sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Ba tách trà - Chương 21 phần 3 (Hết)

“Tôi thực sự thấy choáng khi nghe câu chuyện của Uzra.” Mortenson nói. “Ở đây, người phụ nữ mạnh mẽ kiêu hãnh này cố gắng thực hiện điều không thể thực hiện được. Bức tường bao quanh ngôi trường của bà đã đổ nát thành gạch vụn. Mái trường đã sập, dẫu vậy bà vẫn đến làm việc hằng ngày, sắp xếp mọi chuyện lại với nhau vì bà tha thiết cho rằng giáo dục là cách duy nhất để giải quyết các vấn đề của Afghanistan.”

Mortenson đã có ý định đăng kí hoạt động cho CAI ở Kabul để có thể xin được bất cứ giấy phép cần thiết nào cho việc bắt đầu xây dựng các trường học. Nhưng bộ máy hành chính cũng không hoạt động như hệ thống điện và điện thoại của thành phố. “Abdullah lái xe chở tôi từ bộ này sang bộ khác nhưng không có ai ở đó. Do đó tôi quyết định quay trở lại Pakistan, huy động một số nguyên vật liệu cho trường học và bắt đầu việc giúp đỡ bất cứ khi nào mình có thể.”

Sau một tuần ở Afghanistan, Mortenson được cấp một chỗ ngồi trên chuyến bay đến Peshawar của Hội Chữ Thập Đỏ. Sau Afghanistan, những vấn đề của Pakistan dường như dễ sắp xếp hơn, Mortenson nghĩ khi đến thăm trại tị nạn Shamshatoo để kiểm tra cho chắc chắn rằng các giáo viên nhận được đủ lương từ CAI. Giữa Shamshatoo và biên giới, anh dừng lại và chụp ảnh ba đứa bé trai đang ngồi trên những giỏ khoai. Qua ống ngắm, anh nhìn ra một điều gì đó mà mình chưa nhìn thấy bằng mắt thường. Những cậu bé này đều có một cái nhìn ám ảnh giống hệt nhau, cái nhìn mà anh đã thấy ở Kabul. Mortenson đặt máy ảnh xuống và hỏi chúng bằng tiếng Pashto, xem chúng có cần gì không.

Đứa lớn nhất, chừng mười ba tuổi tên là Ahmed, dường như bớt căng thẳng khi nói chuyện với một người lớn đồng cảm. Cậu bé giải thích rằng mới một tuần trước đây, cha của cậu đang cẩn thận mang khoai tây mua được ở Peshawar về ngôi làng nhỏ của họ ở bên ngoài Jalalabad để bán thì bị giết chết bởi một tên lửa bắn ra từ một chiếc máy bay Mỹ, cùng với mười lăm người buôn bán thực phẩm và nhu yếu phẩm khác.

Với hai đứa em, Ahmed đã quay trở lại Peshawar mang về một mớ khoai tây khác được những người bán hàng thương hại khi biết chuyện của cha chúng đã bán giảm giá, và đang cố thụ xếp để trở về với mẹ và các em gái, vẫn còn đang than khóc ở nhà.

Ahmed nói một cách thẳng thừng về cái chết của cha mình, và điều quan trọng là cậu kể lại câu chuyện đó với một công dân của một quốc gia mà các lực lượng vũ trang đã giết chết cha mình đã không tạo ấn tượng mạnh mẽ đối với cậu, khiến Mortenson biết chắc rằng cậu bé đang đau khổ vì cú sốc đó.

Nếu là anh, anh cũng như thế. Mortenson đã trải qua ba đêm mất ngủ ở Home Sweet Home, sau khi Suleman đưa anh về từ Peshawar, cố để xử lí những gì anh đã thấy ở Afghanistan. Và tiếp sau sự nghèo đói của Kabul và trại tị nạn, Mortenson trông chờ việc đến thăm vùng Skardu quen thuộc. Ít nhất là cho đến khi anh gọi cho Parvi để có thông tin cập nhật về tình trạng của các trường học của CAI.

Parvi nói với Mortenson rằng vài ngày trước đó, lúc nửa đêm, một nhóm côn đồ do Agha Mubarek, một trong những giáo sĩ làng có thế lực nhất ở bắc Pakistan, đã tấn công dự án mới nhất của họ, một trường hỗn hợp nam-nữ mà họ gần hoàn tất ở làng Hemasil, trong thung lũng Shigar. Chúng đã cố phóng hỏa, Parvi báo cáo. Nhưng những dầm mái và khung cửa sổ gỗ chỉ bị nám đen chứ không bắt cháy. Do đó bọn côn đồ của Agha Mubarek đã vung búa tạ và đập đổ tường - những bức tường gạch đá khối đã được xây tô cẩn thận - thành một đống gạch vụn.

Lúc Mortenson đến Skardu để triệu tập một buổi họp khẩn cấp về trường Hemasil, anh được chào đón bằng nhiều tin xấu khác. Agha Mubarek đã ban hành một fatwa, cấm Mortenson hoạt động ởPakistan. Còn rắc rối hơn cho Mortenson là một nhà chính trị có thế lực mà anh quen biết là Imran Nadim đã chiều theo ý phe Shia bảo thủ, và tuyên bố công khai ủng hộ Mubarek.

Ngồi uống trà, ăn bánh ngọt trong phòng ăn dành riêng trên lầu khách sạn Indus, Mortenson triệu tập một jirga những người ủng hộ nòng cốt của mình.

“Mubarek muốn nhận hối lộ.” Parvi thở dài nói. “Giáo sĩ này đã tiếp cận hội đồng làng Hemasil và đòi một khoản hối lộ để cho phép trường được xây dựng. Khi họ từ chối, hắn đã phá hủy trường và ban hành fatwa của hắn.”

Parvi giải thích rằng mình đã nói chuyện với Nadim, một nhà chính trị ủng hộ Mubarek, và ông ta đã gợi ý vấn đề có thể được giải quyết với một khoản tiền. “Thật điên rồ.” Mortenson nói. “Tôi muốn đội vũ trang của những đồng minh của tôi trong quân đội xông vào làng của Mubarek và dọa cho hắn rút lui.” Parvi khuyên một giải pháp lâu dài hơn. “Nếu anh lại gần nhà gã cướp đó với binh lính xung quanh, gã sẽ hứa với anh bất cứ chuyện gì, rồi làm ngược lại ngay khi những tay súng rời đi.” Parvi nói. “Chúng ta cần dàn xếp chuyện này một lần cho xong ở tòa án, Tòa án Shariat.”

Mortenson đã nghe theo lời khuyên của Parvi. Với ông bạn già trưởng làng Mehdi Ali của mình ở Hemasil, là người đi đầu trong việc xây dựng ngôi trường, Parvi sẽ kiện lên Tòa án Hồi giáo Skardul Hồi giáo chống lại Hồi giáo. Parvi khuyên Mortenson phải giữ khoảng cách với cuộc chiến pháp lí này và tiếp tục công việc rất quan trọng của mình ở Afghanistan.

Mortenson gọi điện cho ban giám đốc từ Skardu, báo cáo những gì anh đã thấy ở Afghanistan và yêu cầu được phép mua hàng hóa tiếp tế cho trường học để chuyển sang Kabul. Trong sự ngạc nhiên của anh, Julia Bergman đề nghị bay sang Pakistan để đi cùng trong chuyến đi mà anh đã dự trù bằng đường bộ từ Peshawar đếnKabul. “Đó là một việc rất can đảm.” Mortenson nói. “Vẫn còn có giao tranh dọc theo lộ trình của chúng tôi, nhưng tôi không thể nói Julia đừng đến. Bà biết những phụ nữ Afghanistan đã chịu đau khổ như thế nào dưới thời Taliban và bà hết sức mong muốn giúp đỡ họ.”

Tháng 4 năm 2002, Julia Bergman tóc vàng, mặc một bộ shalwar kamiz mềm mại và đeo một mặt dây chuyền sứ quanh cổ ghi dòng chữ “Tôi muốn sử dụng hết năng lực của mình khi tôi chết.” vượt qua đồn biên giới Landi Khotal với Mortenson và leo lên chiếc xe tải nhỏ mà bạn của anh tài xế taxi Sulivan là Monir đã sắp xếp cho chuyến đi của họ đến Kabul. Băng ghế sau và khoang chở hàng của chiếc xe chất đầy đến mui những món hàng tiếp tế cho trường học mà Bergman và Mortenson đã mua ở Peshawar. Suleman, không có hộ chiếu, đau khổ vì không thể đi cùng để bảo vệ họ. Dưới sự thúc giục của Suleman, Monir, một người Pashtun đã nghiêng người vào trong xe, bóp mạnh vào gáy của người tài xế. “Tôi xin thề, nếu có điều gì xảy ra cho sahib và memsahib này, chính tay tôi sẽ giết chết anh.”

“Tôi ngạc nhiên vì toàn bộ vùng biên giới lại rộng mở.” Mortenson nói. “Tôi không thấy lực lượng an ninh ở đâu cả. Osama và một trăm chiến binh của mình có thể đi ngay vào Pakistan mà không có ai ngăn chặn chúng lại.”

Chuyến đi hai trăm dặm đến Kabul mất mười một giờ. “Dọc đường, chúng tôi có thể thấy những chiếc xe tăng và xe quân sự cháy rụi vì bom.” Bergman nói. “Nó thật tương phản với cảnh quan vốn xinh đẹp. Ở khắp nơi, những cánh đồng đầy hoa anh túc đỏ và trắng, và phía xa xa là những ngọn núi chóp phủ tuyết khiến cho vùng quê trông có vẻ thanh bình so với thực tế.”

“Chúng tôi dừng lại để ăn và uống trà ở khách sạn Spin Ghar ở Jalalabad.” Mortenson nói, “Vốn từng là tổng hành dinh của Taliban. Trông giống như những ảnh chụp thời Chiến tranh Thế giới lần II ở Dresden sau khi bị ném bom cháy mà tôi đã thấy. Từ những người bạn đã chạy đến Shamshatoo, tôi được biết Không lực Mỹ đã ném bom trải thảm dữ dội Jalalabad bằng B52, tôi lo ngại cho sự an toàn của Julia. Tôi thấy những đôi mắt hoàn toàn căm ghét của người dân và tôi tự hỏi có bao nhiêu quả bom của chúng ta đã rơi trúng những người dân như người đàn ông bán khoai.”

Sau khi đến Kabul an toàn, Mortenson đưa Bergman đến khách sạn Intercontinental, trên một đỉnh cao nhìn bao quát cả thành phố bị thương. Intercontinental là nơi gần nhất ở Kabul còn đầy đủ chức năng để mà cho thuê. Chỉ một nửa khách sạn bị sụp đổ. Với năm mươi đôla một đêm, họ được đưa đến một phòng trong dãy nhà còn nguyên vẹn, nơi mà những cửa sổ vỡ tung đã được vá lại bằng những tấm chất dẻo và nhân viên khách sạn mang đến những xô nước nóng mỗi ngày cho họ tắm rửa.

Cùng Hash và Abdullah, hai người Mỹ đã đi tham quan hệ thống giáo dục quá tải của Kabul. Ở Viện Y học Kabul, trung tâm đào tạo bác sĩ đa khoa có uy tín nhất của đất nước, họ dừng lại để tặng sách y khoa mà một người quyên tặng của CAI, Kim Trudell ởMarblehead, Massachusetts đã yêu cầu Mortenson mang sangKabul. Chồng bà là Frederich Rimmele đã mất trên đường đến một hội nghị y khoa ở California vào ngày 11 tháng 9. Chuyến bay của ông, chuyến bay 175 của hãng United Airlines, đã tan biến thành một đám mây nhiên liệu phản lực đâm vào tòa tháp phía nam của Trung tâm Thương mại Thế giới. Trudell đã yêu cầu Mortenson mang những quyển sách y khoa của chồng mình đến Kabul, bà tin rằng giáo dục là chìa khóa để giải quyết cuộc khủng hoảng với các chiến binh Hồi giáo.

Trong giảng đường trông giống như một hang động, không được sưởi ấm, dưới một trần nhà võng xuống, Mortenson và Bergman thấy có 500 sinh viên đang chăm chú nghe một bài giảng. Họ biết ơn về những quyển sách được tặng, vì họ chỉ có mười quyển sách giáo khoa cần thiết cho khóa học giải phẫu học nâng cao, Mortenson được biết. Và 500 bác sĩ tương lai, 470 nam và 30 phụ nữ ngoan cường, luân phiên mang sách về nhà để chép lại từng chương và vẽ lại những biểu đồ phác họa bằng tay.

Nhưng ngay cả quá trình cần cù này cũng đã là một sự cải thiện về tình trạng của trường so với vài tháng trước đó. Tiến sĩ Nazir Abdul, một bác sĩ nhi khoa, giải thích rằng trong khi Taliban còn cai quản Kabul, chúng đã cấm tất cả các sách có hình ảnh minh họa và đốt công khai bất cứ quyển nào mà chúng tìm thấy. Những kẻ áp đặt có vũ trang từ Bộ Cải thiện Đức hạnh và Ngăn ngừa Tội ác đáng ghét đã đứng ở cuối giảng đường, để đảm bảo là các giáo sư của trường không vẽ những sơ đồ giải phẫu học trên bảng đen.

“Chúng tôi chỉ là những bác sĩ sách vở.” bác sĩ Abdul nói. “Chúng tôi không có những công cụ cơ bản nhất cho nghề nghiệp của mình. Chúng tôi không có tiền mua dụng cụ đo huyết áp hay ống nghe. Và tôi, một bác sĩ, trong đời mình chưa bao giờ được nhìn qua một kính hiển vi.”

Đôi tay sẹo của Abdullah lái xe đưa họ qua những hố bom. Mortenson và Bergman tham quan một cụm tám mươi làng ở phía tây Kabul gọi là Maidan Shah. Mortenson biết rằng phần lớn viện trợ nước ngoài hiện đang nhỏ giọt vào Afghanistan sẽ không bao giờ ra khỏi Kabul, và cũng như chiến lược của mình ở Pakistan, anh nóng lòng được phục vụ vùng nông thôn nghèo của Afghanistan. Ba trăm học sinh ở trường trung học Shahabudeen có nhu cầu nhiều hơn những cây viết và quyển tập mà Hash đã giúp Mortenson dỡ xuống từ chiếc taxi của Abdullah.

Các giáo viên Shahabudeen tổ chức lớp cho các em trai trong một container cũ gỉ sét. Những học sinh lớn tuổi nhất trong trường, chín cậu bé lớp chín, học trong một xe bọc thép chở người cháy sém đã bị súng chống tăng bắn bay hết các lốp xe. Thận trọng chen chúc nhau trong nắp hầm xạ thủ, mà chúng sử dụng như một cửa sổ, cả lớp bày ra vật sở hữu quý báu của mình - một quả bóng chuyền mà một nhân viên viện trợ Thụy Điển đã tặng chúng. “Người Thụy Điển có mái tóc dài màu vàng, như một con dê núi.” một cậu bé mắt sáng, tóc đầy chấy nói với Mortenson, khoe sự tiến bộ của mình trong việc học tiếng Anh.

Nhưng chính việc thiếu phòng cho các nữ sinh đặc biệt làm Mortenson đau lòng. “Tám mươi bé gái phải học ngoài trời.” Mortenson nói. “Các em đang cố duy trì lớp học, nhưng gió thổi cát quật vào mắt và đập vào bảng đen.” Các em vui sướng với những quyển vở cùng bút chì mới và giữ chặt tập vở để không bị gió thổi bay.

Khi Mortenson quay về taxi, bốn chiếc trực thăng tấn công Cobra của quân đội Mỹ bay vù vù qua trường với vận tốc cao vụt qua, cao mười lăm mét bên trên những học sinh hoảng sợ với đầy đủ những tên lửa Helfire lởm chởm nhô ra từ những ống phóng. Tấm bảng đen của các em gái bị thổi bay trong luồng gió của cánh quạt trực thăng, vỡ vụn trên nền đá.

“Ở bất cứ nơi nào mà chúng tôi đến, chúng tôi cũng thấy máy bay và trực thăng Mỹ. Và tôi chỉ có thể tưởng tượng số tiền mà chúng ta đang chi tiêu cho quân đội.” Julia Bergman nói. “Nhưng viện trợ thì ở đâu? Tôi đã nghe quá nhiều về điều mà nước Mỹ hứa hẹn với người dân Afghanistan khi tôi còn ở quê nhà - như việc tái thiết đất nước này là một trong những ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Nhưng khi ở đây, và thấy quá ít bằng chứng về sự giúp đỡ cho những trẻ em Afghanistan, đặc biệt là từ Mỹ, điều đó thực sự làm tôi thấy xấu hổ và nản lòng.”

Ngày hôm sau, Mortenson đưa Bergman đến gặp hiệu trưởng trường Durkhani, và để giao hàng tiếp tế cho năm nghìn năm trăm học sinh của Urza Faizad. Anh đã thấy các học sinh của Faizad phải leo lên những chiếc thang gỗ thô sơ để lên các lớp học tầng hai còn sót lại từ bom đạn, vì cầu thang đã bị thổi văng mất và chưa được xây dựng lại, nhưng ngôi trường vẫn đang hoạt động vượt quá công suất, dạy học ba ca mỗi ngày. Vui sướng được gặp lại Mortenson, Urza đã mời hai người Mỹ uống trà ở nhà bà.

Là một góa phụ có chồng là mujahadeen đã chết khi đang chiến đấu với người Xô Viết cùng quân đội của Massoud, Urza sống giản dị như một nữ tu trong căn nhà một phòng trên khu đất của nhà trường. Dưới thời Taliban, bà đã chạy lên phía bắc, đến Taloqan, và bí mật dạy học cho những bé gái sau khi thành phố thất thủ. Nhưng bây giờ trở về quê nhà, bà ủng hộ việc giáo dục các nữ sinh một cách công khai. Uzra cuốn mép tấm vải bao bì làm màn cửa sổ lên, cởi burkha che kín mặt và treo vào một cái móc bên trên một ít tài sản vật chất của bà, một cái chăn len xếp gọn gàng. Rồi bà cúi mình trên cái bếp gas dùng khí prôban nhỏ để chuẩn bị trà.

“Bà biết đó, phụ nữ nước tôi sẽ hỏi, ‘Nếu Taliban đã ra đi, vậy tại sao phụ nữ ở Afghanistan vẫn còn mang burkha?” Bergman hỏi.

“Tôi là một phụ nữ bảo thủ.” Uzra nói, “Và nó phù hợp với tôi. Khi mang nó, tôi cảm thấy an toàn hơn. Trong thực tế, tôi yêu cầu các giáo viên nữ mang burkha ở chợ. Chúng tôi không muốn tạo cho bất cứ ai một lí do để can thiệp vào việc học của các em gái.”

“Dẫu vậy, những phụ nữ được giải phóng ở Mỹ vẫn muốn biết bà có cảm thấy bị áp bức không khi phải nhìn ra ngoài qua khe hẹp này.” Bergman tiếp tục đặt câu hỏi.

Lần đầu tiên kể từ khi Mortenson gặp bà, Uzra cười thật tươi và khi bà tự thoát ra khỏi chiếc áo burkha của mình, anh kinh ngạc bởi vẻ đẹp ở tuổi năm mươi của bà, bất chấp những gian khổ mà bà đã phải chịu. “Chúng tôi, những phụ nữ Afghanistan nhìn thấy ánh sáng qua việc giáo dục.” Uzra trả lời. “Không phải qua cái lỗ này hay lỗ kia trong một bộ áo.”

Khi trà xanh đã sẵn sàng, Uzra xin lỗi vì bà không có đường để mời họ. “Có một việc tôi muốn nhờ quý vị.” Uzra nói, sau khi mọi người đã nếm trà. “Chúng tôi rất biết ơn người Mỹ đã đánh đuổi Taliban. Nhưng từ năm tháng nay, tôi không nhận được lương, mặc dù tôi vẫn được bảo là sẽ sớm có. Ông có thể bàn về vấn đề của tôi với một ai đó ở Mỹ để xem họ có biết điều gì đã xảy ra không?”

Sau khi phân phát bốn mươi đôla tiền của CAI cho Uzra và hai mươi đôla cho mỗi người trong số chín mươi giáo viên, vốn cũng đã không nhận được lương, Mortenson đưa Bergman lên một chuyến bay của Liên Hiệp Quốc để đến Islamabad một cách an toàn và bắt đầu cố lần ra dấu vết tiền lương của Uzra. Vào ngày thứ ba của chuyến hành trình gian khổ qua các hành lang vang vọng của Bộ Tài chính đổ nát, anh gặp bộ trưởng bộ tài chính Afghanistan, ông này đưa hai tay lên trời khi Mortenson hỏi ông vì sao Urza và các giáo viên của bà không nhận được lương.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx