sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương Hai Tư Tưởng Phật Học Và Các Quan Niệm Về Nhân Sinh Và Xã Hội Của Ngô Thừa Ân Biểu Hiện Qua Tây Du Ký

Hồi thứ 1

Hồi 1: “Gốc thiêng nẩy nở, nguồn rộng mở!!!Tâm tánh tu trì, đạo sinh lớn”

- Theo Phật giáo (cả Nam và Bắc truyền), thế giới hệ này gồm có bốn châu thiên hạ: Nam Thiện Bộ Châu, Bắc Câu Lôi Châu, Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Bốn châu ấy nằm chung quanh núi Tu-di (Sumeru) rất lớn, sừng sững giữa đại dương. Tác giả Tây Du Ký đã mở đầu truyện giới thiệu nơi sinh của Mỹ Hầu Vương tại núi Hoa Quả tựa như là vị trí núi Tu-di kia, và xem là nơi “ mạch Tổ của mười châu”. Từ ngữ Hoa Quả là từ biểu tượng quy luật vận hành nhân quả của hiện tượng giới, thế giới sinh diệt của nhị nguyên tính (Dualism), của sự phân biệt rõ ràng giữa đục và trong, chủ thể và đối tượng. Ðây là quy luật vận hành mà giáo lý Phật giáo giới thiệu. Nó thuộc giáo lý trí tuệ, giúp con người phát triển trí tuệ.

Mỹ Hầu Vương sinh ra từ trứng đá như đã được đề cập ấy, bởi vì theo quy luật này thì nhân quả phải cùng loại (đá thì phải sinh ra đá, khỉ thì sinh ra khỉ). Nói khác đi, Mỹ Hầu Vương là biểu tượng của trí tuệ (chánh kiến và chánh tư duy) hay Thánh tuệ uẩn trong giáo lý Phật giáo, mà tiêu biểu là đôi mắt rực sáng làm kinh động đến Thiên đình của Mỹ Hầu Vương. Ðây là đôi mắt thấy rõ sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không của hiện tượng giới. Sự thật đó làm kinh động, đảo lộn cái thấy thường hằng, hữu ngã của chúng sinh ở trên Trời và dưới Thế.

- Trí tuệ Vô ngã đó sẵn có trong tâm của mỗi người, theo Ngô Thừa Ân, mhư một giang sơn đã soạn sẵn trong động Thủy Liêm dành cho Mỹ Hầu Vương. Sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không cũng thế, là sự thật của sinh diệt, nằm ngay hiện tượng giới như động Thủy Liêm như là đang giới thiệu bốn pháp ấn của giáo lý Phật giáo.

- Tại sao con người không thấy được sự thật về bốn pháp ấn ấy nơi thế giới chung quanh mình? Tại sao loài khỉ kia không khám phá ra động Thủy Liêm vẫn thường hiện diện tại đó, trước mắt chúng? - Hỏi tức là trả lời vậy. Chính thác nước đổ mạnh đã che khuất khỏi cái nhìn hời hợt của đàn khỉ, hệt như lòng tham ái, chấp thủ ngã đã che khuất tâm con người khỏi sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không. Ở giáo lý Phật giáo, dòng thác đổ mạnh gọi là dòng bộc lưu, biểu tượng cho dòng nước Ái, dòng thủ, dòng sinh tử. Tại đây, Ngô Thừa Ân đang thật sự kiến trúc động Thủy Liêm theo giáo lý nhà Phật.

Chỉ có Mỹ Hầu Vương sinh ra từ đá, từ tú khí của trời đất, mà không sinh từ dục vọng (hay từ nghiệp), mới có trí tuệ Vô ngã phát hiện ra sự thật vô thường, khổ đau. Mỹ Hầu Vương đã dàn dụa nước mắt, sầu não thấy lửa vô thường đang bốc cháy chung quanh cuộc sống, lo lắng tìm lối thoát ra khỏi khổ đau. Tất cả đàn khỉ còn lại thì vẫn nhởn nhơ với niềm hạnh phúc nhỏ trước mắt. Thấy rõ sự thật Vô thường là dấu hiệu của đạo tâm phát khởi, và là dấu hiệu của sự thấy rõ con đường ra khỏi sự trói buộc của vô thường, như một chú khỉ đã phát biểu muộn màng rằng: “Ðại vương lo xa như thế là đạo tâm ngài đã phát khởi rồi đấy” và đã giới thiệu với Mỹ Hầu Vương hiện nay tại cõi đời này, ở nơi động cổ, núi Tiên có ba đấng Phật, Tiên, Thần Thánh là thoát khỏi sinh diệt, luân hồi (thật ra là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác và A-la-hán); từ đó Mỹ Hầu Vương ra đi, tìm đến đại Tôn giả Tu Bồ Ðề, một đại đệ tử của Ðức Phật, để học đạo giải thoát của Tam thừa giáo (Bồ Tát-thừa, Duyên Giác thừa, Thinh Văn thừa) và Nhất thừa giáo (Phật thừa). Ðây là điểm giáo lý rất đại thừa (Phật giáo phát triển).

- Có một nếp sống thanh đạm, rời khỏi phiền não hằng ngày, và hiếu hạnh của một bác tiều phu ở trước cổng vào trú xứ của Tôn giả Tu Bồ Ðề mà Mỹ Hầu Vương ca ngợi, vui mừng khi thấy, như là dấu hiệu của quê hương giải thoát có mặt gần kề. Chính bác tiều phu chỉ được cho Mỹ Hầu Vương đến yết kiến bậc đạo sư. Tại đây Ngô Thừa Ân gián tiếp giới thiệu hiếu đạo cũng là một phần thể hiện của đạo giải thoát, tương ưng với Phật giáo.

- Sự thật mà Mỹ Hầu Vương sẽ học từ Tôn giả Tu Bồ Ðề và sẽ chứng ngộ là sự thật Vô ngã tướng của các pháp (còn được gọi là Vô ngã tính hay Vô tự tính hoặc Không tính). Sự thật ấy được hé mở từ mẫu đối thoại đầu tiên giữa Tôn giả Tu Bồ Ðề và Mỹ Hầu Vương mang đầy hương vị của một cảnh khai tâm của một thiền sư:

“Tôn giả Tu Bồ Ðề hỏi:

- Tính danh ngươi là gì”

- Con không có tính gì cả... Nhất sinh không có tính.

- Không phải là tính tình. Tính danh bố mẹ nhà người kìa?

(Ðây là hỏi về bản lai diện mục)...

Thế rồi, Tôn giả Tu Bồ Ðề cho pháp danh là Tôn Ngộ Không (đã đề cập ở phần tổng luận).

Ðạo giải thoát khỏi cội nguồn của mọi khổ đau mở nguồn từ Ngộ Không này, và đạo ấy có mặt trong tâm của mỗi người, như Tôn giả Tu Bồ Ðề thường có mặt ở “Tà nguyệt tam tinh” động (Tà nguyệt tam tình là chữ tâm gồm có một nét như vành trăng và ba chấm). Tác giả Tây Du Ký đã giới thiệu đúng con đường tu tập của Phật giáo là con đường trở về chính mình để tu tập tâm, huấn luyện tâm và giải thoát tâm. Con đường này rất là nhân bản và rất là hiện thực.

- Nếu về mặt Phật học, phái đoàn Tây du biểu thị các phần tố tâm lý của một tâm thức đi về giải thoát khỏi sinh tử, thì về mặt tương đối của đời sống xã hội phái đoàn Tây du là biểu hiện sự cấu trúc của nhân tính (personality) thể hiện sự hòa điệu giữa tim và óc, giữa tiềm thức, siêu thức và ý thức, giữa cá nhân và xã hội.

Tại đây, Mỹ Hầu Vương là biểu tượng của khối óc (hay lý trí). Lý này vốn có mặt trong tâm mỗi người và có khả năng có thể mở rộng ra vô hạn như ý nghĩa Mỹ Hầu Vương tìm đường đi ra khỏi thế giới hữu hạn của sinh tử. Khả năng vô hạn ấy đã được nền giáo dục hiện đại chứng tỏ.

- Khối óc, hay nguồn hiểu biết của con người, như đạo Nho quan niệm (nói đúng là quan niệm của Khổng Tử) có ba dạng hiểu biết gọi là “sinh nhi tri học nhi tri và khốn nhi tri” biểu hiện ra khác nhau ở mỗi con người. Ở Mỹ Hầu Vương sinh ra là đã tự biết (sinh nhi tri); rồi tìm thầy học đạo (học nhi tri); sau đó là lên đường hành đạo, chiến thắng ác ma (khốn nhi tri)

- Tiếng nói của lý trí là tiếng nói của sự ngay chính, tình đồng loại, của óc tổ chức, của sự dự phòng tốt đẹp cho tương lai, của sự công bằng, và của sự phân biệt minh bạch phải, trái, tốt, xấu, như sự hiểu biết của chính cá nhân Mỹ Hầu Vương. Lý trí giữ vai trò hướng dẫn mọi hành động của con người, như đôi mắt, hệt như Tôn Hành Giả hướng dẫn phái đoàn Tây du. Chúng ta sẽ tiếp tục khảo sát vai trò của lý trí trong các hồi kế tiếp, theo quan niệm của tác giả Ngô Thừa Ân.

- Một xã hội tốt đẹp, an lạc, hạnh phúc, theo tác giả phải là một xã hội thái bình (không chiến tranh), độc lập với các sức mạnh thống trị như xã hội khỉ ở động Thủy Liêm.

- Xã hội ấy cần được tổ chức tốt về an ninh kinh kinh tế, như xã hội ở núi Hoa Quả ở trong vị thế an toàn và phong phú thực phẩm.

- Xã hội ấy phải được lãnh đạo bởi người có đủ tài, đức do dân chọn lựa như Mỹ Hầu Vương, mà không phải do tuổi tác hay dòng dõi. Quan niệm này của Ngô Thừa Ân được viết ra từ thế kỷ thứ XVI của xã hội phong kiến Trung Hoa quả là một quan niệm đầy dân chủ và tiến bộ. Ðây là mô hình xã hội mà nhân dân làm chủ, bảo vệ được quyền sống của nhân dân.!!!Hồi thứ 2

Hồi 2: “Thấu lẽ bồ đề, vào chính quả

Dứt căn ma quỷ, rõ nguyên nhân”

- Hồi thứ hai là Hồi học đạo và hành đạo của Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đã học, bàn luận, và hành “Tam thừa giáo” và “Nhất thừa giáo” suốt bảy năm liền, như Ngô Thừa Ân giới thiệu:

“...Diễn đủ Tam thừa giáo

Lúc diễn thiền môn, khi giảng đạo

Ba nhà hợp lại nghĩa thêm càng”

Trong thời gian này Tôn Ngộ Không làm công tác của một người xuất gia, chấp tác và thực hành văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để nuôi dưỡng trí tuệ giác ngộ Không tánh (Vô ngã tánh) của các pháp. Ngô Thừa Ân đã vẽ nên thời gian tu tập này rành rẽ hệt như một nhà Phật học chính gốc. Ðộng cơ và nguyện vọng xuất gia của Tôn Ngộ Không là để giải thoát hết thảy phiền não, khổ đau của sinh tử rất tương ưng với giáo lý của Phật giáo. Ngô Thừa Ân đa dẫn dắt Tôn Ngộ Không đi đúng tiến trình Giới, Ðịnh, Tuệ giải thoát khiến cho người đọc Tây Du Ký không còn nghi ngờ giá trị của bộ tiểu thuyết này mà trọng tâm là giới thiệu con đường (hay lộ trình tu tập giải thoát của đạo Phật). Chúng ta hãy tiếp tục theo dõi.

- Sau bảy năm hành đạo, khi Tôn Ngộ Không hiểu rõ đường đi chỗ đến, Tôn giả Tu Bồ Ðề dạy tiếp tục công phu thiền chỉ và thiền quán để chế ngự thân và ý, để điều hòa thân và điều hòa tâm. Tôn Ngộ Không thực hành công phu này trong ba năm thì sáng tỏ tâm và tuệ. Một hôm Tôn giả hỏi Tôn Ngộ Không:

- Người tu đã đắc quả gì rồi?

- Ðệ tử gần pháp tánh, đã rõ căn nguyên, còn phải đề phòng ba tai họa nữa (nghĩa là cần tiếp tục công phu chỉ, quán để vượt qua ba tai họa ấy), điều mà kinh nghiệm giải thoát của Tôn Ngộ Không chưa đặt chân đến được. Do vì thành quả tu tập của Tôn Ngộ Không ngang đây là sắp cướp được quyền sinh diệt của tạo hóa sẽ giáng xuống ba tai họa. Ðó là họa “sét đánh” có thể làm ngưng trệ sinh mệnh giải thoát; họa “âm hỏa” (không phải là lửa trời, cũng không phải là lửa của người) vì họa “bi phong” (không phải là gió trời) rất mạnh cũng gây ảnh hưởng khốc hại đến sự nghiệp giải thoát.

Ngôn ngữ của Ngô Thừa Ân tại đây rất là tiểu thuyết và rất là biểu tượng, nhưng đồng thời cũng diễn đạt các bước đi tu tập giải thoát rất là thiện xảo.

Trong Phật giáo, ba tai nạn đó là gì? Trở về với giáo lý truyền thống Phật giáo, khi hành giả thông rõ pháp tánh là khi đắc pháp nhãn thanh tịnh, bước vào dòng Thánh; bấy giờ còn lại tập khí sinh tử phải trừ, bao gồm bảy kiết sử: dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử và vô minh. Nạn sét đánh là biểu tượng của vô minh (hay si). Vô minh ở đây là nội dung của sự việc tâm thức bị rơi vào chấp trước quả đắc (gọi là mạn), lúng túng không thấy lối ra (gọi là trạo cử) mà tự mình không biết (gọi là vô minh). Sự chấp trước này thì rất tế nhị nhưng rất quyết định trong việc làm tắc nghẽn trí tuệ giải thoát sau cùng, tựa như sấm sét nhanh chóng kết liễu sinh mệnh con người. Ðể vượt qua, hành giả cần hành định sâu và thiền định sâu và thiền quán mạnh về Vô ngã để cũng nhanh chóng như tiếng sét cắt đứt ngay sinh mệnh của chấp trước vô minh.

Nạn “âm hỏa” là biểu tượng cho lửa sân, kiết sử, hữu ái và hữu ái); lửa này cũng có khả năng thiêu cháy trí tuệ toàn giác làm héo úa thân huệ mạng.

Nạn “bi phong” là biểu tượng của tâm lay động chao đảo của hành giả do còn chấp pháp, do còn non định lực giải thoát trước bi nguyện độ sinh vô lượng. Ðịnh và tuệ Vô ngã còn hạn lượng của hành giả sẽ không thể đứng vững được trước bi nguyện độ sinh vô hạn lượng. Bi nguyện vô hạn lượng làm choáng ngợp hành giả, khiến hành giả không thể hiện được Bồ Tát hạnh để chứng đắc trí tuệ toàn giác. Chính ba tai nạn này sẽ tái hiện nhiều lần dưới nhiều thể trạng khác nhau đối với hành giả mà các hồi sau chúng ta sẽ có dịp tiếp tục bàn sau.

- Ðể giúp đệ tử Tôn Ngộ Không có điều kiện thoát khỏi ba tai nạn trên, Tôn giả Tu Bồ Ðề đã chỉ dạy sâu thêm công phu tu tập để phát triển mạnh thiền quá Vô ngã, củng cố thêm nhiều cho trí tuệ giải thoát, bằng pháp môn “địa sát” gọi là 72 pháp biến hóa thần thông (thất thập nhị huyền công) và “cân đẩu vân” hầu có đủ mọi cách làm bật lên gốc rễ của vô minh và quyến thuộc vô minh.

Chuẩn bị hành trang giải thoát cho Tôn Ngộ Không kỹ càng như thế quả Ngô Thừa Ân đã nắm vững lộ trình tâm thức giải thoát của Phật giáo, ít nhất là về mặt giáo lý.

Tại đây, Tôn Ngộ Không hẳn đã có trí tuệ, đệ nhất ly thủ, đệ nhất giải Không, trở về Hoa Quả sơn, Tôn Ngộ Không đã dễ dàng dẹp Hỗn Thế Ma Vương, loạn của các ngã tưởng, để bình định lại giang sơn trí tuệ của mình tại Thủy Liêm động.

- Ở mặt giải thoát thì Tôn Ngộ Không là biểu tượng của trí tuệ cần được tu tập để phát triển giải thoát và để chế ngự các cảm thọ khổ đau. Xây dựng một nhân cách giải thoát là xây dựng Giới, Ðịnh, Tuệ và lòng đại bi cho nhân cách xã hội gồm tri, hành và lòng nhân ái thế nào để thành công, lợi lạc cho mình và người.

Tại hồi hai, vai trò lý trí, được biểu trưng bằng nhân vật Tôn Ngộ Không, là vai trò chỉ đạo mọi hành động của con người cũng cần được huấn luyện, giáo dục. Thường thì mẫu người giáo dục của Trung Hoa được đào tạo theo khuôn mẫu đạo Khổng Nho và được thêm vào một ít Lão, Trang. Ngô Thừa Ân đã rất sáng tạo và rất can đảm giới thiệu một khuôn mẫu giáo dục theo giáo lý nhà Phật. Có lẽ sự chọn lựa này đã đến với Ngô Thừa Ân sau khi Ngô Thừa Ân chứng kiến sự đổ vỡ của xã hội phong kiến Trung Hoa với đầy rẫy những bất công áp bức, chủ nghĩa hình thức, kém nhân bản v.v... và vai trò của Nho giáo không đáp ứng nổi nhiều yêu cầu mới của con người và lịch sử - Như về sau Kim Dung, trong tiểu thuyết kiếm hiệp Tiếu Ngạo Giang Hồ, đã xây dựng mẫu người Lệnh Hồ đại hiệp thay thế quân tử kiếm Nhạc Bất Quần - Tây Du ký ra đời như là tiếng nói rất trí tuệ, hiện thực và nhân bản vọng về từ Tây Trúc. Không phải là chú ý đến sự nghiệp Tây du thỉnh kinh của Ðường Tăng, mà là chú ý đến nhân cách được xây dựng từ giáo lý này: một nhân cách sống vì hạnh phúc an lạc của số đông, sống hiền thiện vì công bằng, bình đẳng, tôn trọng sự thật, trách nhiệm cá nhân và đặc biệt là sống tùy duyên rất là trí tuệ.

- Nhân cách ấy cần được huấn luyện, giáo dục rất thực, mà không phải của từ chương và hình thức - rất vững chắc cả ba mặt hành động của thân, lời và ý, như là Tôn Ngộ Không đã được huấn luyện văn, tư, tu trong bảy năm và khả năng làm chủ chủ tư duy và tâm lý (thiền định) trong ba năm trước khi vào đời để tiếp tục thực hành và học hỏi thực tế của trường hợp.

- Triết lý chỉ đạo cho nhân cách ấy là giáo lý Vô ngã, Vô thường, Khổ, Không của Phật giáo (mà nói tắt là giáo lý Vô ngã). Do thấm nhuần sự thật Vô ngã, người học viên dần dần làm bật lên được gốc rễ chấp ngã, tham lam, sân hận, lừa dối và các sầu bi, khổ, ưu, não; và tại đây, một nhân cách mẫu mực xuất hiện để xây dựng an lạc, hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Triết lý hành động của nhân cách ấy là trí tuệ Vô ngã (chánh kiến và chánh tư duy) phân biệt chánh, tà, hư, thực, tốt, xấu; là lòng vị tha và sức mạnh vô úy. Tất cả ấy là con người, vì con người, cho con người hiện thực, và do con người trách nhiệm. Ðây là mẫu nhân cách trí tuệ, nhân bản và sinh động.

Khi mà cá nhân có tự do tâm lý, làm chủ được tâm lý thì cá nhân sáng suốt hơn và có nhiều sáng tạo hơn. Chính yếu tố tâm lý sáng tạo này sẽ đóng góp lớn cho xã hội.

Chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến nhân cách này trong các hồi kế tiếp.

Ngô Thừa Ân quan niệm nhân cách giáo dục ấy tốt hơn nhân cách xây dựng từ đạo Nho nhiều, nhưng đồng thời cũng thấy khó khăn trong việc thực hiện trong xã hội phong kiến Trung Hoa, bởi giáo lý Phật giáo nói lên tính bình đẳng, dân chủ, tự chủ, độc lập sẽ lay đổ ngai vàng và quyền lợi của ngai vàng. Ðể bảo vệ quyền lợi của phong kiến, triều đại vua chúa (Trời) sẽ gieo rắc ngay tai họa chết người mà được gọi là nạn “sét đánh”, nạn “âm hỏa” và nạn “bi phong”. Vì thế Ngô Thừa Ân đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng cho Tôn Ngộ Không với một căn bản định, tuệ và “thất thập nhị huyền công” để vận dụng đối phó với các kháng lực đến từ chính quyền phong kiến và từ phía các tà giáo trên đường thực hiện lý tưởng xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng và nhân bản, và xây dựng một nếp tư duy mới về giá trị nhân sinh và xã hội.

- Bước đầu tiên của việc thể hiện lý tưởng mà Tôn Ngộ Không đã được giáo dục là dẹp giặc loạn xâm lược của Hỗn Thế Ma Vương và tiêu diệt toàn bộ thế lực xâm lược này. Hỗn Thế Ma Vương là biểu tượng của dục vọng, ác hại mà Tôn Ngộ Không cần loại bỏ trước khi bắt tay vào việc giáo dục kiến thiết giang sơn Thủy Liêm động.

- Về mặt xã hội, từ đây toàn thể đoàn khỉ đều có họ Tôn của Tôn Ngộ Không và chịu sự lãnh đạo tổ chức của Ngộ Không. tất cả đều bình đẳng về quyền sống trong động Thủy lIêm, núi Hoa Quả tất cả đều đoàn kết thành một khối ở đằng sau Tôn Ngộ Không và cùng có trách nhiệm trong việc xây dựng và bảo vệ xã hội loài khỉ theo hướng phát triển hưng thịnh.

- Tôn Ngộ Không liền tổ chức chặt chẽ an ninh, quốc phòng để bảo vệ thành quả thanh bình của xứ sở. Thành quả xã hội ấy sẽ đến từ nền giáo dục tinh thần trách nhiệm cá nhân, tinh thần độc lập tự cường, tinh thần Vô ngã, vị tha, tinh thần dân chủ và nhân bản. Các tinh thần giáo dục ấy sẽ tạo nên tình đoàn kết keo sơn của xã hội, sẽ tạo nên những công dân tốt, loại trừ được các tệ trạng xã hội như dối trá, cướp bóc, tà hạnh, tham nhũng, áp bức, lười biếng, thủ lợi, sa đọa... Tại đây, xã hội loài khỉ, hiện ra như một xã hội thí điểm mà Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu, và mẫu thí điểm này là dành cho xã hội con Người, đặc biệt là xã hội Trung Hoa với nhiều thành kiến. Hẳn nhiên Ngô Thừa Ân đã dự phòng trước các sức mạnh đề kháng từ bên trong và bên ngoài trong việc xây dựng xã hội mới hợp lý hợp tình hơn. Chúng ta hãy chờ xem trong các hồi tới Ngô Thừa Ân sẽ làm gì tiếp cho xã hội mới này?

Hồi thứ 3

Hồi 3: “Bốn bể nghìn non đềusợ nép

Chín u, mười loại xóa tên rồi”

I. Tư tưởng Phật học

- Sau khi dẹp xong giặc Hỗn Thế Ma Vương, Tôn Ngộ Không tiến hành việc tổ chức xã hội khỉ để giữ yên bờ cõi núi Hoa Quả. Bấy giờ có bốn trưởng lão khỉ hỏi về thần thông của Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không bảo:

“Ta từ sau khi đắc đạo, có công luyện tập bảy mươi hai phép địa sát và biến hóa, được phép thần thông cân đẩu vân không gì sánh bằng; ẩn mình, tránh mình, cất mình lên, thu hình lại, lên trời cũng có đường, xuống đất cũng có lối, bước vào mặt trời mặt trăng không có bóng, đi vào vàng đá không vướng mắc, nước không thể làm chìm, lửa không thể đốt cháy, chỗ nào mà chẳng đi được”.

Như đã đề cập ở hồi hai, tại Tà Nguyệt Tam Tinh động, Tôn Ngộ Không đã đắc pháp nhãn thấy rõ sự vật Vô ngã, do vì sự thật của mọi hiện hữu là Vô ngã nên sự kiện một người có thể theo ý muốn hiện ra nhiều ngã tướng khác nhau. Tất cả hiện hữu đều Vô ngã nên đều nhiếp nhau, không ngăn ngại, nên lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi, gió không lay, đất không cản v.v...

“Lý” của sự thật là như vậy nên “sự” của sự thật cũng như vậy. Ở cảnh giới Tứ sắc định, hành giả có thể có thần thánh không du hành, biến hóa tự tại. Tâm thức có giải thoát Vô ngã cũng thế, tùy duyên mà thị hiện. Ðây là sự thật như thật được ghi chép trong kinh điển Phật giáo.

Về nghĩa bóng, thì với một người ngộ Vô ngã mà không có thần thông biến hóa, tâm thức họ cũng được tự tại trước mọi sắc tướng như Tôn Ngộ Không tự tại ra vào các cảnh giới mà tâm lý không ai trước, không bị vướng mắc - sẽ thấy rõ hơn về sự thật này ở các hồi sau - Nhưng, để tâm thức an ổn có điều kiện đi sâu hơn vào giải thoát, người ngộ Vô ngã cũng cần tránh các sự quấy rối từ bên ngoài, như giang sơn Thủy Liêm động cần được giữ gìn an ninh. Ðây cũng là một sự thật của hành giả đang còn có nhiều việc phải làm trên đường tới giải thoát tối hậu.

- Về sự kiện trong giấc mơ Tôn Ngộ Không xuống âm phủ đại náo và xóa tên sinh tử của bản thân và của loài khỉ, âm ti phải cử sứ thần lên tấu với Ngọc Hoàng xử trị mà Ngọc Hoàng lại hòa giải với Tôn Ngộ Không, là sự kiện hoàn toàn biểu tượng.

Thực sự, mức độ tâm linh giải thoát của Tôn Ngộ Không bấy giờ tự nó đã xóa sạch nhân sinh tử đi vào các cảnh giới súc sinh, địa ngục và ngạ quỷ, theo giáo lý nhà Phật. Giải thoát của Tôn Ngộ Không bấy giờ có phước báo còn lớn hơn cả vua Trời, dù vua Trời có muốn hại cũng không được. Sự kiện giải thoát ấy là một thành quả lớn đáng kể của công phu tu tập làm kinh động các cảnh giới sinh tử đã khiến cho triều thần các cảnh giới ấy ganh ghét, đố kỵ khi mà tâm thức họ đang đầy ắp chấp thủ các tự ngã.

Quả thật Ngô Thừa Ân đã viết đầu hồi ba ngày:

“Bốn bể nghìn non đều sợ nép

Chín u, mười loại xóa tên rồi”

- Cái nhân cách giáo dục mà Ngô Thừa Ân quan niệm, đã được biểu hiện qua Tôn Ngộ Không; sau khi được đào tạo giáo dục từ hệ thống giáo dục Vô ngã của Tôn giả Tu Bồ Ðề thì liền đi vào xã hội để xây dựng xã hội và con người xã hội.

Với trí tuệ Vô ngã, với nhận thức mọi hiện hữu đều Vô ngã nên soi thấy mọi giá trị trong cuộc sống cũng Vô ngã, cũng đều không có một giá trị nhất định (hay chỉ có giá trị tương đối). Các giá trị ước lệ của xã hội về con người và xã hội chẳng những đã không thể đứng vững mà còn gây xáo trộn cho tâm lý con người và gây xáo trộn xã hội. Tất cả các giá trị ước lệ ấy trở thành trói buộc con người và xã hội, kìm hãm khả năng giải phóng con người và xã hội. Chúng cần được nhận thức mới xét lại, thay thế hay đập vỡ, dù giá trị ấy ở mỗi cá nhân hay tập thể. Ðấy là những gì mà Ngô Thừa Ân đã mượn chiếc thiết bổng nặng hơn vạn cân của Tôn Ngộ Không đập nát loạn Hỗn Thế Ma Vương. Cần phải dọn sạch các giá trị “hỗn thế” ấy, con Người rất Người mới có được một không khí trong lành để sống. Từ đây, con người sống với tâm lý tự do hơn, thoải mái hơn, có nhiều điều kiện sáng tạo hơn và làm được nhiều việc lành, lợi ích hơn cho bản thân, gia đình và xã hội. Ðây là ý nghĩa mà Ngô Thừa Ân đã biểu tượng hóa thành các thần thông tự tại đi vào nước, vào lửa, vào đất, vào không gian của Tôn Ngộ Không.

Từ đây, mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của chính mình đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà không ai khác quyết định hay bắt ép. Giá trị của con người, và hành động của con người là do tự giác, tự nguyện và tự do chọn lựa của họ, mà không liên hệ gì đến việc thưởng phạt tại Âm phủ, Long phủ hay Thiên đình. Ðây là ý nghĩa mà Ngô Thừa Ân đã lồng vào hình ảnh của Ngô Thừa Ân đã lồng vào hình ảnh Tôn Ngộ Không xóa sạch sổ ghi thiện ác, sinh tử của loài khỉ (xứ sở của Tôn Ngộ Không) ở Âm ty.

- Về cá nhân, mỗi người được giáo dục theo tinh thần Vô ngã sẽ luôn luôn giữ hành động của mình được dẫn dắt bởi tâm ngay chính, nhân ái, trí tuệ và không vướng mắc, luôn luôn kiểm soát tâm mình và giữ tâm lý ở ngoài các niệm thị phi, đố kỵ, sầu, bi, khổ, ưu não. Khi tâm lý được huấn luyện đến cấp độ không vướng mắc (hay ít bị vướng mắc) vào các tâm niệm đó thì tâm lý sẽ ở vào trạng thái tự do. Bấy giờ là thời điểm sáng suốt, sáng tạo và hạnh phúc cá nhân. Ở mặt giải thoát tương đối mà nhìn, thì đây là cảnh giới tâm lý tốt đẹp. Cảnh giới tâm lý tốt đẹp này thường xuất hiện trên đôi mắt của Tôn Ngộ Không mà chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi.

Các nhà lãnh đạo nếu sống thể hiện tinh thần Vô ngã thì sẽ có sức mạnh vô úy, lòng vị tha, khoan dung, thái độ phóng khoáng, không câu nệ cố chấp, có tinh thần trách nhiệm cao... sẽ thu hút được quần chúng đoàn kết sau lưng mình trong mọi công tác giữ nước và dựng nước, như đàn khỉ quây quần chung quanh Tôn Ngộ Không vậy.

- Nếu mọi người dân được giáo dục Vô ngã, chấp nhận sự thật Vô ngã thì sẽ rời xa các thái độ sống chấp thủ, sẽ dễ dàng đoàn kết thành một khối tạo nên sức mạnh lớn lao cho dân tộc.

- Giáo dục Vô ngã sẽ tạo nên một nền văn hóa Vô ngã. Nền văn hóa này sẽ xóa đi các tư duy chấp thủ gây chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc. Ðây là một mục tiêu lớn và lâu dài của một xã hội. Tinh thần Vô ngã sẽ thống trị các dị biệt, gom tất cả về một mối phục vụ cho cùng một mục tiêu: xứ sở.

- Khi mà đoàn kết dân tộc được thực hiện tốt, và khi mà nhân dân sống với thái độ không cố chấp thì mọi việc nước sẽ được thực hiện dễ dàng, như Tôn Ngộ Không tự tại đi vào nước, vào lửa..., đất nước sẽ hùng cường khiến các nước lân bang không thể dòm ngó, không thể quyết định vận mệnh của dân tộc ấy. Vấn đề xâm lăng, bảo hộ sẽ không có đất đứng; sẽ bị xóa sạch khỏi lịch sử như Tôn Ngộ Không xóa sổ sinh tử ở Âm ty cho loài khỉ ở Thủy Liêm động.!!!Hồi thứ 4, 5, 6 và 7

Hồi 4: “Quan phong Bật Mã lòng sao xứng

Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên”

Hồi 5: “Loạn vườn đạo Ðại Thánh trộm thuốc tốt

Về Thiên cung cá thần bắt yêu quái”

Hồi 6: “Quân Âm đến hội hỏi nguyên do

Tiểu thánh ra oai thu Ðại thánh”

Hồi 7: “Ðại Thánh trốn khỏi lò bát quái

Hầu Vương bị giam núi ngũ hành”

Lược truyện hồi 4, 5, 6 và 7!!!Từ chuyện Tôn Ngộ Không xuống Long Vương lấy thiếc bổng để thêm khí giới giữ bờ cõi Hoa Quả sơn, đại náo Long cung, vua Trời muốn xử hòa với Tôn Ngộ Không đã không thành thật phong chức giữ ngựa Trời, rồi Tề Thiên Ðại Thánh, rồi giữ chức vườn đào. Các chức ấy đều là hư vị đặt ra do sự dối trá (không thật ý của Thiên đình). Hậu quả của sự dối trá ấy dẫn đến cuộc đại náo Thiên đình của Tề Thiên Ðại Thánh khiến Tề Thiên Ðại Thánh bị giam vào núi Ngũ Hành năm trăm năm.

- Như đã được đề cập ở phần Tổng luận, các hồi 4, 5, 6 và 7 là các hồi chiến cuộc xẩy ra giữa Tôn Ngộ Không và Thiên đình. Tất cả chỉ là những hình ảnh biểu tượng nói về Phật học và quan niệm về nhân sinh xã hội của tác giả. Không phải mọi hình ảnh đều chuyên chở ý nghĩa về Phật học được hiểu một cách máy móc. Chúng ta cần để ý đến các nét chính nổi bậc nhất của bối cảnh, rồi tìm hiểu các nét chính nổi bậc nhất của bối cảnh, rồi tìm hiểu các nét chính ấy có mang biểu tượng nào của Phật học?

- Ðể phát hiện các biểu tượng ấy, chúng ta cần phân biệt rõ ràng:

* Các cõi Trời được đề cập đến trong Tây Du Ký này đều là các cõi trời Dục giới. Các cõi ấy là các cõi thiện: nhờ phước báo thiện hạnh của tiền kiếp, tùy theo phước báo lớn nhỏ mà được làm Ngọc Hoàng, Thiên tướng, Thiên quan hay Thiên dân. Các phước báo kia đều thuộc hữu lậu, và các vị Trời kia cũng còn đầy ham muốn, bỉ thử, thị, phi tương tự ở cõi Người (chỉ ở cấp độ thanh cao hơn). Các cảnh giới thuộc trời Dục giới vẫn còn nạn chiến tranh với A-tu-la do bởi các cuộc tranh chấp về quyền hạn, hay đố kỵ về hạnh phúc.

* Quả vị giải thoát của Pháp nhã (Dự Lưu, hay Thất Lai, hoặc Tu-đà-hoàn) như ở cấp độ giải thoát của Tôn Ngộ Không là quả vị ở ngoài các tâm đố kỵ hay tranh chấp.

- Mỹ Hầu Vương, tánh vốn phóng khoáng, lại sống nhập thế tự tại, muốn làm chủ mọi hành động của bản thân mà không câu nệ sự tướng - bởi thấy tất cả đều rỗng không tự ngã - nhưng phía chúng sinh ở cõi Trời, Người thì khác, do vậy xẩy ra các xung đột.

- Tác giả đã vận dụng cuộc đại náo Thiên cung và sự chiến thắng Thiên đình của Tôn Ngộ Không để nói lên rằng tâm thức của Tôn Ngộ Không bấy giờ đã vượt ra khỏi chấp thủ lục đạo (Thiên, Nhơn, A-tu-la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh). Tên gọi Tề Thiên Ðại Thánh vì thế được khoa trương.

- Với đôi mắt thánh thiện của Ðại Thánh, cõi Trời hiện ra cái bản tướng lẩm cẩm của nó; tất cả chúng Trời đang ngủ yên trong dòng nghiệp của Trời, thiếu nhân duyên để thấy đạo, thấy Vô ngã, Vô thường của cảnh trời. Cuộc đại náo có tác dụng đánh thức các cung viện và Thiên chúng, giúp Thiên chúng mở sáng đôi mắt tuệ. Cuộc đại náo, như đã đề cập ở phần Tổng luận, còn có nghĩa là đại náo trong tâm thức của Ngộ Không và của các hành giả.

- Tôn Ngộ Không là biểu tượng của trí tuệ Vô ngã, là thuộc thế giới của thực tướng vô tướng, nên các ngã tướng lửa, nước, gió, đất, không gian, thức đều không hại được. Vì thế, đao chém không dứt (đứt đầu rồi lại liền), lò bát quái (lò hữu vi) đốt không cháy. Nhưng khi đối diện với Ba La Mật toàn giác của Ðức Phật thì trí tuệ của Tôn Ngộ Không trở thành trí tuệ cỏn con bị thu phục. Tại đây, Ðức Phật dạy cho Tôn Ngộ Không rõ trí tuệ của Tôn Ngộ Không chưa hoàn toàn thoát ly sự trói buộc của Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) qua sự kiện Tôn Ngộ Không không nhảy ra khỏi bàn tay Như Lai, và qua sự kiện bị Ngũ Hành sơn chụp phủ 500 năm, như Tôn Ngộ Không đang vướng mắc vào tánh tháo động của tâm, tuệ, vướng mắc vào ngã mạn, tự kiêu, hiếu thắng và vô minh (bị vướng mắc mà tự mình không biết).

- Mở ra cuộc đại náo thiên cung là tác giả muốn phơi bày một sự thật rằng:

* Cái tổ chức trật tự của Thiên cung là sản phẩm của trí hữu ngã (trí của sinh, diệt, mộng ảo). Trí hữu ngã ban cho các hiện hữu một ngã tướng, ngã tính để dễ suy luận, nói năng, truyền đạt, để phân biệt rõ ràng giữa hiện hữu này và hiện hữu khác; đó là tính thiết lập trật tự cho các hiện hữu; chính ý niệm trật tự đã tạo dra xã hội có vua, tôi, quan, dân..., và chính ý niệm ngã đã đặt để việc làm vua suốt đời và làm vua theo dòng họ - quan dân cũng thế - như ngạn ngữ nhân gian đã nói: “Con vua thì lại làm vua...”. Mọi giá trị đặt ra của xã hội hữu ngã là sản phẩm của tư duy hữu ngã, là những gì mộng ảo, không thật, bởi vì tư duy thì khác với thực tại. Một xã hội mà sống trong thế giới giá trị mộng mị như thế làm sao có thể sống có hồn nhân bản? Chính các giá trị hữu ngã ấy đã tạo ra cuộc “hỗn thế” mà con người cần phải xây dựng, tổ chức lại theo giá trị Vô ngã và nhân bản.

- Chính vì giá trị ước lệ của hữu ngã đang chế ngự cõi Trời và cõi Người - đây quả là thế lực của đại tà - không đặt để con người tài đức thật đúng vị trí xã hội của nó mà sinh ra đại loạn. Ðể thức tỉnh vua Trời”, hay “Như Lai bảo Ngọc Hoàng nhường ngôi cho lão Tôn thì loạn đại náo sẽ yên”.

Như thế, mở ra cuộc đại náo Thiên cung làm kinh động cả Trời, Người, là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu một giá trị nhận thức mới: giá trị của Vô ngã, muốn giáo dục con người nhận thức rõ giá trị này. khi mọi người đều nhận thức ấy và sẽ tạo nên một xã hội vắng bóng hết thảy các bất công, áp bức, tham quyền cố vị, tham nhũng, khủng bố, sa đọa... Ở đó, con người sẽ sống đúng giá trị của con người, không còn đánh mất mình nữa (không còn hiện tượng tha hóa).

Như thế, mở ra cuộc đại náo Thiên cung làm kinh động cả Trời, Người, là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu một giá trị nhận thức mới: giá trị của Vô ngã, muốn giáo dục con người nhận thức rõ giá trị này. khi mọi người đều nhận thức như vậy thì sẽ hành động xây dựng bản thân, gia đình và xã hội theo nhận thức ấy và sẽ tạo nên một xã hội vắng bóng hết thảy các bất công, áp bức, tham quyền cố vị, tham nhũng, khủng bố, sa đọa... Ở đó, con người sẽ sống đúng giá trị của con người, không còn đánh mất mình nữa (không còn hiện tượng tha hóa).

- Mở ra cuộc “đại náo” là tác giả đã quá rõ ràng muốn nói rằng: Cơ chế tổ chức xã hội phong kiến là không hợp lý, đã lỗi thời, cần tổ chức một cơ chế xã hội mới thể hiện dân chủ, công bằng và nhân bản.

- Tác giả cũng ý thức rõ rằng cuộc cải cách xã hội ấy khó thực hiện, bởi nó xáo trộn xã hội cũ, điều mà thói quen của cuộc sống khó hưởng ứng, và bởi vì đụng chạm quá mạnh đến giai cấp lãnh đạo và quyền lợi của họ và của quần chúng “ăn theo”. Vì ý thức như vậy nên tác giả đã để Tôn giả Tu Bồ Ðề báo trước cho Tôn Ngộ Không cẩn thận đề phòng ba tai nạn lớn mà Trời sẽ giáng xuống, và đã để Tôn Ngộ Không làm cuộc “đánh thức” mà không phải cách mạng. Tác giả muốn làm một cuộc thay đổi về văn hóa và giáo dục trước, thực hiện ôn hòa hơn. Nói rõ là tác giả sau khi lường trước tính sau thì chỉ muốn có một cải tổ với quy mô khá lớn để giáo dục cho quần chúng giác ngộ dần và cấp lãnh đạo ý thức được về những đổi thay cần thiết: một xã hội mới tổ chức dưới một giá trị mới và trật tự mới (nếu cần nói như thế), chứ không phải là vô trật tự. Những lý do vì sao sẽ được nói rõ vào các hồi tiếp, chúng ta sẽ tìm hiểu.!!!Hồi thứ 8

- Sau khi hàng phục Tôn Ngộ Không và giữ Tôn Ngộ Không tại Ngũ Hành Sơn (có chú ếm và có thần giữ an toàn cho Tôn Ngộ Không), Ðức Phật trở về Lôi Âm tự. Vừa đặt chân về Lôi Âm tự, Ðức Phật liền dạy:

“Ta đem: Cặp mắt nhìn xa,

Nhìn khắp Tam giới

Cỗi rễ tính xưa,

Thấy đều tịch diệt

Hình thể hư không

Chẳng còn gì hết

Hàng phục khỉ già

Không mấy ai biết

Sống chết rành rành

Ðấy là pháp tướng”.

Thế rồi, Ðức Phật liền truyền mở hội Vu Lan ở xứ Phật và tính việc truyền bá ba Tạng kinh Phật đến Nam Thiệm Bộ Châu (từ Tây Trúc đến Ðông Ðộ - Trung Hoa).

- Như đã bàn ở phần Tổng luận, Tôn Ngộ Không có tuệ Vô ngã nhưng vì Giới và Ðịnh chưa tu tập vững nên còn bị trói buộc bởi Năm uẩn (hình ảnh Ngũ Hành sơn chụp phủ lên người 500 năm). Còn bị trói buộc bởi Năm uẩn là còn bị trói buộc bởi các pháp hữu vi, chưa thật sự đi ra khỏi sinh tử, luân hồi. Sự kiện Tôn Ngộ Không không thể nhảy ra khỏi bàn tay của Ðức Phật là bài học Ðức Phật dạy tiếp cho Tôn Ngộ Không rằng cần nhiếp tâm tu mạnh hơn nữa, cần hành trì Giới uẩn, Ðịnh uẩn và Tuệ uẩn sâu xa hơn nữa. Ðây là công phu mới tiếp tục công phu mà Tôn giả Tu Bồ Ðề đã dạy tại núi Linh Ðài Phương Thốn ở động Tà Nguyệt Tam Tinh. Công phu này sẽ bắt đầu tu tập từ khi Ðường Tăng lên đường tỉnh kinh, điều mà Ðức Phật đang sắp đặt tại hội Vu Lan bồn tại Lôi Âm tự.

- Tại Thiên cung thì thường có hội Bàn Ðào để hưởng lạc và để tăng tuổi thọ cho một số cấp lãnh đạo cao tại đó. Sau vụ “đại náo” thì Ngọc Hoàng bày hội “Yên Trời”. Tại Phật xứ thì tương phản, bày hội “Vu Lan”, còn được gọi là hội “Hiếu Hạnh”, để báo đáp ân phụ mẫu, sư trưởng. Cuộc thỉnh kinh về Ðông độ mà Ðức Phật sẽ sắp đặt được mở đầu bằng hội “Hiếu Hạnh” này.

- Ðức Phật hẳn đã dự tính phái đoàn đi Tây Trúc thỉnh kinh từ khi có vụ đại náo Thiên cung và từ khi hàng phục Tôn Ngộ Không. Phật sự thỉnh kinh chính là con đường công phu giải thoát đi đến trí tuệ Ba La Mật của Tôn Ngộ Không mà Ðức Phật bày vẽ; giáo dục, dẫn dắt Tôn Ngộ Không vượt qua ba tai nạn khốc liệt (sét đánh, âm hỏa và bi phong) mà Tôn giả Tu Bồ Ðề đã báo trước.

- Ðức Phật đã chuẩn bị sẵn năm bửu bối để Bồ Tát Quán Thế Âm trao cho Ðường Tăng sau này: một áo cà sa, một tích trượng và ba chiếc vòng (trong đó có một vòng để khống chế tính cứng đầu, loạn động của Tôn Ngộ Không). Cà sa và tích trượng là hành trang giải thoát của một tu sĩ Phật giáo (chỉ thiếu bình bát). Y cà sa là biểu tượng cho phạm hạnh nên có thể giúp hành giả thoát khỏi luân hồi; tích trượng thường được người xưa dùng để chế ngự thú dữ, rắn rít và các kẻ cướp đường; ở đây tích trượng của Phật tự nó khắc chế các ác vật, ác thú.

Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ Tát đã đắc trí tuệ Ba La Mật và có đại bi nguyện độ sinh (đệ tử của Bồ Tát là Huệ Ngạn đã là ở bên bờ của trí tuệ giải thoát rồi) được Ðức Phật giao phó sứ mệnh theo dõi phái đoàn thỉnh kinh. Ðây là biểu tượng của đích trí tuệ mà các hành giả nhắm đến.

- Bốn đệ tử mà Bồ Tát Quán Thế Âm thu nạp để phò Ðường Tăng thỉnh kinh là: Tôn Ngộ Không, Tiểu Long Mã, Sa Ngộ Tịnh, và Trư Ngộ Năng (xem Tổng luận)

Ðức Phật biết rõ tâm tư của Tôn Ngộ Không, Ngài đến Thiên cung hàng phục Tôn Ngộ Không theo lời thỉnh cầu của Ngọc Hoàng, nhưng thực sự là đến cứu Tôn Ngộ Không và giữ yên Tôn Ngộ Không tại một chỗ bình yên như là tạm thời an trí để chờ đến thời điểm tốt hầu tiếp tục hành Phật sự. Hẳn chúng ta còn nhớ lại Tôn giả Tu Bồ Ðề, vị đại đệ tử của Ðức Phật, đã giáo dục Tôn Ngộ Không thành người có trí tuệ chân chính để phục vụ đạo và đời và đã cho hạ sơn trở về Nam Thiệm Bộ Châu. Ðây không phải là việc làm tình cờ, mà đã có chủ ý của Phật. Phương Chi, núi nơi trú xứ của Tôn giả Tu Bồ Ðề có tên gọi là Linh Ðài Phương Thốn (có nghĩa là một tấc đất của Linh Sơn, Lôi Âm tự), phải chăng đây là phân viện giáo dục các Bồ Tát để độ sinh? Ðây là phân viện truyền trao lý tưởng giáo dục độ sinh?

- Giai đoạn đại náo Thiên cung của Tôn Ngộ Không chỉ là giai đoạn đầu của việc truyền bá con đường văn hóa giáo dục Vô ngã (hay Từ bi và trí tuệ Vô ngã), chỉ để gây một tiếng vang đánh thức cuộc đời. Bấy giờ chưa phải là thời điểm cho Tôn Ngộ Không thay thế Ngọc Hoàng. Dù Tôn Ngộ Không không dễ gì truyền bá được liền, và xã hội Thiên cung không hẳn sẽ được yên ổn hơn, mà có thể sẽ có chiến tranh kéo dài để tranh lại ngai vàng đã mất khi Thiên chúng chưa nhận ra lý tưởng cải thiện xã hội tốt đẹp của Tôn Ngộ Không.

Lại nữa, khi thu phục Tôn Ngộ Không tại Ngũ Hành Sơn, Bồ Tát Quán Thế Âm đã dạy: “Nói ra một điều thiện thời ngoài nghìn dặm sẽ ứng theo; nói ra một điều bất thiện thì ngoài nghìn dặm sẽ chống lại”. Ðiều này Bồ Tát cố ý nhắc nhở cho Tôn Ngộ Không biết rằng Tôn Ngộ Không đã có lý tưởng tốt đẹp lo gì thiên hạ không nghe theo. Tôn Ngộ Không cần phải biết trầm tỉnh ẩn nhẫn mà hành động. Phải tri thời và phải tri pháp. Người xưa đã nói: trồng cây thì cần 10 năm; trồng người thì phải 100 năm, Tôn Ngộ Không làm văn hóa còn phải cần một khoảng thời gian để kết nạp những người cùng chí hướng xiển dương con đường văn hóa giáo dục mới, thời gian để đối phó với các kháng lực đầy nguy hiểm. Tưởng chúng ta cần biết rằng sau lưng Tôn Ngộ Không chỉ có đám khỉ nhỏ chưa đủ sức để bảo vệ Hoa Quả sơn, sau đó nếu có lực lượng quần chúng hậu thuẫn nhiều thêm thì lực lượng này không thể một lòng một dạ và có quyết tâm như Tôn Ngộ Không, mà: hoặc là bất nhất, dễ bỏ cuộc như Trư Bát Giới; hoặc là tình cảm mềm lòng như Ðường Tăng; hoặc trung thành và có quyết tâm nhưng thiếu dũng lược như Sa Ngộ Tịnh, thì rất khó mà cải tổ nhanh chóng được xã hội trước kháng lực có mặt khắp trong ngõ ngách xã hội như con “bạch tuộc”.

- Vấn đề con người luôn luôn liên hệ chặt chẽ với vấn đề trí tuệ (trình độ văn hóa), với vấn đề chánh kiến (các quan điểm chủ trương), vấn đề tâm lý tình cảm, và vấn đề giá trị của con người và xã hội sẽ mở ra một hướng văn hóa, giáo dục mới. Chấp nhận con đường mới ấy không phải chỉ có sự chấp nhận của tư duy mà đủ, mà cần có ý chí, tình cảm và tâm lý chấp nhận nữa. Con đường văn hóa giáo dục này vì thế đòi hỏi cần có thời gian lâu dài để chuẩn bị con người. Tại đây chưa nói đến cơ chế tổ chức xã hội cũ, guồng máy Nhà nước phong kiến cũ rất cũ kỹ và rất cồng kềnh. Con đường văn hóa giáo dục ấy cũng cần có thời gian để cuộc đời trắc nghiệm giá trị. Ðó là các lý do mà Ðức Phật đã chuyển Tôn Ngộ Không qua một hướng hành động khác có tính khoa học hơn và thuyết phục hơn. Thời điểm Tôn Ngộ Không an nghỉ ở Ngũ Hành Sơn là mốc điểm thời gian chuyển hướng, mà không phải là đầu hàng. Ðó là thời gian cần thiết để Tôn Ngộ Không kiểm điểm công tác và định hướng công tác.

- Xã hội và con người cá thể quyện chặt vào nhau như một thực thể. Hai hiện hữu ấy có tác động ảnh hưởng qua lại: khi xã hội văn hóa thay đổi thì cá thể thay đổi theo; ngược lại, khi nhận thức, tư duy của con người thay đổi thì xã hội cũng dần dần thay đổi thời gian. Cả hai đều có tính chất Vô ngã hay bất định, có thể được thay đổi tùy theo các điều kiện sống, môi trường sống. Ý thức như vậy, tác giả Ngô Thừa Ân đã chọn lựa thay đổi nhận thức con người thì bị ràng buộc chặt chẽ với tổ chức của xã hội, nhất là xã hội ấy là một xã hội phong kiến lâu đời. Các giá trị phong kiến đã ăn sâu vào tiềm thức con người và cơ cấu xã hội. Bất cứ một thay đổi nào về giá trị thuộc xã hội phong kiến đều vấp phải một kháng lực có quyền uy rất lớn của vua, tôi, triều thần và quần chúng dưới trướng triều đình. Ðối mặt với sức mạnh này, tất cả sức mạnh này, tất cả sức mạnh của các cá nhân và của các nhóm quần chúng nhỏ đều phải tan vỡ.

- Lại nữa, xã hội phong kiến đã nuôi dưỡng các lực lượng tà phái rất mạnh, tồn tại dựa vào các khuyết điểm của phong kiến; các lực lượng này cũng không muốn thay đổi xã hội phong kiến; bởi vì sự thay đổi ấy đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của các thế lực ấy. Các lực lượng này trở thành vật cản đáng kể dưới bước đi của Tôn Ngộ Không.

Tôn Ngộ Không và nhóm chính phải của Tôn Ngộ Không, phải thường xuyên lưỡng đầu thọ địch. Ðấy là chưa nói đến việc có những sức cản nằm trong nhóm quần chúng của Tôn Ngộ Không như vừa đề cập ở mục II, hồi 8 này.

Thực hiện con đường lý tưởng về văn hóa, giáo dục Vô ngã, vì thế Tôn Ngộ Không cần, rất cần, đến sự soi sáng của trí tuệ toàn giác và lòng đại bi bủa ra của trí tuệ toàn giác (biểu tượng bằng sự dẫn dắt của Ðức Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm). Nhìn lại lịch sử Việt Nam dưới thời Lý, Trần, chúng ta có thể có một khái niệm về sự chuẩn bị cho công việc thực hiện lý tưởng trên. Vạn Hạnh thiền sư, Khánh Vân thiền sư, và cả Khuông Việt, Pháp Thuận thiền sư đã dốc bao nhiêu tâm lực để tìm ra Lý Công Uẩn và mở dần con đường cho Lý Công Uẩn lên ngôi báu.

Nhân tâm cũng là một yếu tố ảnh hưởng mạnh đến việc thay đổi chế độ xã hội, có thể tạo điều kiện thuận lợi, mà cũng có thể bất thuận lợi. Vì thế con đường sống vị tha, đầy tình người và trí tuệ, cần được mở đầu bằng hiếu đạo, điều mà Ðức Phật đã quan tâm mở ra hội “Vu Lan Bồn” khi chuẩn bị lập thành phái đoàn Tây du.

Chúng ta sẽ dần dần thấy rõ những gì mà Tôn Ngộ Không cần phải vượt qua vào các hồi kế tiếp.!!!Hồi thứ 9, 10, 11 và 12

Hồi 9: “Trần Quang Nhị nhậm chức gặp nạn,

Sư Giang Lưu trả thù báo ơn”

Hồi 10: “Lão Long Vương vụng tính phạm pháp thiên đình.

Ngụy thừa tướng gửi thư nhờ âm phủ”

Hồi 11: “Qua địa phủ Tái Tôn về dương

Dâng quả bí Lưu Toàn được vợ”

Hồi 12: “Vua Ðường lòng thành kính mở đại hội

Quan Âm hiển Thánh hóa Kim thuyền”

- Về con đường đến trí tuệ Ba La Mật, theo Phật giáo phát triển (Ðại thừa), hành giả sau khi ngộ pháp tánh (còn gọi là minh tâm, kiến tánh) cần phát tâm cầu Phật quả và hành sâu giải thoát (Giới, Ðịnh, Tuệ) và tâm đại bi cứu độ chúng sinh thì công đức giải thoát mới sớm thành tựu viên mãn.

Bốn hồi này là phần Bồ Tát Quán Thế Âm sắp đặt cho nhân vật Ðường Huyền Trang xuất hiện với lòng đại bi phát đại tâm đi Tây Trúc thỉnh kinh để cứu độ Nam Thiệm Bộ Châu. Ðây là nhân vật biểu hiện tâm nguyện Bồ Tát cầu giải thoát Vô thượng Bồ đề. Việc thỉnh được Tam Tạng kinh từ Lôi Âm tự về đến Tràng An (Trung Hoa) là biêu tượng cho mục tiêu đắc trí tuệ giải thoát Ba La Mật vậy. Về nhân vật Ðường Tăng đã được đề cập trong phần Tổng luận, ở đây chỉ bàn thêm một ít điểm.

- Ðường Tăng, nhân vật được Bồ Tát Quán Thế Âm chọn (Tây Du Ký) ủy thác trách nhiệm thỉnh kinh là tiêu biểu cho quyết tâm giải thoát và độ sinh của mỗi hành giả. Ðường Tăng tự thân thấy rõ cảnh đời vô thường, khổ đau và ác trược (chứng kiến các oan khổ đến với tự thân, gia đình và xã hội) nên phát khởi đại bi tâm độ sinh. Ðây là điểm giáo lý rất truyền thống của Phật giáo. Chỉ có những tâm thức nào thấy rõ ba pháp ấn, hay bốn pháp ấn là thấy đạo; chỉ những ai thấy đạo mới phát tâm cầu đạo. Sự kiện phát khởi đại bi tâm chỉ thực sự xẩy đến với điều kiện tâm thức như thế, nghĩa là đại bi tâm phát khởi từ trí tuệ giải thoát. Không có sự kiện phát khởi đại bi tâm ngoài trí tuệ. Vì thế hình ảnh Ðường Tăng gắn liền với Tôn Ngộ Không trên suốt cuộc hành trình Tây du. Lúc nào hai hình ảnh ấy, hai tâm thức ấy tách rời khỏi nhau thì tà pháp xã hội (ma nạn đến)... Ðây là đạo.

- Qua việc giới thiệu thân thế Ðường Tăng, bốn hồi truyện này (hồi 9-12) còn giới thiệu một số điểm khác về giáo lý Phật giáo như:

a/ Trạng nguyên Quang Nhị đã phóng sinh con cá vốn được mua để dâng mẹ, và được mẹ khen ngợi. Tại đây tác giả giới thiệu các giá trị tu tập giải thoát: hiếu hạnh là tốt, như tu tập bố thí thì tốt hơn, phước đức nhiều hơn. Phóng sinh cũng thế. Tương tự, công đức trì giới sẽ nhiều hơn nữa; hành thiền định công đức sẽ hơn trì giới; tu tập trí tuệ là tốt hơn cả.

b/ Tác giả nhân đây giới thiệu giáo lý nhân quả Phật giáo rất phân minh: Quang Nhị phóng sinh cá nên về sau (vốn là con cá được phóng sinh) Long Vương cứu Quang Nhị khỏi chết sau khi bị Lưu Hồng ám hại để đoạt vợ và chức Tri phủ.

c/ Việc Ðường Thế Dân du Ðịa phủ chứng kiến sự thật nhân quả: ác nhân thì ác báo, thiện nhân thì thiện báo. Tác giả đã tóm tắt khái quát rằng: “Người làm thiện thì sinh Tiên; người tận trung thì sinh và đường quý; người hiếu hạnh thì sinh vào đường phúc; người công bằng thì sinh vào kiếp Người; người tích đức thì sinh vào đường giàu có; người độc ác thì sinh vào đường quỷ”. Giáo lý này hướng dẫn người đời sống ngay thẳng, công bằng và thiện lương đem lại an vui cho bản thân, gia đình và xã hội.

- Chiếc áo Cà sa Phật Tổ ban cho Ðường Tăng (Bồ Tát Quán Thế Âm trao) là biểu tượng lý tưởng giải thoát khổ cho tự thân và giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi hết thảy các khổ ách trong sinh tử. Lý tưởng này là sự nghiệp cao đẹp nên được dệt bằng tơ quý (tiên tơ), bởi bàn tay quý (tiên nga dệt), và được trang trí bằng các hạt trân châu: hạt ngọc “ma ni” là biểu tượng cho hạnh sống thanh bạch, trong sáng, không tỳ vết; hạt “tị trần châu” là biểu tượng cho sống xa lìa hết thảy các trần cấu (các cấu uế của tâm); hạt “định phong châu” là biểu tượng cho hạnh sống nhiếp tịnh tâm thức thoát ly khỏi các ảnh hưởng khen, chê, thị phi, được, mất, danh vọng, lợi dưỡng (bát phong); hạt “dạ minh châu” là biểu tượng cho trí tuệ. Chiếc áo mà Bồ Tát Quán Thế Âm tặng không cho Ðường Tăng là biểu tượng cho công phu hành giải thoát được chứa đựng trong Tam Tạng kinh điển Phật giáo.

- Cho đến hồi thứ 21 này, Ngô Thừa Ân đã phác họa đủ đề cương của một nội dung giáo dục con người tốt phục vụ cho xã hội của nền văn hóa giáo dục Vô ngã. Ðề cương ấy bao gồm nhiều điểm:

1- Giáo dục con người sống phải có mục tiêu, lý tưởng hướng thượng. Lý tưởng đó phục vụ cho an lạc, hạnh phúc của bản thân, tập thể, xã hội, và được biểu tượng qua nhân vật Ðường Tăng.

2- Giáo dục con người có khả năng nhận thức, phân biệt rõ phải, trái, thiện, ác, tốt, xấu, đúng, sai, hư, thật (được biểu trưng qua nhân vật Tôn Ngộ Không).

3- Giáo dục con người biết hướng thiện, sống đạo đức, biết khép mình vào khuôn phép, kỷ luật tự giác (được biểu tượng qua Trư Bát Giới).

4- Gióa dục tâm lý con người, giáo dục ý chí và quyết tâm theo đuổi con đường lý tưởng của mình (biểu tượng qua nhân vật Sa Ngộ Tịnh).

5- Giáo dục đầy tình người (nhân hiếu, trung, tình, nghĩa), biểu tượng qua nhân vật Tiểu Long Mã.

6- Giáo dục con người thấy rõ tính độc đoán, uy quyền, hưởng thụ, bất công (tệ trạng tại Thiên cung) của những người có quyền thế, thấy rõ sự thật khổ đâu ở Âm phủ và cuộc “hỗn thế” ở trần gian để xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, an lạc và hạnh phúc.

- Xây dựng một nhân cách toàn diện qua các mặt:

1. Lý trí và hành động (Tôn Ngộ Không).

2. Về tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ (vai trò Ðường Tăng).

3. Về thể lực, bản năng, dục vọng (vai trò Bát Giới).

4. Ý chí kiên định, tâm tư ổn định (vai trò Sa Ngộ Tịnh).

5. Về tương giao xã hội (vai trò Tiểu Long Mã).

Ðó là nội dung giáo dục về trí dục, đức dục, tâm lý và tình cảm, lao động (hành động), và giáo dục một khả năng thực hiện sự hòa điệu các mối tương giao của cuộc sống (Phái đoàn...).

- Nền giáo dục con người toàn diện ấy được xây dựng trên cơ sở sự thật Vô ngã tính của vạn hữu, và trên căn bản niềm tin rằng tâm thức có khả năng chuyển hóa không cùng.

- Tác giả lần lượt nêu lên những lý do của một xã hội cần được thay đổi. Sự kiện Trần Quang Nhị, rể của quan thừa tướng Ngụy Trưng đi nhậm chức bị kẻ ác giết chết, chiếm vợ và chiếm cả chức vị Tri phủ kéo dài mười tám năm mà triều đình cũng không hay, chứng tỏ xã hội Trung Hoa bấy giờ tổ chức không hợp lý, không thể bảo đảm an ninh xã hội cho dân chúng, đưa xã hội vào cảnh hỗn loạn, nhân dân không có quyền làm chủ xã hội và cuộc sống.

- Sự kiện Long Vương không tôn trọng mệnh lệnh của Thiên đình, tự do hành xử theo tư ý là sự kiện không thượng tôn pháp luật.

- Sự kiện Lý thị vợ Lưu Toàn, phải tự vẫn khi làm việc thiện là hậu quả của các quan niệm đạo đức luân lý lỗi thời của xã hội Trung Hoa.

- Sự kiện Ðức Phật ủy thác Bồ Tát Quán Thế Âm phật sự thỉnh Tam tạng kinh Phật đến Ðông Ðộ để cứu vớt quần chúng nói lên quá rõ ràng nhân tâm ở đây đã hoạn nạn, đạo đức đã suy đồi.

- Tại giới quan lại, chính trường thì vì danh lợi đã đẩy đưa một số người có tài giúp nước như Lý Ðịnh, Trương Tiêu đến chỗ chán nản rút lui về sống an phận bằng nghề đốn củi, bắt cá, tiêu dao ở vùng non xanh nước biếc.

- Trước cảnh một xã hội, dù không có chiến tranh, đạo đức đi dần vào băng hoại, Ngô Thừa Ân muốn đánh thức nhân dân tỉnh dậy để cùng nhau sửa soạn cho một xã hội dân chủ, công bằng và nhân ái. Xã hội mới sẽ bắt đầu từ ngày Ðường Tăng nhận tấm áo cà sa và chiếc tích trượng từ tay Bồ Tát Quán Thế Âm để Tây du. Cần có một cơn gió lớn đưa hương Vô ngã, trí tuệ và từ bi từ Tây Trúc về xã hội Trung Hoa đương thời.

Ðây là hoài bão của Ngô Thừa Ân về việc xây dựng một xã hội con người rất người và tốt đẹp qua tiểu thuyết Tây Du Ký.

- Công cuộc cải tổ văn hóa, giáo dục mà Tôn Ngộ Không khởi xướng cần được tiến hành nhiều bước hợp lý. Bước đầu tiên là giáo dục, tuyên truyền ý thức nơi quần chúng nhân đân về những hư hỏng của xã hội cũ, và chứng tỏ các ưu thế của nền văn hóa mới. Cánh đổi mới cần có một lực lượng hậu thuẩn mạnh mẽ để có thể đứng vững trước nhiều sức mạnh phản kháng đến từ nhiều phía, đại để có ba sức mạnh phản kháng chính.

- Sức mạnh “sấm sét” của triều đình, quan lại phong kiến và các nhóm ăn theo.

- Sức mạnh “âm hỏa” là sức mạnh tâm lý phản kháng, phản tuyên truyền tác động vào quần chúng và vào phái canh tân.

- Sức mạnh “bi phong” là sức mạnh gây ra sự thiếu lòng tin, nhu nhược, tình cảm thiếu sáng suốt của quần chúng và của phái canh tân.

Ðây là bước chuẩn bị cần thiết để xây dựng một nền văn hóa giáo dục mới kia. Từ đây, Tôn Ngộ Không còn phải giác tỉnh để đối đầu trong từng bước đi cải tổ của mình, mở đầu từ hồi thứ 13, nếu không thì sẽ bị tan xác trước “sấm sét”, bị thiêu cháy trong “âm hỏa”, hay bị tan rã trước “bi phong”.!!!Hồi thứ 13 và 14

Hồi 13: “Sa hang cọp Kim tinh cứu thoát

Núi Long Hoa Bá Khâm mời sư”

Hồi 14: “Vượn già theo chính!!!Sáu giặc mất tăm”

Sau khi phát tâm cầu giải thoát và phát đại nguyện độ sinh, hành giả bắt đầu hạ thủ công phu giải thoát. Giải thoát không thể đạt được bằng chỉ một tấm lòng mong muốn giải thoát. Tấm lòng hay khát vọng giải thoát chỉ là sự nhắc nhở đến mục đích giải thoát cần phải đến, tự nó chưa có khả năng hình thành một bước đi giải thoát nào. Vì thế Ðường Tăng vừa mới lên đường đã sa vào ngay hang cọp, chúa tể sơn lâm ấy là biểu tượng của tham, sân, si ở nội tâm và ở ngoại cảnh đang thời sung mãn; chúng dễ dàng “thịt” mất chí nguyện giải thoát độ sinh của hành giả. Giai đoạn này nếu không nhờ tha lực của Kim Tinh cứu mạng thì lý tưởng Tây du đã không còn.

- Trước khi lên đường, Ðường Tăng đã ý thức việc tu dưỡng Tâm, nên “lẳng lặng chỉ tay vào bụng mấy lượt” để nói với Tăng chúng tiễn chân rằng: “Tâm sinh thì ma nghiệp sinh, tâm diệt thì ma nghiệp diệt”. Vậy khi ma chướng khởi (ma nạn sinh) thì bấy giờ hành giả và chí nguyện giải thoát chính là ma chướng, hay bị khống chế bởi ma chướng. Ma chướng đó là tà niệm, vọng niệm.

Ðối với vọng niệm, lòng khát vọng giải thoát không có đôi mắt để nhìn thấy và cũng không có khả năng để nhưng tiếp phục. Nếu thiếu trí tuệ thì hành giả không thể tu tập giải thoát qua hai công phu chính yếu sau đây:

- Nhận ra đâu là chánh niệm để duy trì và phát triển; chánh niệm nào chưa sinh thì khiến sinh khởi, chánh niệm nào đã sinh thì duy trì và phát triển.

- Nhận ra đâu là tà niệm; tà niệm đã sinh thì cần được tìm cách đoạn diệt, tà niệm chưa sinh thì không để nó sinh khởi.

Ma nạn “hang cọp “này là nạn cảnh giác Ðường Tăng phải tu tập có chánh kiến và chánh tư duy (hay trí tuệ) trước, rồi vận dụng trí tuệ này dẫn đầu các công phu tu tập khác.

Ðây mới là chánh đạo. Do vậy, vào hồi 14 Ðường Tăng cần thu nhận Tôn Ngộ Không phò tá như một vai trò trí tuệ trên cuộc hành trình Tây du.

- Chính nhờ trí tuệ (vai trò Tôn Ngộ Không) nhận ra bạn, thù và có khả năng rất lớn có khả năng đốt cháy, đánh tan các vọng niệm khởi lên do tác động từ trong lẫn ngoài, như Tôn Ngộ Không đã diệt đám giặc cỏ lục tặc ở hồi 14 này, đám giặc thường gây hỗn loạn tâm thức và cuộc đời.

- Ðể xây dựng một xã hội tốt đẹp đúng nghĩa nhất cần có người tốt. Con người tốt là con người được phát triển, giáo dục toàn diện, có khả năng nhận định tốt, xấu, phải, trái, hư, thật và có khả năng để hành xử các việc cá nhân, gia đình và xã hội.

- Con người cần được hiểu một cách thực tế rằng không phải là được sinh ra như một tờ giấy trắng, mà là có đủ một mầm tâm lý tốt, xấu lẫn lộn. Các tâm lý xấu như tham, sân, si, ganh ghét, đố kỵ, kiêu căng, ngã mạn, phóng túng có mặt mạnh hơn là các tâm lý tốt. Ðiều kiện sống ở xã hội phong kiến (và xã hội nói chung) kích động các tâm lý xấu nhiều hơn là các tâm lý tốt. Do vậy, yêu cầu đầu tiên của giáo dục là cần giáo dục con người có một hiểu biết, tư duy phân biệt rõ, tốt, xấu, thực, hư v.v... và có khả năng chỉ đạo tốt các hành vi của con người như Ðường Tăng cần đến sự có mặt của Tôn Ngộ Không trong phải đoàn Tây du.

- Tư duy đúng và hiểu biết đúng cần được giáo dục tế nhị, cần được khéo léo tiếp thu, cần có sự luyện tập nhiều về căn và tư để thắng vượt các thành kiến, định kiến của văn hóa, truyền thống và các tập quán tình cảm, tư duy cũ. Các tập quán này trói buộc con người rất mạnh như biểu tượng Ngũ Hành sơn giam hãm Tôn Ngộ Không dài đến 500 năm. Phá bỏ được các ràng buộc này con người mới có được cái hiểu biết và tư duy sáng tạo và giá trị áp dụng vào đời sống cá nhân và xã hội.

- Bước cải tổ xã hội đầu tiên nếu không được lý trí tính toán kỹ thì khó vượt qua được rào cản lớn của các lực lượng chủ đạo của đường văn hóa, xã hội và thể chế cũ (được biểu trưng bằng: mãnh thú sơn lâm hãm hại Ðường Tăng), lực lượng cải tổ sẽ bị tổn hại nặng, có thể bị lâm nguy.

- Lý tưởng cải tổ xã hội không được đánh giá đúng ở mặt thuần lý thuyết mà được dánh giá vào thử thách trong thực tế xã hội để làm sáng tỏ giá trị của nó như là Tôn Ngộ Không đứng dậy khỏi Ngũ Hành sơn, lên đường thực hiện và mang thêm một tên gọi mới là Tôn Hành Giả (hành giả = người thực hiện, hành động)

- Lý tưởng thực hiện cần được hoạt động uyển chuyển, không quá cứng rắn, không quá nôn nóng, vội vàng, như cần phải có cái thắng “khẩn cô nhi” trên đầu Tôn Hành Giả.

- Ðấy là những gì mà chúng ta có thể hình dung về các quan niệm hành động để cải tổ xã hội của Ngô Thừa Ân.!!!Hồi thứ 15, 16 và 17

Hồi 15: “Núi Rắn Cuốn, mọi thần ngầm giúp

Khe Ưng Sầu, ý mã thắng cương”

Hồi 16: “Viện Quan Âm sư lừa bảo bối

Núi Hắc Phong quái trộm cà sa”

Hồi 17: “Tôn Hành Giả đại náo Hắc Phong

Quan Thế Âm thu phục con yêu quái”

- Tại hồi 15, khi mà công phu tu tập được trí tuệ Vô ngã soi sáng thì công phu ấy đún nghĩa là công phu giải thoát. Bấy giờ tâm sẽ khởi lên nhiều niệm lành, giải thoát. Ðây là ý nghĩa của hình ảnh biểu tượng các thiện thần tụ họp tại núi Rắn Cuốn để giúp đỡ Ðường Tăng.

- Ở hồi 14, sau khi Tôn Ngộ Không hàng phục lục tặc - giặc cỏ quấy rối tâm thức - thì tâm thức trở nên an tịnh, vắng lặng. Bấy giờ sơn thần ở Lạc Già sơn, vâng mệnh Bồ Tát Quán Thế Âm trao yên cương để thắng Tiểu Long mã - mà Ngô Thừa Ân gọi là “ý mã thắng cương” - Ðây là hình ảnh biểu tượng khi tâm thức đã được chế ngự, không còn vọng ngoại (hướng ra sáu trần), đã quay về giải thoát (hướng nội) như Tiểu Long mã đã từ bỏ long cung và từ bỏ tâm ngỗ ngịch để theo phò Ðường Tăng.

Khi tâm thức lắng đọng như bấy giờ thì sáu trần được soi tỏ bản tướng, không còn tác loạn tâm ý được nữa, sầu muộn sẽ ra đi, vĩnh viễn từ giả tâm ý. Vì thế không nước tâm trong suốt thì các loài chim không thể bay qua, vĩnh viễn bay xa. Con suối bấy giờ được Ngô Thừa Ân gọi là “Khe Ưng Sầu”.

- Ở cấp độ tâm thức này, hành giả không còn bị lòng dục các trần đốt cháy, nên tại Viện Quan Âm (hồi 16) lửa tham dục các trần chỉ đốt cháy sư trú trì trộm áo cà sa quý của Ðường Tăng, mà không thiêu Ðường Tăng và các sư sãi còn lại.

- Tại đây, con ma gấu ở núi Hắc Phong, bạn của sư trú trì Quan Âm Viện, cũng tham lam đánh cắp chiếc cà sa, nhưng hai người ấy có tác ý khác nhau ở hai hoàn cảnh khác nhau, nên gặt hái hậu quả khác nhau. Sư trú trì là kẻ xuất gia sống ở nhà chùa đã hơn 200 năm mà còn lòng tham ấy thì quả là tâm tu quá xấu; với tâm tu ấy thì chỉ cần một lòng tham áo cà-sa là đã đủ để đốt cháy tâm giải thoát. Sư trú trì bị thiêu cháy là thế.

Ma Gấu ở núi Hắc Phong là loài yêu tinh mà thích giao du với nhà chùa là chứng tỏ có một tâm thức hướng thượng. Ma Gấu trộm áo cà-sa và định mở hội cà-sa cũng là hành động với tâm thức hướng về đạo, nhưng hướng về đạo ở cấp độ tâm lý thích nhà chùa và những pháp khí thuộc nhà chùa. Xét kỹ tâm thức này là đang đi lên. Do đó, Bồ Tát Quán Thế Âm không cho hại ma Gấu. Lần đầu gặp ma Gấu, Bồ Tát đã phát biểu “Nghiệt súc chiếm cứ sơn động này cũng có chút duyên đạo”, rồi sau đó Bồ Tát đã quy y cho ma Gấu và thu về cho giữ núi Lạc Già ở Nam Hải.

- Khi Bồ Tát Quán Thế Âm biến hóa ra yêu tinh Lăng Hư (bạn của ma Gấu) thì Tôn Ngộ Không liền nói: “Ðẹp quá! Ðẹp quá! Thế Bồ Tát là yêu tinh hay yêu tinh là Bồ Tát?” - Bồ Tát Quán Thế Âm dạy: “Ngộ Không, Bồ Tát, yêu tinh đều là ý niệm, nếu bàn cho đến gốc, đều là không có”. Lời dạy này giúp Tôn Ngộ Không tỉnh lòng thêm. Tại đây Ngô Thừa Ân đã diễn đạt một tư tưởng khác của Bát Nhã rằng:

- Tướng thật của Bồ Tát là Vô ngã; tướng thật của yêu tinh cũng là Vô ngã. Vì thế, với tâm thức giác ngộ thật tướng thì yêu tinh và Bồ Tát không khác biệt, đều đồng thể Vô ngã (Bồ Tát = yêu tinh = Vô ngã). Nhưng với tâm thức còn vướng mắc tập khí chấp ngã, thì tướng Bồ Tát khác với tướng yêu tinh. Tôn Ngộ Không tuy lòng đã giác tỉnh Vô ngã từ lâu, nhưng tập khí chấp thủ tướng vẫn còn, nên tâm thức thỉnh thoảng ngỡ ngàng vướng ngại các ngã tướng. Do sự vướng ngại ấy mà Tôn Ngộ Không còn vướng mắc các ma nạn.

Nói tóm, ngã tướng là của ý niệm, của ngã tưởng; nó là hư vọng, mà không phải là thực tại.

Tại đây, Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu với đời rằng: Bồ Tát hàng phục yêu Gấu là đánh chết cái tính “yêu” trong con Gấu, chứ không phải giết chết con gấu. Con Gấu tự nó không mang một ngã tính yêu mà bay Bồ Tát gì cả.

- Ngô Thừa Ân mong muốn con người quay trở về chính mình để tu tập tâm và giải thoát tâm, như Tôn Ngộ Không tu tập ở Tà Nguyệt Tam Tịnh động - Mọi giá trị thực là ở tâm thức con người. Khi trí tuệ Vô ngã đã xuất hiện thì tâm thức sẽ dần dần sáng tỏ. Các thiện tâm và giải thoát tâm sẽ sinh khởi. Giáo dục nhân bản là giáo dục giúp con người quay trở về chính minh, chính nguồn sáng bên trong mình. Mọi thứ may mắn, an lạc, tự do, hạnh phúc đều có mặt ở đó, như phái đoàn Tây du có mặt Tôn Ngộ Không. đây là ý nghĩa được biểu tượng bởi hình ảnh các thiện thần đến giúp Ðường Tăng ở núi Rắn Cuốn. Ðây cũng là ý nghĩa mà ngạn ngữ Pháp nói: “Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp mình” (Aide-toi, Le ciel t’aidra).

- Vấn đề không phải là buộc người khác làm các điều thiện, mà là giúp người khác nhận thức rõ về điều thiện và giá trị của điều thiện. Khi đã có nhận thức đúng thì tự khắc con người hành động đúng. Tương tự như khi Khe Ưng Sầu trong suốt, thì các loài chim không còn hiện đến. Cũng thế, khi tâm đã lắng, thì các trần không còn xâm nhập quấy phá. Khi một người đã thấy rõ con đường văn hóa Vô ngã, thì các quan niệm về văn hóa hữu ngã sẽ không còn khả năng thuyết phục.

- Về điều thiện ác, con đường văn hóa giáo dục mới cần nói rõ về giá trị của các hành động, việc làm, yếu tố quyết định giá trị của hành động là ở tâm tác động trên hành động có thể có nhiều giá trị khác nhau và chịu các hậu quả khác nhau, điển hình như ma Gấu và sư trú trì Quan Âm Viện đều đánh cắp tấm cà-sa quý mà một người thì bị đốt cháy thân phạm hạnh và thân huệ mạng, người kia thì phát khởi huệ mạng, huệ tâm.

- Theo tinh thần giáo dục Vô ngã và nhân bản thì con người là vô tự tính và hành động là vô tự tính, bởi cả hai đều do các duyên tập hợp mà sinh. Không thật sự có con người xấu. Cả đến hành động, không thật sự có hành động xấu, mà chỉ có các ý niệm xấu tác động trên hành động. vì thế giáo dục mới đặt trọng tâm ở công phu chuyển đổi các ý niệm, chế ngự các ý niệm (gọi là tu tâm), dù hành giả vẫn quan tâm đến các biểu hiện của hành động và hậu quả của hành động. khi ý niệm xấu được chế ngự, thì các hành động xấu sẽ dần dần biến mất. Ðiều này được Ngô Thừa Ân diễn đạt qua hình ảnh ma Gấu được Bồ Tát Quán Thế Âm và Tôn Ngộ Không chế ngự và thu nhận về cảnh giới xuất gia giải thoát ở Nam Hải.

Tại đây, người chủ xướng văn hóa, giáo dục Vô ngã và nhân bản, Tôn Ngộ Không, cần nhận thức rõ sứ mệnh của mình là chuyển hóa tâm thức con người, tiêu diệt các sai lầm, mà không phải tiêu diệt những con người sai lầm (hồi 16, 17).

Dù vậy, người làm giáo dục không được xao lãng đến vai trò tác động của ngoại giới trên tâm thức con người; giáo dục cần vạch rõ khía cạnh nguy hiểm của ngoại giới có thể gieo rắc tai hại đến con người.

Hồi 15, 16, và 17 quả là các hồi đề cập đến đạo đức của Phật giáo, vấn đề giá trị của các hành vi, hành động, và vấn đề đánh giá các giá trị của các hành vi, hành động.

- Trở lại vấn đề đã được đề cập, căn bản của việc cải tạo xã hội là vấn đề cải tạo con người, và căn bản của vấn đề cải tạo con người và vấn đề cải tạo nhận thức con người. Khi mà đa số quần chúng đã giác ngộ con đường sống với những giá trị mới thì hẳn nhiên khung sườn xã hội mới sẽ phải hình thành. Khi đã là Khe Ưng Sầu trong suốt, thì chim chóc đến sẽ lâm nạn. Do vì nguy hiểm ấy, chim sẽ không còn đến. Cũng thế, khi tâm thức con người đã sáng giá trị của nền văn hóa giáo dục mới, thì các giá trị lỗi thời sẽ ra đi. Ngô Thừa Ân đưa ra hình ảnh Khe Ưng Sâu là xác định sự thật mà người làm công tác cải tổ văn hóa giáo dục phải chọn lựa, rằng: Văn hóa, giáo dục cần được cải tổ trước, cơ chế xã hội cải tổ sau. Công tác văn hóa giáo dục bao giờ cũng cần thời gian lâu dài. Với xã hội phong kiến Trung Hoa vào thế kỷ 16, khó có một chọn lựa nào khác tốt đẹp hơn.

- Cần tạo điều kiện thuận lợi cho nền văn hóa mới phát triển, các điều kiện sống có ảnh hưởng đến việc khơi dậy các nhận thức mới - tương tự như chiếc áo cà-sa quý khơi dậy lòng tham nơi sư trú trì Quan âm Viện - như hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm thường cứu khổ người đời trước khi nói Pháp cứu khổ. Phương thứcnày sẽ hỗ trợ sự nghiệp giáo dục thuyết phục quần chúng quay về với các giá trị mới.

Hồi 18 và 19

Hồi 18: “Chùa Quan âm, Ðường Tăng thoát nạn

”Nhà Cao Lão, Ðại Thánh trừ ma”

Hồi 19: “Ðộng Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới

”Núi Phù Ðồ, Tam Tạng nhận chân kinh”

- Bước đầu tiên chế ngự tâm là chế ngự lục căn (hồi 15). Công phu chế ngự này cần được thực hành lâu dài để nhiếp phục cái động của thân và khẩu như đã được đề cập ở phần Tổng luận. Ở hồi 18 và 19, việc thu phục Trư Bát Giới làm đệ tử xuất gia là ý nghĩa của việc hành trì giới luật và chế ngự dục ái, chế ngự các tánh buông lung, lười biếng để thiết lập cơ sở tâm lý vững chắc cho sự thành tựu tâm giải thoát (đại định) và tuệ giải thoát (đại tuệ).

- Ở nguyên bản Tây Du Ký, và ở bản dịch việt ngữ ấn hành năm 1982, nhà xuất bản Văn học Hà Nội, ghi đủ toàn văn bài Bát Nhã Tâm Kinh. Bài tâm kinh này là trái tim của trí tuệ toàn giác mà thiền sư Ô Sào đã trao cho Ðường Tăng để giữ an lòng trên suốt cuộc viễn trình Tây phương. Ðiểm tinh yếu của bản kinh này là: trên cơ sở tâm thức an trú đại định (hay tâm giải thoát) và tâm nguyện độ sinh rộng lớn, hành giả hành sâu thiền quán Vô ngã, thấy rõ hết thảy vạn hữu là rỗng không tự ngã mà vượt qua hết thảy mọi khổ đau trần thế.

Do vì hành giả an trú vào chánh niệm, chánh tưởng Vô ngã mà tâm thức không vướng ngại bất cứ gì; do vì tâm không vướng ngại, hành giả rời xa các thứ sợ hãi, rời xa các tưởng sai lầm và các tình cảm sai lầm; do vì rời xa các ngã tưởng, các điên đảo tưởng, hành giả chøng đắc được sự giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau. Trên cơ sở thành tựu này, hành giả tự tại ra vào khổ đau để cứu độ đời.

- Dưới con mắt của trí tuệ Vô ngã, các ngã tướng trần gian là hư huyễn, mộng mị, tạm bợ. Ngô Thừa Ân vì thế gọi cõi đời là “phù đồ” (tương tự như phù thế, phù vân) II. Quan niệm về con người

- Một đường hướng giáo dục con người tốt thì không lúc nào rời khỏi mục tiêu đem lại an lạc, hạnh phúc cho con người. Cảm nhận an lạc, hạnh phúc là phần việc của tâm thức mỗi người. Vì thế, công phu huấn luyện tâm lý là công phu chính, bên cạnh công phu mở mang hiểu biết đúng đắn, mở mang trí tuệ. Con đường giáo dục đích thực và nhân bản không phải là con đường lý thuyết, mà là con đường sống. Con đường đó chỉ rõ rằng con người cần trở về chính mình và làm chủ chính mình ở ba lãnh vực thân, khẩu, ý. Hồi 19 và 20 thì giới thiệu đến phần giáo dục làm chủ các hành động của thân và khẩu, ý. Hồi 19 và 20 thì giới thiệu đến phần giáo dục làm chủ các hành động của thân và khẩu (lời nói), giải thoát (đã được đề cập ở phần Tổng luận).

- Một trong những điều kiện cho quần chúng sống với nền văn hóa nhân bản và Vô ngã là tạo với nền văn hóa nhân bản và Vô ngã là tạo nên nếp sống đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội. Cá nhân và tập thể cần phải giữ gìn và tôn trọng một số khuôn phép kỷ luật nào đó của xã hội do xã hội đặt ra phù hợp với văn hóa Vô ngã. Nếp sống văn hóa xã hội này được biểu tượng hóa qua nhân vật Trư Bát Giới.

- Về mặt tâm lý quần chúng thuộc hàng ngũ đổi mới được phân ra nhiều thành phần: có thành phần mang dạng tâm lý của Ðường Tăng, có thành phần mang mẫu tâm lý của Tôn Hành Giả, có thành phần thì tâm lý thiếu ổn định dễ trở lui về nếp sống vói các tập tính cũ, như Trư Bát Giới nhiều lần đòi hỏi lại nhà Cao Lão... Xã hội cần tổ chức thành một nếp văn hóa mới, thiết thực và tích cực. Vai trò tích cực trong việc hình thành nếp sống hóa mới, thiết thực và tích cực. Vai trò tích cực trong việc hình thành nếp trong việc hình thành nếp văn hóa mới là vai trò giáo dục thể hiện qua nhiều phương tiện truyền thống. Giáo dục mở hướng đi tới vào thế giới giá trị mới, xa dần các giá trị cũ, như Tôn Ngộ Không kiểm soát, kiềm chế Trư Ngộ Năng vậy.!!!Hồi thứ 20, 21 và 22

Hồi 20: “Núi Hoàng Phong, Ðường Tăng gặp nạn

Ðón giữa núi, Bát giới lập công”

Hồi 21: “Hộ pháp làm nhà lưu Ðại Thánh

Tu Di Linh Cát bắt Phong Ma”

Hồi 22: “Bát Giới đánh ở sông Lưu Sa

Mộc Xoa vâng lệnh bắt Ngộ Tịnh”

- Hành giả tu tập giải thoát nếu chỉ hành trì giới thì khó nhiếp phục được cái động và cái vọng tâm. Tâm động chưa bị hàng phục thì khó đi vào tuệ giải thoát. Công phu tu tập giới là công phu chuẩn bị căn bản giải thoát để tu tập định. Công phu tu tập giới là công phu chuẩn bị căn bản giải thoát để tu tập định. Công phu đến hồi 20 hành giả hẳn là vượt qua ma nạn Hoàng Phong. Ma nạn này là do pháp hữu vi “tam muội thần phong” chắn lối. Tôn Ngộ Không và Trư Ngộ Năng còn non định lực nên bị gió định khắc chế làm tổn hại đến đôi mắt tuệ của Ngộ Không. Phải nhờ đến định lực vững như núi Tu-di (gọi là Tiểu tu-di) của Bồ Tát Linh Cát mới đối trị được quái Hoàng Phong (hồi 20). Sau nạn này, hành giả (phái đoàn Tây du) phải chuyên tâm hành thiền định. Ðây là ý nghĩa phái đoàn Tây du kết nạp thêm Sa Ngộ Tịnh (như đã đề cập ở Tổng luận, hồi 22).

- Phương pháp tu của Phật giáo để chế ngự tâm, điều phục tâm là phương pháp khắc chế. Ngô Thừa Ân giới thiệu phương pháp tu ấy qua các phương cách phái đoàn Tây du chiến tháng các yêu quái. Với “tam muội thần phong” gió độc và mạnh, thì người ta dùng “định phong đan” để trừ. Với đối tượng động thì dùng tĩnh để chế; với đối tượng tĩnh, thì dùng động (của tuệ) để khắc.

- Mức độ cao hơn về giáo dục con người là mức độ “huấn luyện tâm lý”, hay thực hành thiền định. Giáo dục có mục đích đem lại cho con người sự ổn định tâm lý và cảm nhận an lạc, hạnh phúc. Giáo dục thiền định vì thế là yêu cầu của học đường, của gia đình và xã hội.

- Trạng thái tâm lý ổn định là trạng thái tự do và sáng tạo, loại bỏ các tâm lý mệt mõi, chán nản, lười biếng và lo âu, và có khả năng nâng cao hiệu năng làm việc, học hỏi hay giảng dạy. Ðây là vai trò chính của ngành Tâm lý giáo dục hiện đại.

- Hoàng Phong quái là loại quái vật sinh sống ở cảnh giới Vô ngã, nhưng do tu luyện chưa hết tà khí, chưa an trú vào Giới uẩn, Ðịnh uẩn, nên gặp duyên thì tà niệm phát tán gây nên tai họa lớn về “tam muội thần phong”. Ðây là hình ảnh biểu tượng về hậu quả của sự cải tổ văn hóa giáo dục thiếu triệt để và nghiêm túc, và là biểu tượng về hậu quả tai hại của sự áp dụng sai lạc do không thấu triệt chân giá trị của nền văn hóa, giáo dục Vô ngã.

- Ðể tránh hậu quả trên, lực lượng cải tổ xã hội cần được giáo dục kỹ nội dung của văn hóa Vô ngã và sự trung thành quyết tâm thể hiện nên văn hóa này, một nền văn hóa của tinh thần “tùy duyên nhi bất biến”. Ðấy là ý nghĩa của hai khí giới mà Như Lai trao cho Linh cát Bồ Tát để hàng phục quái Hoàng Phong gồm có:

- “Ðịnh phong đơn” biểu trưng của tinh thần bất biến.

- “Phi long trượng” (con rồng vàng chín móng) biểu tượng cho tinh thần tùy duyên, vận dụng uyển chuyển và sinh động.

Nếu tinh thần Văn hóa Vô ngã được hiểu một cách khẳng định như văn hóa hữu ngã, thì Vô ngã biến thành ngã vô (tà pháp), và hậu quả của nền văn hóa này sẽ gây nên cảnh “hỗn thế” không khác gì với nền văn hóa hữu ngã của xã hội cũ. Nền văn hóa mới này không đối lập với bất cứ một nền văn hóa nào khác cả, vì thế nó có thể cùng tồn tại bên cạnh nền văn hóa cũ. Giá trị đích thực của nền văn hóa này là ở cái tâm hành động được điều động bởi tâm lý vị tha, nhân ái và bởi trí tuệ không chấp thủ, không tham ái, sân hận. Giá trị của cuộc sống là ở chữ Tâm, như những gì mà Tôn Ngộ Không đã được giáo dục ở lò luyện tâm (Tà Nguyệt Tam Tinh động). vì giá trị nằm ở cái tâm, nên cái tâm con người cần được làm chủ trước, cải thiện trước.

Hồi thứ 23

Hồi 23:

“Tam Tạng không quên gốc

”Bốn thánh thử lòng thiền”

- Công phu giải thoát càng vào sâu càng đòi hỏi hành giả phát triển sâu Giới, Ðịnh, Tuệ; càng vào sâu, các tâm lý trói buộc càng tinh tế. Hành giả càng tinh tấn, nỗ lực và giác tỉnh liên tục mới phát triển được định và tuệ giải thoát. Ðiều kiện đòi hỏi trước tiên và ít nhất là: hành giả phải dứt trừ dục ái, vì vậy bốn vị Bồ Tát (Lê Sơn, Quán Âm, Phổ Hiền và Văn Thù) - Lê Sơn biểu tượng của đại nguyện; Phổ Hiền biểu tượng của đại định và đại hạnh; Quán Thế Âm biểu tượng của đại bi và đại trí; Văn Thù là biểu tượng đỉnh cao của trí tuệ giải thoát - thị hiện ra trắc nghiệm phái đoàn Tây du và hỗ trợ cho phái đoàn trước khi đi vào một giai đoạn mới. Qua cuộc trắc nghiệm này, Trư Bát Giới bộc lộ rõ lòng trần (dục ái) chưa sạch, cần được cảnh giác tu tập nhiều hơn.

- Tâm lý tham dục thường che mờ tâm trí con người, đưa đẩy con người vào các sai lầm, đánh mất lý tưởng nhân sinh và xã hội cao thượng. Ðây là điểm tâm lý cần được giáo dục, huấn luyện kỹ để tránh các rối loạn cho cá nhân, gia đình và xã hội. người mà nặng lòng tham, nhất là tham sắc, thì có khuynh hướng sống vị kỷ, gây tổn hai tha nhân, dễ đánh mất nhân cách tốt đẹp của con người và dễ rơi vào phiền não, khổ đau lâu dài.

III. Quan niệm về xã hội

- Do từ tư duy hữu ngã mà chấp thủ ngã tướng sinh và lòng khởi lên tham lam, sân hận, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ... Chính xác tâm lý xấu này sẽ bộc hiện ra các hành động hại mình, hại người.

- Ðể chế ngự tư duy ấy và các tâm lý xấu ấy, con người cần phải thường huấn luyện Văn, Tư, Tu về Vô ngã, vị tha. Ðây là hệ văn hóa giáo dục thực tiễn và thực nghiệm. Xã hội phải có những con người này trước thì công cuộc xây dựng và phát triển đất nước mới thành công tốt đẹp.

Ngô Thừa Ân đã chọn lựa con đường văn hóa này, khảo sát các hồi tiếp chúng ta sẽ rõ.

Hồi thứ 24, 25 và 26

Hồi 24: “Núi Vạn Thọ, Ðại Tiên lưu bạn cũ

Quán Ngũ Trang, Hành Giả trộm nhân sâm”

Hồi 25: “Trấn Nguyên Tử đuổi bắt người lấy kinh

Tôn Hành Giả làm nhộn Ngũ Trang quán”

Hồi 26: “Nơi Tam Ðảo, Ngộ Không tìm thuốc

Nước Cam Lồ, Bồ Tát chữa cây”

I. Tư tưởng Phật học

Tư tưởng Phật học ở ba hồi này đã được bàn ở phần Tổng luận.

II. Quan niệm về con người

Tư tưởng Nho học vẫn là tư tưởng chủ đạo của nền văn hóa Trung Hoa vào thế kỷ XVI (thế kỷ mà Ngô Thừa Ân sống) và qua hầu như suốt dòng lịch sử Trung Hoa cho đến thế kỷ XIX. Hệ thống tư tưởng này đã xây dựng nên chế độ phong kiến. Con người và nhân cách con người được giáo dục theo khuôn mẫu Nho giáo với công thức đầy ước lệ về Hiếu, Trung, Tình, Nghĩa... hay Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín rất máy móc và rất hình thức. Nhân cách đó đã trói buộc sự phát triển con người và tính nhân bản của con người, và hạn chế cả sự phát triển xã hội. Nhân cách đó quá tù hãm con người, không đáp ứng được các biến động đổi thay của con người và xã hội, cũng không đáp ứng được các yêu cầu mới của lịch sử. Như đã đề cập, Ngô Thừa Ân muốn đi tìm một mẫu nhân cách mới, rất người và đáp ứng được mơ ước của con người của nhiều thời đại. Ngô Thừa Ân đã kín đáo giới thiệu nhân cách ấy qua tiểu thuyết Tây Du Ký. Mở ra cuộc Tây du vĩ đại là tác giả muốn mở bung ra cái xã hội bị khép kín của Trung Hoa, khép kín cả nhận thức và thái độ sống, điều mà ngày nay cả thế giới đều thấy: vì sự khép kín ấy mà nền văn minh và có giá trị của Trung Hoa chậm phát triển.

Dựng nên ba hồi 24, 25 và 26 này là Ngô Thừa Ân muốn nói rõ ra một nhân cách mới cần tạo dựng cho văn hóa Trung Hoa. Tác giả đã để cho Tôn Ngộ Không (tiếng nói của nền văn hóa Phật giáo) đánh bật gốc rễ cây nhân sâm quý giá (có mặt từ lúc trời đất mới khai tích) tại Ngũ Trang Quán - biểu tượng của âm dương và ngũ hành của Nho giáo - và phải nhờ đến nước Cam lồ (của trí tuệ Phật giáo tưới vào mới làm sống lại cây nhân sâm. Tác giả, qua hình ảnh đó, muốn cải thiện bổ sung vào nhân cách của Nho giáo trí tuệ đó mới làm sống lại nhân cách lý tưởng của nền văn hóa truyền thống. Chỉ là công việc chuyển đổi, cải thiện, mà không phải là phế bỏ hay thay thế hoàn toàn. Nhân cách Vô ngã ấy sẽ được phát triển tốt và mạnh trong một xã hội dân chủ, nhân ái và công bằng.

- Lại nói về chuyện cây nhân sâm và Ngũ Trang Quán, như được đề cập ở phần Tổng luận, Tôn Ngộ Không đã đánh bật gốc rễ cây nhân sâm, cây nguồn gốc của các pháp hữu vi của hiện tượng giới - cũng là biểu tượng của Nho và Lão, trí tuệ Vô ngã của Ngộ Không chỉ đánh bật gốc rễ của thế giới nhị nguyên, hữu ngã, nhưng chưa có khả năng giải quyết sinh tử. Chỉ có trí tuệ Ba La Mật của Bồ Tát Quán Thế Âm là giải quyết được sinh tử, làm hồi sinh cây nhân sâm.

- Bồ Tát đã lấy nước từ trong cây ấy bằng trí tuệ Vô ngã rồi đem tưới vào cây ấy thì cây liền sống lại. Cũng thế, chân tướng có mặt ở nơi các ngã tướng; vô sinh có mặt nơi sinh diệt; giải thoát có mặt tại cuộc đời, tại phiền não. Trí tuệ Vô ngã của Phật giáo mở ra con mát tuệ cho con người thấy sự thật đó. Chuyện hồi sinh cây nhân sâm là bài thuyết pháp thâm diệu mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã giảng bày cho Trấn Nguyên Tử và các Thiên tiên, Ðịa tiên, và phái đoàn Tây du. Ðiều này được làm rõ nghĩa thêm ở hình ảnh một quả nhân sâm rơi xuống đất liền biến mất vào đất, đến lúc hồi sinh thì quả nhân sâm liền trở về lại cây. Với con mắt hữu ngã (sinh diệt) thì bảo là quả nhân sâm đã mất, rồi phiền não, bực bội vì nó, và nghi oan cho Tôn Ngộ Không trộm. Thực sự, Bồ Tát Quán Thế Âm đã cắt nghĩa cho thấy quả nhân sâm chỉ có hay mất dưới cái nhìn sinh diệt của ngã tướng; nhưng, nó là bất sinh bất diệt đối với thực tại như thật, và đối với cái nhìn Vô ngã; Quả nhân sâm từ trên không rơi chạm đất thì liền biến mất là ý nghĩa khi có mặt đủ âm, dương (đất trời) thì thật tướng biến mất (biểu tượng bằng hình ảnh biến mất của quả nhân sâm), nhưng khi có nước cam lồ của trí tuệ Vô ngã rưới vào thì thực tướng xuất hiện (như hình ảnh quả nhân sâm sau khi biến mất lại tái hiện trên cành).

- Tác giả Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu cái nhìn Vô ngã này với xã hội Trung Hoa, muốn đưa cái nhìn ấy vào nền văn hóa, giáo dục Trung Hoa để hồi sinh cho nền văn hóa này vốn thường ở trong điều kiện hầu như khủng hoảng. Cái nhìn Vô ngã đi vào một nền văn hóa Vô ngã. Nền văn hóa mới này đến không xáo trộn nền văn hóa cũ, và không phải đến từ nền văn hóa ấy. Nó phát sinh từ trong lòng cuộc sống đang trôi chảy và chuyển hóa cái nhìn nhị nguyên thành cái nhìn Vô ngã về dòng sống đang trôi chảy. Việc xiển dương nền văn hóa, giáo dục này nếu được gọi là cách mạng văn hóa giáo dục, thì cũng không đúng; nhưng nếu không được gọi là cuộc cách mạng văn hóa giáo dục, thì cũng không đúng. Ở đây, chúng ta tạm gọi là một cuộc cải tổ văn hóa, giáo dục theo tinh thần Phật giáo dưới cái nhìn của Ngô Thừa Ân.

Sau khi cây nhân sâm được hồi sinh, Trấn Nguyên Tử, các Phước, Lộc,Thọ tinh, Bồ Tát và phái đoàn Tây du đã hoan hỷ đề huề trong bữa tiệc gọi là hội “Nhân sâm quả’. Trấn Nguyên Tử lại mở thêm một bửa tiệc riêng để làm lễ kết nghĩa huynh đệ với Tôn Ngộ Không. Kết nghĩa huynh đệ với Tôn Ngộ Không là tế nhị nói lên rằng: Trấn Nguyên Tử được xếp vào hàng đệ tử Bồ Tát Quán Thế Âm (vốn Trấn Nguyên Tử là tổ của Ðịa tiên). Sự kiện này nói lên rằng nền văn hóa, giáo dục Vô ngã của Phật giáo sẽ hòa nhập, hay đi song hành, với nền văn hóa giáo dục tại bản xứ, nơi Phật giáo đặt chân đến. Nền văn hóa giáo dục Phật giáo có khả năng sẽ làm thăng hoa hồi sinh nền văn hóa giáo dục cũ.

Tưởng chúng ta cũng cần để tâm suy gẫm đến câu chuyện cây nhân sâm này. chúng ta có cảm tưởng rằn cảm hứng của Ngô Thừa Ân đã bật khởi mạnh mẽ như thế nào về sự nghiệp Tây du và hóa đạo của Ðường Tăng, thì cảm hứng của ông cũng bật khởi mạnh mẽ như thế ấy khi dựng nên hình ảnh cây nhân sâm bật gốc và cây nhân sâm hồi sinh.

Hồi thứ 27, 28, 29, 30 và 31

Hồi 27: “Thây ma ba lượt trên Tam Tạng

Ðường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu Vương”

Hồi 28: “Núi Hoa Quả lũ yêu hợp nghĩa

Rừng Hắc Tùng Tam Tạng gặp ma”

Hồi 29: “Thoát nạn Giang Lưu về đất nước

Ðội ơn Bát Giới chuyển sơn lâm”

Hồi 30: “Tà ma phạm chánh đạo

Tiểu Long nhớ Ngộ Không”

Hồi 31: “Bát Giới lấy nghĩa khích Hành Giả!!!Ngộ Không dùng trí phục Ma Vương”

- Hồi 27 đã được bàn đến ở phần Tổng luận. Tại đây, một số điểm sẽ được bàn thêm.

Ðường Tăng suốt cuộc hành trình thì chỉ một chiều trang nghiêm giữ gìn giới tướng, một lòng giữ chặt điều nhân, chỉ tu giới và tu phước mà thiếu hẳn đôi mắt trí tuệ để phân biệt thật, giả, thiếu hẳn đôi mắt của Thánh hữu học để nhận ra các tướng ma quỷ trá hình. Do vì thiếu tuệ nhãn mà Ðường Tăng không biết nghe theo Tôn Ngộ Không, lại nghe tiếng nói đố kỵ, hiềm khích và thiểu trí của Trư Bát Giới, nên vướng ngay vào các thảm họa của các ma nạn:

* Ba lần Ngộ Không đánh chết Bạch cốt tinh là ba lần bị Ðường Tăng quở la và niệm chú “khẩn cô nhi” để hành hạ. Lần cuối thì Ðường Tăng viết giấy dứt tình thầy trò dù Tôn Ngộ Không đã cạn lời phân tỏ. Ngô Thừa Ân đã rất thiện xảo dựng nên cảnh “Bạch cốt phu nhân” để giới thiệu sâu sắc giáo lý Phật giáo: Từ bi, Trí tuệ và Bồ Tát hạnh.

- Từ bi của Phật giáo, như đã bàn, đi đôi với trí tuệ và cần được trí tuệ soi tỏ. Từ bi mà tách rời khỏi trí tuệ thì không còn ý nghĩa từ bi; bấy giờ nó trở thành tương phản với từ bi của Phật giáo.

- Hạnh Bồ Tát, theo Phật giáo, là hạnh biểu hiện ba sức mạnh chính: trí tuệ là linh hồn; thiền định là sức mạnh; và từ bi là sắc thái đặc thù, là sứ mệnh độ sinh. Ðường Tăng thì thiếu mất sức mạnh của định lực và của trí tuệ Vô ngã. Vì thế, thảm kịch trong công phu giải thoát xẩy ra. Ðây là hiểm họa trên đường về giải thoát mà Tôn giả Tu Bồ Ðề gọi là họa “bi phong” thổi mạnh làm tan rã công phu giải thoát của hành giả, và đã căn dặn Tôn Ngộ Không cẩn thận đề phòng! Biến cố cắt đứt thâm tình sư đệ này đã làm tan rã phái đoàn Tây du và làm lạnh buốt cơ thể giải thoát của phái đoàn. Sau khi Tôn Ngộ Không rời phái đoàn, phái đoàn đã kéo lê những bước đi thất thểu, mệt mõi, thê lương! Tại đây, Ngô Thừa Ân đã giới thiệu mạnh mẽ với người đời rằng: không có một hạnh tu nào của Phật giáo, hay không có một công phu giải thoát nào của Phật giáo mà vắng mặt trí tuệ cả. Hễ ánh sáng đi thì bóng tối đến. Nếu vắng mặt Tôn Ngộ Không thì ma “Bạch cốt phu nhân” xuất hiện hãm hại. Ma bạch cốt là biểu tượng của cõi vô minh, âm u của tham, sân, si và quyến thuộc của tham, sân, si.

- Qua hồi 27 đầy bi kịch này, Ngô Thừa Ân cũng nói lên sự thật theo giáo lý nhà Phật rằng: chân lý chỉ có mặt trong trí tuệ giải thoát mà không có mặt trong thiền định, giới luật và lòng nhân đạo, như phái đoàn Tây du chỉ có Tôn Ngộ Không thấy rõ chánh, tà, chân, ngụy, còn Ðường Tăng, Sa Ngộ Tịnh và Trư Ngộ Năng thì không; vì thế mà trí tuệ Ba La Mật là giải thoát tối hậu, và chỉ có trí tuệ này mới thể nhập thực tướng của các pháp theo chân lý Nam, Bắc truyền.

- Ở hồi tiếp theo, hồi 28, tác giả đưa Ðường Tăng, Ngộ Năng và Ngộ Tịnh sa vào nạn thiên ma ở rừng Hắc Tùng để cảnh giác Ðường Tăng, Ngộ Năng và Ngộ Tịnh, vừa như để trừng phạt, cảnh cáo kẻ tu hành thiếu trí, và trừng phạt cách xử sự “hồ đồ” của Ðường Tăng và Bát Giới.

- Tác giả để cho ma vương ở rừng Hắc Tùng biến Ðường Tăng thành con hổ cũng với dụng ý ấy. Ðến cuối hồi 28 này thì Tôn Ngộ Không chiếm lại đạo tình đã mất trong phái đoàn.

- Theo kinh tạng Phật giáo thì chỉ có người trí mới biết ca ngợi ngôi Tam Bảo; chỉ có người trí mới phê phán đúng các việc làm của người trí, do vậy việc hàng phục tà của Tôn Ngộ Không không được Ðường Tăng, Trư Ngộ Năng và Sa Ngộ Tịnh hiểu đúng để rồi xẩy ra các hiềm khích, ngộ nhận.

- Có một vấn đề giáo dục hiện đại mà Ngô Thừa Ân đã đặt ra suốt tập truyện, đặc biệt là trong các hồi từ 27 đến 31, là giáo dục con người thể hiện sự hòa điệu trong tự thân mỗi người: thế nào để điều hòa giữa tim và óc (từ bi và trí tuệ), giữa lý trí, tình cảm, dục vọng và ý chí của con người, như sự hòa điệu giữa các thành viên của phái đoàn Tây du. Khi nào có mặt sự hòa điệu thì cá nhân ổn định, sáng suốt, an lạc và hạnh phúc. Khi nào tâm thức bất hòa điệu thì tâm lý rối loạn, thiếu sáng suốt và phiền não, khổ đau.

Cũng thế, cần có sự thể hiện hòa điệu giữa cá nhân mình và các cá nhân khác trong một tập thể. Khi nào sự hòa điệu trong tập thể được thể hiện, thì tương giao của tập thể trở nên xấu đi, mất đoàn kết, và các cá thể trong tập thể cảm thấy bất an. Ðây là điểm giáo dục tâm lý rất người và rất thiết thực.

Lý trí và tình cảm, đạo đức và dục vọng thường hay chống trái nhau. giáo dục là giúp con người nhận thức sự thật chống trái ấy và thể hiện quân bình tâm thức theo sự soi sáng của lý trí. Cái nhìn và thái độ sống của Ðường Tăng thì khác với cái nhìn và thái độ sống của Tôn Ngộ Không; cái nhìn và thái độ sống của Bát Giới cũng khác như thế. Nghệ thuật sống phải là nghệ thuật thể hiện hòa điệu tâm lý. Ðây là nghĩa sống lớn và thực của con người.

- Nghĩa sống của tương giao cũng quan trọng. Nghĩa sống ấy là tình người chân thật, sự hiểu biết nhau, sự thông cảm nhau, sự chấp nhận, tin tưởng nhau, và sự tôn trọng nhau. Nếu đầy đủ các yếu tố vừa kể thì đã không xẩy ra cảnh ngộ nhận đầy bi kịch giữa Ðường Tăng và Tôn Ngộ Không, giữa Bát Giới và Tôn Ngộ Không như ở hồi Tôn Ngộ Không đánh chết Bạch cốt tinh.

- Sức mạnh của tập thể là sự hợp quần. Sức mạnh ấy được phát triển nếu được hướng dẫn bởi tiếng nói trí tuệ. Nếu thiếu sự hợp quần thì tập thể sẽ tan rã, và nếu sự hợp quần không được thực hiện bởi trí tuệ thì tập thể cũng lâm nguy. Ðây là những gì Ngô Thừa Ân muốn nói ở hồi 27 và 28 (Bạch cốt tinh và rừng Hắc Tùng).

- Tiếng nói trí tuệ thiện xảo của tập thể cần được truyền đạt một cách thiện xảo thì mới có tác dụng sâu rộng trong quần chúng. Nếu tiếng nói trí tuệ đó thiếu sự hỗ trợ của kỹ thuật truyền đạt thì tập thể vẫn có thể rơi vào những khó khăn đáng kể làm suy yếu sức mạnh hợp quần như thái độ nói năng và ngôn ngữ diễn đạt của Tôn Ngộ Không thiếu tế nhị, thiếu khế cơ đã gây ra những cú “sốc” tâm lý ở Ðường Tăng và Bát Giới dẫn đến hậu quả tai hại là Ðường Tăng cắt đứt nghĩa thầy trò với Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không cần tỉnh ngộ về hậu quả này mới có thể diễn xuất thiện xảo vai trò của mình.

- Ngoài yếu tố trí tuệ, sức mạnh hợp quần còn cần đến tình người như hình ảnh biểu tượng Bát Giới lấy nghĩa sư đệ để khích Tôn Ngộ Không lên đường cứu thầy, và cần đến lý tưởng như chất keo gắn bó, như hình ảnh Bát Giới nhắc đến Bồ Tát Quán Thế Âm để khích Tôn Ngộ Không “tái xuất giang hồ”.

Tại đây, Ngô Thừa Ân muốn nói rằng: con đường văn hóa giáo dục mới là cần thiết mà những kỹ thuật vận dụng để thực hiện vào đời còn cần thiết hơn.

Hồi thứ 32, 33, 34 và 35

Hồi 32: “Núi Bình Ðính, cây tào truyền tín

Ðộng Liên Hoa, Bát Giới gặp tai”

Hồi 33: “Ngoại đạo làm mê tính thực

Nguyên thần đến giúp lòng ngay”

Hồi 34: “Ma Vương mưu giỏi khốn Hầu Vương

Ðại Thánh khéo lừa lấy bửu bối”

Hồi 35: “Ngoại đạo ra oai lừa kẻ thẳng!!!Ngộ Không được báu phục tà ma”

- Sau phần tu tập cũng cố từ bi kết hợp với trí tuệ là phần đề cập đến vấn đề Giới tu tập với Tuệ. Giới mà tách rời hẳn Tuệ thì giải thoát bị tù hãm ngay, như Bát Giới đi tuần một mình ở núi Bình Ðính liền bị thiên ma Ngân Giốc và Kim Giốc cầm tù tại động Liên Hoa.

Ngân Giốc và Kim Giốc vốn là hai tiểu đồng của Thái Thượng Lão Quân do Bồ Tát Quán Thế Âm chủ ý mượn để dựng lên cảnh nạn ở động Liên Hoa để củng cố công phu tu tập của hành giả, của phái đoàn thỉnh kinh.

Các bửu bối đều là các sức mạnh rút ra từ đầu nguồn của thế giới nhị nguyên. Qua được cảnh nạn này là hành giả có kinh nghiệm tu tập để thắng vượt một số trói buộc của Tam giới. Tại đây, đúng như giáo lý Phật giáo, tác giả Ngô Thừa Ân xác định vai trò của giới chỉ để chế ngự các hành động của thân và khẩu, và chỉ chế ngự được dục ái mà khó qua được ý nghiệp với nhiều sức mạnh cản trở thuộc thế giới của hữu ái và vô hữu ái (của các cõi Trời sắc và Vô sắc). Ðịnh cũng thế. Với các tâm sắc giới thanh cao, thì khả năng của định chưa sâu cũng khó tránh sự đắm trước chấp thủ chúng, như Ngộ Tịnh dễ dàng bi Ngân Giốc và Kim Giốc cầm giữ. Ở đây chỉ có sức mạnh của trí tuệ Vô ngã là có thể chiến thắng, nếu trí tuệ đó đi đôi với đại định và thanh tịnh giới. Nếu giới yếu và định yếu thì hành giả sẽ rơi ngay vào cảnh nạn trên đường về giải thoát, như trường hợp của phái đoàn Tây du tại núi Bình Ðính này.

- Nếu trí tuệ thiền quán Vô ngã chưa sâu thì sẽ không quán sát rõ khía cạnh nguy hiểm, trói buộc của các tâm Sắc giới và Vô sắc giới, như Tôn Hành Giả tại núi Bình Ðính không hiểu cách sử dụng của sợi dây vàng và đã bị Ngân Giốc niệm chú dùng dây vàng trói Hành giả, và dùng hồ lô thu Hành giả. Nếu người tu có tu tập thiền định thấy rõ được khía cạnh nguy hiểm của các thiền tâm, thì công phu thiền quán Vô ngã sẽ thấy rõ con đường xuất ly khỏi trói buộc của các thiền tâm, như Tôn Hành Giả sau khi bị trói và bị nhốt kín vào hồ lô đã tự kiếm được lối ra và đi đến chiến thắng Kim Giốc và Ngân Giốc.

- Trong nội dung để giáo dục con người phát triển toàn diện có phần quan trọng về giáo dục đạo đức. Nếu giáo dục chỉ chú trọng đến đạo đức mà không dựa vào cơ sở lý trí và trí tuệ - nghĩa là nội dung đạo đức không phù hợp với thực tế con người và thực tế xã hội, lịch sử - thì đó là một nền giáo dục bất toàn, khập khểnh cần được cứu nguy, hệt như Bát Giới (biểu tượng cho giáo dục, kỷ luật, luân lý, đạo đức) đi một mình đến động Liên Hoa thì bị lâm nguy cần được Tôn Hành Giả cứu.

- Có một số vấn đề nội dung giáo dục đức và trí cũng tạo ra một bộ mặt con người nhất thời có giá trị, mà thực ra là kìm hãm sự phát triển nhân cách toàn diện của con người, tù hãm con người. Ðó là nội dung giáo dục sản phẩm của tư duy hữu ngã (nhị nguyên) đầy ước lệ như các khuôn mẫu trung, hiếu, tiết, nghĩa..., và cá giá trị học thuật rất từ chương. Nền văn hóa giáo dục ấy vẫn có khả năng thu hút đông đảo quần chúng, mê hoặc lòng người, nhưng thiếu hẳn giá trị sự thật khách quan của cuộc đời và giá trị nhân bản đích thực. Giá trị của nền văn hóa, giáo dục ấy càn được xét lại. Nói rõ ra, nền văn hóa, giáo dục của xã hội phong kiến Trung Hoa được biểu tượng qua hình ảnh Kim Giốc và Ngân Giốc (biểu trưng cho lưỡng nghi) và năm bửu bối (biểu trưng cho ngũ hành) đã bị đánh bại bởi nền văn hóa, giáo dục nhân bản và trí tuệ của Phật giáo (được biểu tượng bằng hình ảnh Tôn Hành Giả).

Bồ Tát Quán Thế Âm đã mượn năm bửu bối của Thái Thượng Lão Quân và hai tiểu đồng để giàn cảnh vây hãm Tôn Ngộ Không ở động Liên Hoa. Cuộc đọ sức này đã xác định ở đây rằng Tôn Ngộ Không ở động Liên Hoa. Cuộc đọ sức này đã xác định ở đay rằng Tôn Ngộ Không đã thắng điểm tuyệt đối (thật sự là đã Knock-out) Ngân Giốc và Kim Giốc. Không phải Bồ Tát Quán Thế Âm thiếu người và bửu bối mà phải mượn người và bửu bối của Thái Thượng Lão Quân, mà Bồ Tát muốn để cho người đời, và cả Tôn Ngộ Không thấy rõ giá trị của nền văn hóa, giáo dục của Phật giáo (đại diện là Tôn Ngộ Không do Tôn giả Tu Bồ Ðề chỉ dạy) ưu việt hơn nền văn hóa giáo dục của Nho giáo (đại diện là 2 đên tử và năm bửu bối của Thái Thượng Lão Quân). Ðiểm ưu việt thứ nhất là về giá trị nhân bản: con người có khả năng bên trong mỗi người có thể tự vận dụng để giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tự tín và tự lực mà không phải đánh mất mình bằng sự dựa vào sức mạnh b ên ngoài(ngược lại Kim và Ngân giốc dựa vào bửu bối), không để bất cứ sức mạnh nào ở ngoại giới quyết định sinh mệnh mình hay sinh mệnh xã hội mình. Ðiểm ưu việt thứ hai là giá trị về Vô ngã tùy duyên rất thiện xảo, thoát ngoài sự trói buộc của các giá trị cố định của nền văn hóa, giáo dục ước lệ đương thời của Trung Hoa.

Ngô Thừa Ân đã khéo lồng tâm sự và hoài bảo của mình vào tron bốn hồi tiểu thuyết này, và muốn xã hội Trung Hoa chú ý đến mẫu người văn hóa và giáo dục Tôn Ngộ Không được đào tạo từ núi Linh Ðài Phương Thốn (thuộc Linh Thứu sơn, Lôi Âm tự), động Tà Nguyệt Tam Tinh (chữ Tâm) và có kinh nghiệm về Giới và Ðịnh ngang mức độ bấy giờ tại động Liên Hoa.

- Song song với công tác văn hóa và giáo dục để giáo dục con người là công tác xây dựng và phát triển xã hội.

- Ở hồi từ 27 đến 31, Tôn Ngộ Không do thiều tinh tế về mặt vận động tâm trí (trí phương tiện) đã tạo ra sự chia rẽ làm tan rã hàng ngũ. Tại đây, Tôn Ngộ Không đã thức tỉnh, không quá ỷ lại vào sức mạnh của trí tuệ Vô ngã của mình, nên đã khéo vận dụng tâm lý Ðường Tăng và Trư Ngộ Năng tạo nên sức mạnh hợp quần trước khi tiến vào mặt trận xây dựng và phát triển xã hội.

- Tại đây, sau khi có sức mạnh hợp quần, và sau khi sức mạnh của kỷ luật và trí tuệ của tập thể được nâng cao, tập thể còn cần đi từng bước tổ chức khéo léo và hợp lý hợp tình như Tôn Ngộ Không đã khéo léo khắc chế được năm bửu bối, Ngân Giốc, Kim Giốc và các yêu động Liên Hoa.

Ðây là vài điểm cần nắm vững trong toàn bộ kế hoạch xây dựng một nền văn hóa giáo dục mới tại một xã hội cũ đầy thành kiến, định kiến sai lầm về con người và xã hội.

Hồi thứ 36, 37, 38 và 39

Hồi 36: “Tâm Viên đứng đắn thắng cơ duyên

Trừ bỏ đạo tà lòe ánh sáng”

Hồi 37: “Vua quỷ đương đêm cầu trưởng lão

Ngộ Không hóa phép dẫn Hài nhi”

Hồi 38: “Trẻ thơ hỏi mẹ hay tà chính

Kim Mộc thăm dò rõ thực, hư”

Hồi 39: “Một hạt kim đơn xin thượng giới!!!Ba năm vua cũ về dương gian”

- Ở hồi 39, trong đoạn đối thoại giữa Bồ Tát Văn Thù và Tôn Hành Giả về thuyết nhân quả của Phật giáo, tác giả Ngô Thừa Ân đã hơi gượng ép trình bày ra thuyết “tiền định” của Nho giáo không phù hợp với nhân quả Phật giáo - không biết có do sự xen kẽ của các người sao chép đời sau không?! - Tuy thế, cũng không hẳn là hoàn toàn xa nhân quả Phật giáo. thuyết “Tiền định” nói: “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” vẫn có nét na ná với nhân quả Phật giáo, loại định nghiệp.

- Về điểm tác giả trình bày cung Ðâu Suất ở tầng trời Tam Thập Tam, thật ra trời Tam Thập Tam là cõi trời thứ hai của Dục Giới thiên, còn Ðâu Suất là cõi trời thứ tư của Dục Giới thiên. Ðây là một điểm khuyết khuyết nhỏ khác.

- Cũng ở hồi 36, tác giả cho biết rõ thêm rằng: người tu tập giải thoát, hành Bồ Tát hạnh không phải ở đâu trong bất cứ trường hợp nào, việc biểu lộ lòng nhân ái, ôn hòa cũng đúng. Ðối với hạng căn cơ như vị Tăng quan chỉ sợ uy quyền mà xem thường tu sĩ thì phải vận dụng tinh thần “tùy duyên nhi bất biến”, phải thị uy như Tôn Ngộ Không đã ra uy mới nhiếp phục được.

- Câu chuyện con sư tử của Bồ Tát Văn thù xuốn trần gian theo chỉ thị của Ðức Phật là để khai sáng thêm cho phái đoàn Tây du. Ðiểm trí tuệ được khai sáng ấy nhắc nhở Tôn Ngộ Không biết cần phải truyền đạt rõ ràng giáo lý nhà Phật hầu quần chúng có một chánh kiến, chánh tư duy dẫn đến chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng chánh tinh tấn, chánh n iệm và chánh định. đây là trí tuệ về nhân quả minh bạch đề cao các hành động thiện và trừng phạt các hành động ác (như câu chuyện của vua nước Ô Kê, hồi 37 và 38); và trí tuệ nhìn thấy rõ giá trị thực của mỗi hành động của mỗi người; giá trị ấy nằm ở cái thật tâm tác động lên hành động, mà không phải là cái tướng trạng biểu hiện ở bên ngòai của hành động, như hình ảnh vua Ô-Kê thật và vua Ô-Kê giả, Ðường Tăng thật và Ðường Tăng giả. Về tâm đại từ, đại bi cũng thế, luôn luôn ở về phía Giới, Ðịnh, Tuệ (có mặt trong Giới, Ðịnh, Tuệ hay an trú trong Giới, Ðịnh, Tuệ), như Ðường tăng thật chỉ có Ngộ Không, Ngộ Năng và Ngộ Tịnh kết hợp mới nhận ra. Vua Ô-Kê giả dù có có pháp thuật biến hóa ra một Ðường Tăng giống hệt về thân hành, khẩu hành thì chân tướng của tâm (ý hành) cũng không thể nào giấu được cái hư giả của nó (vì không biết niệm chân ngộ “khẩn cô nhi”). Mọi thiện nghiệp, ác nghiệp ở đời đều căn cứ vào ý hành mà thẩm định giá trị, như chỉ có hoàng hậu thật của vua Ô-Kê mới có thể nhận ra vua Ô-Kê nào thật hay là giả.

- Trong vấn đề giáo dục con người, cần có kỹ thuật giáo dục cho phù hợp với từng loại tâm lý, tính tình. Kỹ thuật giáo dục này áp dụng linh động cho từng trường hợp cho từng cá nhân khác nhau. với vị Tăng quan (hồi 36) chỉ sợ quyền lực thì cần ra uy để nhiếp. Với vị này, ngôn ngữ và thái độ lịch nhã của Ðường Tăng không đem lại hiệu quả; có khi còn phản tác dụng.

- Giá trị của hành động đạo đức của con người xã hội cần dựa vào tâm chủ động tắc động trên hành động để đánh giá, như phải dựa vào cái tâm cái tình của vua Ô-Kê thật để phân biệt vua Ô-Kê nào là thật, vua Ô-Kê nào là giả, Ðường Tăng nào là thật, Ðường Tăng nào là giả. Nếu tiêu chuẩn giá trị của giải thoát là lòng đại bi và Giới, Ðịnh, Tuệ thì tiêu chuẩn giá trị đạo đức của xã hội phải dựa vào cái tâm thiện, chân thật vì lợi ích, an lạc, hạnh phúc của số đông, như phải dựa vào tấm chân tình của hoàng hậu Ô-Kê để phân biệt vua Ô-Kê thật, giả.

- Cơ sở của đạo đức hay thiện, ác của con người cần dựa vào luật tắc tự nhiên của nhân quả, nghiệp báo: điều thiện là điều phải làm, cần làm cho mình và người vì nó sẽ đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình và người trong hiện tại và tương lai. điều ác thì ngược lại. Hành động đạo đức phải là hành động phát xuất từ tâm tự nguyện của mỗi người và từ chính nhận thức và ý chí muốn làm của người ấy, mà không phải vì bị áp đặt hay vì nhân danh một thế lực nào từ bên ngoài. Ðây là hướng đạo đức nhân bản, theo đó, các quy ước về hiếu, trung, tình, nghĩa, đễ... của văn hóa Trung Hoa đương thời cần được xét lại giá trị.

- Các giá trị đạo đức, luật pháp của một xã hội cần được thiết lập lại theo hướng văn hóa giáo dục nhân bản và trí tuệ. Theo đó tinh thần trách nhiệm cá nhân được đề cao làm cơ sở để thi hành luật pháp nghiêm minh. Thiếu tinh thần trách nhiệm cá nhân thì luật pháp sẽ không có cơ sở vững chắc để thi hành, xã hội sẽ đại loạn. Cần cai trị bằng luật pháp mà không phải bằng uy quyền của nhà vua, hay bằng hình phạt do nhà vua tùy tiện đặt ra để củng cố ngai vàng. Tinh thần trách nhiệm này nằm gọn trong giáo lý nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo.

- Giáo lý nhân quả nghiệp báo được soi sáng bằng trí tuệ Vô ngã sẽ là cơ sở đạo đức cho con người và xã hội. Con người có thể trốn chạy pháp luật để đi vào các hành động sai lầm gây xáo trộn các tổ chức xã hội, nhưng con người không thể chạy trốn lương tâm mình, không thể trốn khỏi sự thật nhân quả. Giáo lý nhân quả, nghiệp báo vì vậy sẽ hữu hiệu hướng dẫn con người vào đời sống lương thiện vì lợi ích của bản thân, và sẽ giúp xã hội gìn giữ công bằng, thi hành luật pháp nghiêm minh.

Biểu hiện của các hành động và kết quả việc làm của con người trong xã hội là quan trọng, nhưng thực chất giá trị của hành động vẫn nằm trong cái tâm thiện, đạo đức (được trí tuệ soi sáng) chủ động hành động. Giá trị sống này sẽ là nhân tố dựng nên một nền văn hóa giáo dục nhân bản và thiết thực - như vừa đề cập ở phần quan niệm về con người. Nhà lãnh đạo xứ sở cần được chính danh: có đủ tài, đức và tinh thần trách nhiệm, như là Tôn Ngộ Không đã đưa vua Ô-Kê thật trở về lại ngai báu. Nhà lãnh đạo có xứng đáng thì các cộng sự mới xứng đáng tương xứng, nhân dân mới sống hiền thiện và có nơi nương tựa tốt đẹp và vững chắc. Nhân dân an cư lạc nghiệp thì xã hội mới hưng thịnh. Phải chăng đây là tâm sự, thao thức về một xã hội Trung Hoa tốt đẹp của Ngô Thừa Ân đã được lồng vào các hồi truyện 36, 37, 38 và 39?


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx