Dù đang kể lại chuyện ly kỳ về chính bản thân mình, giọng Mei vẫn nhẹ nhàng, vẻ mặt gần như bất động. Không biết nên phản ứng ra sao, toàn bộ những gì tôi có thể làm là lắng nghe cô nói.

“Đối với mẹ, tôi thực sự là thế thân đứa trẻ chết lưu của bà. Một sự tráo đổi. Đối với bố cũng thế. Tôi nghĩ bọn họ cưng chiều tôi hơn mức thường lệ dành cho một đứa con. Khi tôi mắc bệnh về mắt, họ làm mọi việc có thể, thậm chí mẹ còn chế tác con mắt thủy tinh đặc biệt này... Tôi rất biết ơn họ. Nhưng...”

Bởi vì tôi là con búp bê của bà.

“Thế thân vẫn chỉ là thế thân. Đôi lúc Kirika coi tôi là đứa con kia, đứa trẻ đáng ra bà được nuôi lớn.”

Tuy sống, nhưng không hiện hữu.

“Tôi dám chắc Kirika cứ nhốt mình trong xưởng, chế tác lũ búp bê là vì nỗi đau dành cho đứa trẻ kia. Tôi không thể không nghĩ như thế. Từ góc nhìn của mình khi phát hiện ra sự thật, tôi coi Kirika chỉ là người nuôi lớn mình, không phải một bà mẹ thực sự...”

Mei ngừng lại, tôi bèn hỏi, “Lúc phát hiện ra sự việc, cậu nghĩ sao?”

Lẩm bẩm một hồi, Mei đáp, “Tôi... muốn gặp mẹ. Mẹ của tôi, Mitsuyo. Và bố tôi.”

Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy má cô ưng ửng khi nói những lời đó.

“Tôi không định buộc tội bố mẹ đã đem cho tôi thay vì cho Misaki. Thực sự tôi không có ý đó. Tôi chỉ muốn gặp họ, nói chuyện với họ để xác nhận rằng đây chính là những người đã sinh ra mình. Nhưng bấy giờ, nhà Fujioka đã chuyển đi. Trước đó Misaki và tôi học ở trường tiểu học gần nhà, hai gia đình cũng khá gần nhau, nhưng rồi Misaki chuyển trường, dù vẫn sống cùng thành phố nhưng nhà xa nên không còn dễ dàng gặp mặt nữa. Ngoài ra, tôi muốn gặp mẹ, bèn đề nghị với Kirika. Nghe tôi nói vậy, bà tỏ ra buồn bã, rồi giận dữ...”

“Bởi vì không muốn cậu đi gặp mẹ đẻ à?”

“Ừ.” Mei gật đầu, vai cô hơi trĩu xuống. “Hình như trước đây tôi từng nói rồi. Mẹ rất thoải mái, tôi có thể đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, nhưng mẹ lo lắng và tỏ ra nhạy cảm trước một số việc nhất định.”

“Ừ, tớ nhớ...”

“Ý tôi là thế đấy. Gần gũi với mẹ Mitsuyo hơn. Kirika lo lắng cũng là lẽ dĩ nhiên thôi. Nhất là vì người kia là chị em sinh đôi của mẹ. Việc bắt tôi mang theo di động có lẽ là biểu hiện của nỗi lo lắng đó. Hai mẹ con thường chuyện trò qua nó. Tôi phần nào thấu hiểu cảm xúc của mẹ, nhưng mà...” Mei lại lẩm bẩm giây lát. “Nhưng mà... suốt thời gian đó, thỉnh thoảng tôi vẫn bí mật gặp Misaki. Nhất là sau khi chuyển lên trung học cơ sở, tham gia nhiều hoạt động hơn. Bấy giờ em ấy đã phát hiện ra bọn tôi là chị em ruột. Nghĩ thế này có vẻ lạ lùng, nhưng hai chị em tôi cảm nhận được một sự gắn bó khăng khít khác thường. Đã cùng chia sẻ một khoảng thời gian trong bụng mẹ. Là một nửa của nhau. Câu này nghe hơi sáo nhưng sự thật đúng là như thế. À, chắc là cậu sẽ tự hỏi có không, nhưng đúng là khá lạ lùng, khi một nửa giống mình ở ngay trước mặt, lớn lên trong gia đình có bố mẹ ruột, còn mình phải đi làm con nuôi, lại mất một mắt từ thuở bé nữa. Nên kể ra, đúng là tôi nhìn đời u ám hơn em ấy.”

Đột nhiên khung cửa sổ rùng rùng dữ dội. Gió đã chuyển hướng chăng? Tôi bắt đầu có cảm giác như thể ai đó đang đứng bên ngoài nhìn vào - dù điều này là không thể. Theo bản năng, tôi ngoái đầu nhìn ra sau lưng.

“Chuyện xảy ra vào mùa xuân năm ngoái. Misaki bị ốm.” Mei kể tiếp. “Bệnh nặng liên quan đến thận. Em ấy sẽ phải chạy thận suốt đời. Cách duy nhất tránh tình trạng này là ghép thận.”

“Ghép thận...”

“Ừ. Nên Misaki được nhận một quả thận của mẹ Mitsuyo và được chuyển đến một bệnh viện lớn ở Tokyo để phẫu thuật. Tôi thật lòng muốn hiến thận của mình cho em ấy. Hai đứa là chị em sinh đôi, cho dù sinh đôi khác trứng, lại cùng lứa tuổi, cậu không nghĩ như thế mới thích hợp nhất cho quá trình ghép thận sao? Người ta còn bảo cấy thận của người lớn vào cơ thể trẻ con rất khó, không chỉ bởi khác biệt về kích thước mà còn nhiều chi tiết khác nữa... Nhưng hình như có điều luật quy định trẻ em dưới mười lăm tuổi không được hiến sống nội tạng nên tôi không làm được gì, dù nài nỉ thế nào đi chăng nữa. Mà kể cả bệnh viện chấp nhận ngoại lệ, nhỡ Kirika phát hiện ra, bà sẽ vào cuộc, không cho tôi làm thế.”

Vậy ra đó là tình hình mà Fujioka Misaki đã trải qua, được giải phẫu ở bệnh viện khác rồi chuyển về đây. Giọng chị Mizuno ở đầu dây bên kia văng vẳng dội vào tai tôi, theo phản xạ tôi nhắm mắt lại.

“Cuộc phẫu thuật diễn ra vào đầu năm và hoàn toàn thành công. Nhưng cần theo dõi tiến triển nên khi cơ thể đã ổn định hơn, Misaki được chuyển về bệnh viện ở Yomiyama. Tại đây, quá trình hồi phục tương đối khả quan. Tôi vẫn bí mật tới thăm. Tất nhiên là không để cho Kirika hay biết. Hai chị em nói đủ thứ chuyện, rồi em trầm trồ, ‘Chị có bao nhiêu là búp bê đẹp ở nhà. Thích thế.’ Tôi bèn cho Misaki xem ảnh chụp đám búp bê trong phòng riêng, hỏi xem em thích con nào, tôi hứa, ‘Chị sẽ cho em con búp bê mà em thích nhất, coi như quà mừng em xuất viện.’ Và đó là...”

“Con búp bê cậu mang xuống nhà xác ngày hôm đó?”

“Tôi đã hứa mà.” Mei chậm rãi chớp mắt, gật đầu. “Tôi không bao giờ nghĩ Misaki sẽ chết như thế, hoàn toàn bất ngờ, không sao tưởng tượng nổi. Quá trình phục hồi không gặp trục trặc gì, bệnh viện còn nói em sẽ sớm được về nhà. Thế rồi, đột nhiên, em ấy...”

Phải.

Chị Mizuno cũng kể thế.

Tình trạng của Fujioka Misaki chuyển hướng đột ngột, trước khi người ta kịp làm bất cứ điều gì, cô bé đã qua đời. Hôm đó là ngày 27 tháng Tư, thứ Hai. Chị Mizuno còn kể với tôi, Bệnh nhân là con một, cha mẹ hẳn phải đau khổ lắm.

Những thắc mắc bấy lâu đã được giải tỏa, nhưng hình dung đến tâm trạng của Mei, trái tim tôi bỗng thắt lại. Cố gắng để không rơi nước mắt, việc kiềm chế thật gian nan...

Nhưng bất giác, tôi nhận ra một chân tướng quan trọng hơn.

“Misaki không phải là em bà con của cậu. Hai người là chị em ruột.” Sững sờ và hoang mang, tôi lặp lại sự thật đó. “Nghĩa là cậu và Misaki thực sự chung huyết thống, trực hệ...”

“Phải.”

“Đấy là lý do khiến cậu nói như vậy?”

Ngày đầu tiên tới trường, lần đầu tiên gặp cô trong môi trường học đường, cuộc trò chuyện cạnh bồn hoa với những đóa hồng vàng bừng nở, gần Khu o... Cậu nên cẩn thận. Có thể nó đã bắt đầu.

“Cái câu ‘Có thể nó đã bắt đầu’ ấy?”

“Đúng. Cậu có trí nhớ tốt đấy.”

“Vậy là nó đã bắt đầu,” tôi nói, mắt nhìn như dán vào mặt Mei. “Tai ương năm nay khởi sinh từ tháng Tư.”

“Hình như thế.”

“Sao lúc đó cậu không nói?”

“Tôi... ừm, tôi...”

Không nhìn về phía tôi, Mei chỉ buồn bã chớp mắt.

“Tôi không muốn tin Misaki chết vì nguyên nhân này. Chính vì thế khi cậu hỏi có anh chị em ruột không, tôi không thể đáp là có. Khi cậu hỏi về Misaki, tôi chỉ nói được là họ hàng. Tôi không muốn bằng cách nào đó chứng thực sự tồn tại của lời nguyền.”

Tôi nhớ lại câu chuyện với Mei trong lần thứ hai gặp nhau ở tầng hầm phòng trưng bày búp bê, sau sự ra đi của “người chết vào tháng Năm” Sakuragi Yukari.

Có lẽ trong thâm tâm tôi vẫn còn nửa tin nửa ngờ. Đầu tiên chuyện đó diễn ra, tháng Năm cậu chuyển tới, rồi tôi nói như vậy dù không thực sự tin. Chắc tôi vẫn còn nghi ngờ một số việc. Nhưng...

“Đầu tiên chuyện đó diễn ra” hẳn ngụ ý cái chết của Misaki vào tháng Tư. “Rồi tôi nói như vậy” là muốn nhắc lại câu “có thể nó đã bắt đầu”...

Mei cúi mặt, bàn tay nắm lại túm lấy tấm phủ giường nơi cô đang ngồi. Tôi vừa cố gắng hình dung lần nữa tâm trạng của cô, vừa chỉnh lý lại sự thật đang dần dần hiện hình, “Tai ương của lớp 9-3 năm nay bắt đầu từ tháng Tư, cũng giống các lớp Chín khác. Fujioka Misaki chết trong bệnh viện, trở thành nạn nhân đầu tiên... ‘Người chết vào tháng Tư.’ Điều này có nghĩa là...”

Những cơn gió rì rầm ngoài cửa sổ như xộc thẳng vào, đánh tụt nhiệt độ cơ thể tôi. Một cảm giác bất ngờ tấn công tôi, cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống, làm cả người tôi nổi da gà.

Mei lúc lắc đầu như muốn nói, Tôi biết... Cô uể oải ngẩng mặt lên, “Tôi cũng từng nghĩ thế.”

“Nghĩ gì?”

“Sau khi xuất viện, cậu tới trường lần đầu vào đầu tháng Năm. Lúc đó chúng ta nhận ra phòng học không có đủ bàn ghế, nên mọi người tin rằng ‘tai ương’ năm nay là ngoại lệ, tháng Năm mới bắt đầu. Nhưng nếu Misaki là ‘người chết vào tháng Tư’, thì nghĩa là tất cả chúng ta đều sai lầm...”

“Phải.” Khoanh tay trước ngực, tôi gật đầu.

“Nghĩa là bất chấp thực tế ban đầu lớp có đủ bàn ghế, ‘người dư ra’ đã trà trộn vào lớp từ tháng Tư, trước khi tớ chuyển tới Bắc Yomi...”

3

“Vậy đó là lý do, phải không?” Sau vài giây lặng im, tôi e dè hỏi. “Khi tớ thổ lộ băn khoăn rằng không biết mình có phải ‘người dư ra’ không, cậu phủ nhận ngay. Cậu bảo tớ ‘Yên tâm đi. Không phải cậu đâu’.”

“Phải, tôi đã nói thế...”

“Có phải vì cậu biết ‘tai ương’ đã thực sự bắt đầu từ tháng Tư? Mà lúc ấy tớ chưa vào lớp này?”

“Một phần thôi... Nguyên nhân chính khác cơ.”

Tôi đã ngờ ngợ là Mei sẽ trả lời như vậy mà.

“Nghĩa là sao?” Tôi gặng hỏi. “Nguyên nhân chính là gì?”

“Tôi...”

Cô định trả lời, nhưng rồi do dự. Ánh nhìn rớt vào vô định mắt không hề chớp hồi lâu, cả người bất động như búp bê. Rồi, rốt cuộc...

Dường như đã quyết định, Mei đứng dậy khỏi giường, đối diện tôi. Cô quay miếng băng bên mắt trái mà vừa nãy hoàn toàn khuất khỏi tầm nhìn của tôi ra. Rồi, với những cử động chừng mực, cô gỡ nó xuống.

“Con mắt này...”

Con mắt giả đặc biệt. Cô nhìn tôi bằng con ‘mắt xanh trống rỗng’ ấy.

“Con mắt búp bê này mách cho tôi biết không phải là cậu.”

Tất nhiên, tôi không hiểu ngay được lời cô. Dù vậy, tiềm thức tôi mường tượng được chút ít rồi.

“Sao lại như thế được?” Tôi hỏi.

Lần này Mei đáp ngay, không do dự. “Tôi nghĩ trước đây đã có lần nói với cậu rồi. Con mắt này có thể nhìn thấy những thứ vốn dĩ vô hình. Những điều không muốn thấy, những điều không nên thấy, nhưng điều ao ước không phải thấy...”

“Những điều không muốn thấy? Những điều không nên thấy? Ví dụ là gì?”

“Có lẽ là...” Mei giơ tay phải lên, che con mắt vốn không phải mắt búp bê, “Màu của cái chết.”

Cô nhả ra từng từ như đang đọc thần chú. “Màu, sắc, tông, của thứ gì đó ở thế giới kia, gần với tử vong.”

“...”

“Cậu có hiểu không? Không, tôi thấy là cậu chẳng hiểu được.”

Nói thật lòng tôi không biết nên trả lời ra sao. Tuy nhiên...

“Bình thường chẳng ai tin, kể cả khi đã nghe giải thích... Nhưng có lẽ tôi vẫn nên kể hết. Cậu sẵn sàng lắng nghe chứ?”

Tôi gật đầu chẳng buồn suy nghĩ, rồi nhìn thẳng vào con mắt đang chĩa vào tôi. Con mắt xanh tuyệt đẹp nhưng trống rỗng tuyệt đối...

“Tớ nghe đây,” tôi nói.

4

“Thoạt tiên tôi không thực sự hiểu được chuyện gì đang xảy ra, nên lúc nào cũng thấy hoang mang, thất vọng.”

Mei ngồi xuống mép giường, không bịt con mắt xanh lại. Cô kể cho tôi nghe câu chuyện, vẫn với chất giọng trầm lắng lãnh đạm.

“Khi hỏng mắt trái, tôi mất luôn khả năng nhìn bằng con mắt đó. Thậm chí nếu cậu rọi thẳng đèn pin vào, tôi cũng chẳng nhận biết được. Dĩ nhiên nhắm mắt phải lại thì tôi sẽ chẳng còn nhìn thấy gì. Năm bốn tuổi, tôi đã làm phẫu thuật để khoét mắt trái ra. Tình trạng nhìn bằng một mắt bắt đầu từ ấy. Kể cả khi Kirika làm ra ‘con mắt búp bê’ này, một thời gian rất dài tôi cũng không thực sự dùng đến. Nhưng rồi... Khởi đầu ra sao nhỉ? Hình như là khi một người họ hàng của bố qua đời, họ đưa tôi đi dự đám tang. Khoảng cuối năm lớp Ba hay đầu năm lớp Bốn. Người ta nhắc “Cháu chào tạm biệt đi!”, tôi bèn đặt hoa lên quan tài... Và khi nhìn vào gương mặt người chết, tôi cảm thấy có điều gì lạ lẫm lắm. Con mắt giả đáng ra không nhìn thấy gì, nhưng lại cảm ứng được... Không phải với hình dạng. Mà với màu sắc. Tôi hoảng hồn. Đó là lần đầu tiên tôi tiếp nhận được thông tin bằng mắt trái. Khi che mắt trái, chỉ nhìn bằng mắt phải, tôi nhìn thấy đúng gương mặt của người chết, hoàn toàn bình thường. Nhưng khi tôi dùng mắt trái để nhìn, thì có một sắc màu lạ thường len vào thi trường, phủ lên mọi thứ khác...”

“Một màu sắc lạ thường? Là màu gì?” Tôi hỏi.

“Không tả được,” Mei đáp, khẽ lắc đầu. “Đó là màu mà mắt phải chưa từng nhìn thấy... một màu không thể nhìn ra bằng con mắt thường. Không thể mô tả nó bằng những từ như đỏ, xanh dương, vàng hay bất cứ màu nào mà tôi biết. Không có khái niệm phù hợp. Đó là... một màu không hề tồn tại ở thế giới của chúng ta.”

“Kể cả khi cậu pha trộn bất cứ màu nào trên đời?”

“Chính thế.”

“Đó là ‘màu của cái chết’?”

“Thoạt tiên tôi không biết...”

Ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, Mei thở hắt ra. “Không ai giải thích được cả. Các bác sĩ thăm khám, nhưng không phát hiện điều gì bất thường. Họ nói chỉ là do tôi tưởng tượng ra mà thôi. Tôi cố tin lời bọn họ... Nhưng rồi vẫn nhìn thấy những thứ như thế, nó không biến mất. Cho nên...”

Mei chậm rãi quay sang nhìn tôi.

“Sau vài năm, tôi đã hiểu ra. Khi tôi cảm nhận được màu sắc đó, có nghĩa là ‘cái chết’ đang hiện hữu.”

“Tức là mỗi khi nhìn vào gương mặt của một người đã chết cậu sẽ thấy ‘cái chết’?”

“Có lần nó xuất hiện khi tôi chứng kiến một vụ tai nạn giao thông. Có người mắc kẹt trong ghế lái của một chiếc xe bị tông. Mặt mũi bê bết máu... Ông ta đã chết. Tôi nhận ra trên gương mặt ông ta sắc màu từng nhìn thấy ở đám tang. Mà không chỉ riêng lúc chứng kiến trực tiếp đâu. Thế nào nhỉ, trên bản tin, khi họ phát các đoạn băng, các bức ảnh về tai nạn hay chiến tranh. Ti vi hay báo thì không nhiều, nhưng trên tạp chí thỉnh thoảng có đăng hình người chết. Chạm mắt phải những thứ như thế, tôi lại thấy nó.”

“Vẫn một màu đó à?”

“Tôi không chắc. Có quá nhiều sắc độ.”

“Gì cơ?”

“Đôi lúc tôi cảm nhận rất rõ, đôi lúc lại rất mờ ảo. Có thể coi đây là các sắc độ khác nhau của cùng một màu. Khi ai đó đã chết, màu rất nét, khi ai đó bị thương nặng, sắp chết hoặc ốm liệt giường, màu sẽ nhợt nhạt.”

“Vậy là cậu không chỉ thấy màu đó ở người chết.”

“Ừ. Trong những trường hợp ấy, tôi nghĩ vì người ta sắp chết. Họ đã tiến sát cái chết hơn mức bình thường, hơn mức cần thiết. Phần hồn của họ đã bị kéo lại cận kề mức độ tử vong. Chính vì thế màu đó nhợt nhạt. Không hẳn là màu nữa, mà là sắc thì đúng hơn... Cậu hiểu chứ? Tôi không chịu được không khí của các bệnh viện. Có lần bà Amane phải nhập viện để mổ khối u ung thư, bà vẫn ổn vì phát hiện bệnh sớm, nhưng khi cả nhà vào thăm bà... Thật kinh khủng. Tôi sợ điên lên. Không cần bỏ chút công sức nào, tôi cũng nhìn thấy đủ các bệnh nhân ở khu đó ánh lên sắc thái của cái chết... Đây không phải là tiên tri hay quyền năng gì tương tự. Tôi sẽ nhìn thấy màu trên những người bị thương nặng hay ốm kiệt quệ, nhưng nếu gặp một người về sau chết do tai nạn bất ngờ thì tôi lại không nhìn thấy gì. Nên tôi nghĩ có lẽ đây là khả năng nhìn ra yếu tố chết chóc ở một người.”

“...”

“Nói thật lòng, tôi cũng chẳng dễ chịu gì khi tới bệnh viện thăm Misaki, bởi vì thỉnh thoảng tôi sẽ phải cảm nhận nó. Nhưng tôi chưa từng nhìn thấy màu sắc của cái chết ở Misaki. Điều này khiến tôi rất bình tâm. Tôi ngỡ em sẽ chóng khỏe lại... Thế rồi, đột nhiên, em ấy...” Mei cắn môi dưới, có thể là buồn bã, cũng có thể là xót xa. Đôi môi mím chặt hồi lâu mới mấp máy kể tiếp. “Hẳn cậu sẽ muốn biết tại sao con mắt này lại thấy những thứ đó, và nó hoạt động ra sao. Tôi gọi nó là ‘màu của cái chết’, nhưng tôi lại chỉ bắt gặp nó ở con người. Với động vật thì không... Như thế chẳng lạ sao? Phải nói là kỳ quái ấy. Tôi rất băn khoăn, còn sợ khủng khiếp và căm ghét nó nữa. Tôi cố tìm mọi góc độ biện giải, nhưng chẳng tìm ra. Tôi không hiểu, mà cũng chẳng thể trốn thoát. Tất cả những gì tôi có thể làm là chấp nhận thực tế. Cuối cùng bắt đầu nghĩ theo hướng: có thể là tại sự vô hồn của búp bê.”

Búp bê gắn liền với sự trống rỗng.

À... Câu này Mei cũng đã nói với tôi trong một lần gặp nhau ở tầng hầm khu trưng bày.

Cơ thể, trái tim chúng đều rỗng... Một khoảng hư không. Sự trống rỗng đó giống như cái chết.

“Cậu biết đấy, lũ búp bê đều vô hồn. Chúng sở hữu vẻ vô hồn vốn tương ứng với ‘cái chết’. Con mắt trái của tôi giống chúng nó ở chỗ nhận ra đồng loại màu cái chết trên con người. Mà cũng có thể là tại ca phẫu thuật mắt, chưa biết chừng bấy giờ tôi đã chết rồi.”

Nghe Mei nói, tôi có cảm giác như sắp âm thầm hé mở được một điều bí mật vốn chôn chặt trước toàn thế giới.

“Tôi chỉ còn cách chấp nhận hướng lý giải đó. Nhưng chẳng thể nào kể cho bất kỳ ai nghe, thậm chí chưa bao giờ giải thích cặn kẽ cho Misaki biết. Tôi không thể. Và rồi đến một lúc, tôi quyết định che con mắt này, nhất là khi ở cạnh người khác.”

“Tớ hiểu.”

Kể cả khi đã nghiêm túc gật đầu với Mei, phần lý trí trong óc tôi vẫn không ngừng lao động. Tôi tin được mấy phần câu chuyện cô vừa kể?

Tuy nhiên, không để lộ điều đó, tôi hỏi với vẻ nghiêm trang, “Những bóng ma thì sao? Cậu có thấy ma không? Phần hồn của người chết, hay thứ gì tương tự như thế ấy?”

“Không... Chưa bao giờ.” Mei nghiêm túc đáp.

“Thật ra tôi không biết ma quỷ có tồn tại như kiểu mọi người vẫn nói, hay chúng có thường lui tới những địa điểm người ta vẫn đồn thổi không. Dù tôi nghĩ, về cơ bản, có lẽ là không.”

“Thế còn những bức ảnh ma?” Dĩ nhiên, đây là câu hỏi có chủ đích.

“Những bức ảnh như thế cũng không.” Cô trả lời kiên định. “Những bức ảnh chiếu trên ti vi hay trên tạp chí đều là ảnh giả hoặc ngụy tạo cả. Nhưng chính vì thế mà...” Nói đến đây, ánh mắt Mei trở nên sắc bén. “Chính vì thế tôi muốn xem tấm ảnh hai mươi sáu năm trước. Tôi muốn dùng con mắt này xem ảnh thật để đảm bảo chắc chắn.”

“Ừ. Thế lúc ấy...”

Hôm kia, Mei tới nhà tôi, đã mở miếng băng che mắt trái trong lúc xem số ảnh mẹ tôi để lại. Rồi cô hỏi tôi, Thế còn màu sắc thì sao? Chính là câu hỏi đó. Cậu không thấy một màu lạ à?

“Cậu nhìn thấy gì?” Tôi hỏi. “Cậu có nhìn thấy ‘màu của cái chết’ trên người Yomiyama Misaki không?”

“Có,” cô đáp ngay lập tức. “Đó là lần đầu tiên tôi nhìn vào tấm ảnh mọi người vẫn bảo là ảnh ma và cảm nhận màu sắc. Nên hẳn là...”

Mắt tôi dán vào môi Mei trong khi cô nói, và trí nhớ chậm chạp ùa về. Tôi biết chắc mình không phải là “kẻ đã chết”. Những lời cô nói vào cái ngày tôi tới chơi nhà cô và trò chuyện hồi lâu ở phòng khách tầng ba.

Khi tôi tiếp tục chất vấn, Cậu dám khẳng định mình không phải là “kẻ đã chết”. Thì cô bắt đầu phân trần, Để tôi nói... nhưng rồi cô nín bặt.

“Tôi hy vọng chừng này sẽ đủ giải thích,” Mei nói, chậm rãi nhổm khỏi giường. “Khi gỡ miếng băng che mắt và nhìn cậu, tôi vẫn không nhận ra ‘màu của cái chết’ trên người cậu. Nên không phải cậu đâu. Cậu không phải là ‘người dư ra’.”

“Cũng nhờ vậy cậu biết cũng không phải là cậu?”

“Ừ.”

Mei gật đầu, nhặt miếng băng che lên, đang đeo vào như cũ thì dừng lại như thể vừa nghĩ ra điều gì.

“Bình thường tôi tin tưởng khả năng huyền bí của con mắt búp bê này. Nhưng khi ngẫm nghĩ lại, tôi thấy hình như mình không tin hoàn toàn đâu. Thỉnh thoảng tôi vẫn hồ nghi, cho rằng có lẽ chỉ do ảo ảnh. Dù chỉ là ảo ảnh, song như tôi vừa nói với cậu đấy, nó ‘không phải là tiên tri hay quyền năng gì tương tự’, phải không nào? Tuy vậy cũng tốt. Nếu lúc nào đó trong tương lai Tử thần tìm tới, có lẽ tôi sẽ biết trước. Chỉ cần có những hành động kịp thời, trong những trường hợp nhất định, tôi có thể thoát chết... Nhớ có lần cậu tỏ ra lo ngại khi tôi đi về nhà một mình không? Tôi nói là vẫn ổn ấy? Đây chính là lý do.”

Đúng vậy.

Tôi nhớ rất rõ.

“Ừ, giả sử tớ tin những điều cậu vừa kể...” Tôi vừa nói vừa đứng dậy. Cảm giác ớn lạnh, tê rần đã biến mất. Thay vào đó, dù điều hòa phả hơi lạnh cả phòng, gáy tôi vẫn đẫm mồ hôi.

Tôi đứng cách Mei chừng một mét. Cô mở cả hai mắt - trái và phải - nhìn như dán vào tôi. Đằng sau, cửa sổ lại rung ầm ầm.

“Có nghĩa cậu biết người đó là ai? ‘Kẻ đã chết’ ấy? Cậu đã nhìn bằng con mắt búp bê và biết được ai là ‘người dư ra’ trong lớp chưa?”

Mei cử động đầu một cách mơ hồ, không biết là kháng định hay phủ định lời tôi. Rồi cô đáp, “Tôi cố gắng không gỡ băng che khi ở trường. Từ lúc lên lớp Chín và được biết về ‘lời nguyền’ qua đủ loại tin đồn, tôi chưa từng bỏ băng che, kể cả khi bắt đầu kỳ học mới, khi Misaki mất hay khi cậu chuyển tới trường này... Thậm chí sau ngày Sakuragi chết, mà tôi rốt cuộc phải tin ‘tai ương’ là có thật, tôi vẫn chưa từng...”

“Kể cả khi cậu viết dòng chữ đó trên bàn?”

“Kẻ đã chết” là ai?

“Kể cả khi cậu có thể chỉ ra người đó chỉ bằng động tác bỏ miếng băng che mắt?”

“Dù tìm ra được, biết được là ai, tôi cũng không nghĩ được mình có thể làm gì, biết rồi thì giúp ích gì. Tôi đã từng rất băn khoăn, nhưng... Cậu hiểu chứ?”

Thật lòng, tôi không đồng tình với lời giải thích của Mei cho lắm.

Đúng là ở trường tôi chưa bao giờ thấy cô mở miếng băng che mắt. Nhưng chỉ mở một lúc cần thiết thôi thì có làm sao? “Kẻ đã chết” là ai? Giải đáp thắc mắc đó không tốt sao? Cứ để yên thế này không bứt rứt sao?

Nhưng mà... Dù sao đi chăng nữa, đó cũng là quá khứ. Giờ cứ bấn loạn vì nó thì cũng chẳng ích gì. Vấn đề là ở hiện tại đây.

“Vậy... Tôi đặt bàn tay lên ngực, hít thở thật sâu. Có lẽ vì quá căng thẳng, cũng có lẽ do tôi tưởng tượng ra, nhưng cảm giác nhói đau dội lên, khơi gợi những ký ức liên quan đến căn bệnh xẹp phổi đáng ghét đó. “Bây giờ thì sao?”

Cô đã nghe cuốn băng Matsunaga Katsumi để lại từ mười lăm năm trước. Giờ cô không thể nói rằng sẽ chẳng biết làm thế nào dù khám phá ra kẻ đó là ai.

“Cậu có biết không? Cậu có nhìn thấy không? Người đó có mặt trong chuyến cắm trại này không?”

Hàng mày của Mei run run, như thể những câu hỏi ồ ạt của tôi đã làm cô mất thăng bằng. Cô do dự rồi đặt tay lên ngực, hít thở thật sâu như tôi vừa làm, ánh mắt khó xử lảng sang bên, cô lại khẽ cắn môi dưới. Cuối cùng, cô gật đầu. “Người dư ra đang ở đây.”

“Quả nhiên.” Mồ hôi túa ra dưới áo sơ mi, tôi nhìn chằm chằm vào đôi môi Mei. “Là ai?”

“Tôi không...”

Đúng lúc ấy, một tiếng động mạnh phát ra bên ngoài, ngắt ngang cuộc nói chuyện của chúng tôi. Ai đó đang động mạnh vào cửa. Không phải gõ, mà giống phi thân vào cửa hơn.

“Ai đấy?”

Đáp lại lời Mei, cánh cửa bật tung ra. Vừa nhìn thấy người loạng choạng đi vào, tôi đã quên bẵng chuyện đang nói dở, hét to. “Teshigawara?! Làm sao thế?”

5

Chỉ nhìn thoáng qua, tôi cũng biết có chuyện tồi tệ vừa xảy ra.

Hơi thở của cậu hổn hển lạ thường, như thể đã chạy hết tốc lực tới đây. Áo sơ mi dính bết vào lớp da đẫm mồ hôi. Tóc và mặt cũng ướt sũng. Da trắng bệch. Biểu cảm cứng nhắc, ánh mắt thất thần.

“Có chuyện gì vậy?”

Khi tiến lại gần, tôi nghe trong họng cậu ấy phát ra những tiếng lục khục, đầu thì lắc quầy quậy. Nhìn hết tôi đến Mei, hoàn toàn không phản ứng trước sự kiện Mei bỏ miếng băng che mắt ra, cuối cùng cậu nói giữa những tiếng thở phì phò, “Ừm. Xin lỗi, đã đường đột vào đây, nhưng... Tớ mạo muội hỏi các cậu một câu được không?”

Cậu ấy muốn hỏi chúng tôi một câu? Thật là lạ thường. Quá sức dị thường. Cậu ổn chứ, Teshigawara? Cái khỉ gì mà cậu...

“Tớ chỉ hỏi điều này, nhanh thôi.”

Hơi thở gấp gáp, Teshigawara chạy vụt qua chỗ tôi, tiến lại cửa sổ. Cửa trông ra vườn, quanh đó ba mặt là nhà, có một ban công đủ chỗ cho một người đứng.

Cậu dừng bước, quay người lại nhìn chúng tôi, buông một câu, “Các cậu có biết ai tên là Kazami Tomohiko không?”

“Gì cơ?”

Tôi nghiêng đầu thắc mắc. Mei cũng phản ứng y hệt. “Nói rõ ra một chút đi nào.”

“Tớ chỉ đang hỏi các cậu đúng một câu. Các cậu có biết ai là Kazami không? Tóm tắt đôi nét về cậu ta được không?” Teshigawara lặp lại câu hỏi, giọng vẫn hết sức nghiêm túc.

“Chắc chắn rồi. Tớ biết cậu ấy, nhưng...” Tôi trả lời, điềm gở nặng nề luẩn quẩn trong tâm trí. “Cậu ấy là cán sự đại diện cho bên nam ở lớp 9-3. Bạn nối khố của cậu.”

“Ôi trời ơiiiiii...” Mặt Teshigawara méo xệch, giọng rên rỉ. “Cậu thì sao, Misaki? Cậu có biết cậu ta không?”

“Tất nhiên tôi biết cậu ấy là ai.”

Teshigawara lại than van “Ôi trời!” rồi lẩm bẩm, “Phải, tất nhiên rồi.”

Đầu gối nhũn ra, cậu ngồi thụp xuống, mặt tái nhợt đi, môi run run.

“Thôi nào, Teshigawara, sao cậu lại thế? Có chuyện gì vậy?”

Teshigawara vẫn ngồi bệt trên sàn, khi tôi tiến lại gần, cậu ấy lắc lắc đầu vẻ hoảng loạn. “Tệ quá,” giọng vỡ vụn như bánh mì khô giòn. “Thực sự tệ quá...”

“Cậu đang nói gì vậy?”

“Có lẽ tớ sai rồi...”

“Sai? Sai gì?”

“Tớ... Tớ nghĩ cậu ấy là ‘người dư ra’. Nên tớ...”

“Cậu ấy ư? Ý cậu là...”

“Cậu đang nói về Kazami?”

“Kazami.”

“Cậu không...”

“Tớ giết cậu ấy rồi.”

Teshigawara giết Kazami? Cậu ấy giết Kazami thật sao?

“Cậu đừng đùa.”

“Tớ bịa chuyện như thế làm gì?” Teshigawara vùi đầu vào hai bàn tay. “Sau vụ đó tớ thường ngấm ngầm kiểm tra. Trò chuyện về những việc diễn ra thời bọn tớ còn bé xíu, xem xem Kazami có nhớ không. Mà cậu ấy...”

“Cậu nói thật ư?”

“Cậu ấy xử sự lạ lắm, tớ thề đấy,” Teshigawara nói với chúng tôi, giọng thổn thức. “Tớ hỏi về khu hầm bí mật bên sông nơi bọn tớ chơi khi học lớp Ba, Kazami nói ‘Không nhớ’. Tớ hỏi cậu ấy về mùa hè năm lớp Năm, bọn tớ muốn đạp xe đạp ra biển, nhưng vừa ra tới ngoại ô đã bỏ cuộc. Nhưng cậu ấy nói ‘Nghe lạ thế’, nên...”

“Nên sao?”

“Ban đầu, tớ không chắc liệu đó có phải là dấu hiệu hay không, nhưng cứ nghiền ngẫm mãi, tớ đâm nghi... Cho rằng đây không phải là cậu ấy, Kazami đã chết từ lâu, Kazami này là ‘người dư ra’ lẻn vào lớp mình từ mùa xuân vừa qua...”

Ôi, tôi nghĩ Teshigawara thực sự hiểu lầm rồi. “Người dư ra” (“kẻ đã chết”) sẽ không xử sự như thế.

Theo như những gì Mei và thầy Chibiki giải thích, tôi nghĩ người ta chẳng thể hỏi nó là thứ “có thật” hay chỉ “giả vờ”. Vì lúc nào nó cũng “có thật” cả: Người đã chết quay về mà không hề hay biết họ đã trở thành tai ương chen chân vào thế giới. Nên nếu hỏi họ có nhớ được những chuyện lúc nhỏ không cũng chẳng ích gì. Sẽ chẳng có chứng cứ hay manh mối để nhận ra họ. Tuy nhiên...

Những ký ức về thời thơ ấu mà Teshigawara đề cập hẳn đã mờ nhạt hoặc biến mất trong trí nhớ người ta. Tuy nhiên...

“Rồi tối nay, cách đây một lúc, tớ... lừa gọi cậu ấy đi cùng.”

Giọng Teshigawara giờ đã khàn đặc, cậu mô tả chuyện đã xảy ra, “Tớ ở chung phòng với Kazami, nhưng tớ không muốn người ở phòng bên cạnh nghe thấy nên muốn dẫn cậu ấy đi chỗ khác. Tớ tìm thấy một phòng giải trí ở góc tầng hai, nên rủ cậu ấy tới... Tới nơi, tớ tự cổ vũ mình rồi chất vấn cậu ấy: “Cậu không phải là Kazami, đúng không? Cậu là ‘người dư ra’ trong lớp, đúng không? Kazami run rẩy, hoảng hốt, rồi đánh lại tớ. Nên tớ nghĩ, trời ơi, xem cái cách cậu ta phản ứng tội lỗi chưa kìa. Giống như trong cuốn băng đã nói, nếu cậu ấy chết... Tớ phải gửi trả cậu ấy cho Tử thần để cứu mọi người.”

“Cậu giết cậu ấy?” Tôi kiềm chế để khỏi thét lên.

“Thật không?”

“Ban đầu chỉ giống như tranh cãi, rồi ẩu đả, chứ tớ không nghĩ ‘Được, đã tới lúc giết cậu ấy’ rồi hành động... Ôi, tớ thực sự không biết mình đang nghĩ gì. Chẳng hiểu sao bọn tớ đẩy nhau ra ban công. Chưa kịp nhận thức tình hình, thì...” “Cậu ấy ngã xuống?”

“Ừ.”

“Cậu có đẩy cậu ấy không?”

“Hình như có.”

“Vậy là cậu ấy chết?”

“Cậu ấy nằm dưới đất, không cựa quậy gì. Đầu cũng rỉ máu.”

“Được rồi...”

“Lúc ấy tớ phát hoảng. Run như cầy sấy.”

Teshigawara co một chân lên ngực, hai tay ôm lấy mái đầu bết mồ hôi.

“Tớ chạy lên hành lang, rồi đến đây. Vì tớ biết cậu tới phòng Misaki. Tớ nghĩ tớ phải kể cho các cậu trước.”

“Mochizuki thì sao?”

“Không thể tin tưởng cậu ấy được.”

“Nhưng mà, sao cậu hỏi bọn tớ những câu đó?”

“Vì cuốn băng. Nhớ không?”

Teshigawara rút tay khỏi tóc, ngước nhìn tôi. Đôi mắt vằn máu, nước mắt mấp mé như sắp tuôn xuống bất cứ lúc nào.

“Giống như Matsunaga Katsumi nói, sau khi anh ta giết ‘người dư ra’ trong chuyến cắm trại mười lăm năm trước... Cậu nghe anh ấy kể hết rồi mà, đúng không? Ngay khi ‘người dư ra’ chết, hắn sẽ ngừng tồn tại. Không ai trong lớp nhớ hắn từng ở đó, ngoại trừ Matsunaga, vì chính tay anh ta thực hiện việc đó. Thế nên tớ...”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx