sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bên giòng lịch sử - Chương 17 - Phần 2

Những điều đó không làm cho tôi vui mừng, vì càng theo dõi kĩ càng thấy nước Pháp coi nặng vấn đề quân sự trên chính trị và tin tưởng vào đoàn quân viễn chinh Pháp, nhất là sau những chiến thắng dễ dàng và rực rỡ của đoàn quân tướng Leclerc ở Nam bộ.

Chỉ trong vài tháng, tướng Leclerc gần như tiêu diệt trọn các đơn vị Việt Minh, đẩy tướng Nguyễn Bình vào vài mật khu sát biên giới Việt-Miên-Lào và bắt đầu thu phục được các lực lượng giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo hay ít ra làm cho các lực lượng này tách rời khỏi phong trào Việt Minh.

Nhưng cái chết của tướng Leclerc trong năm đó làm cho hi vọng chiến thắng bằng quân sự của Pháp ở Việt Nam đen tối dần.

Vào khoảng tháng 4 năm 1947, tôi có nghe tin chính phủ Pháp cử một đặc sứ gặp Hồ Chí Minh: ông Paul Mus, một giáo sư và một nhà văn nổi tiếng, tiến bộ, quen biết với Hồ Chí Minh và nhiều nhân vật Việt Minh.

Chúng tôi - những Việt kiều ở Pháp lại cố bám vào một hi vọng mong manh. Nhưng hi vọng đã tan vỡ ngay chỉ ít lâu sau, khi ông Paul Mus trở về và trong một vài tiết lộ của Pháp, cho biết rằng những điều kiện của chính phủ Pháp được coi như căn bản của giải pháp mà Pháp trao cho Hồ Chí Minh, là một đòi hỏi Việt Minh phải đầu hàng vô điều kiện trước khi thương thuyết thượng đỉnh giữa Hồ Chí Minh và Léon Blum.

Trong văn thư của Léon Blum mà ông Paul Mus trao tay cho Hồ Chí Minh có khoản buộc mọi lực lượng vũ trang của Việt Minh phải giải giới tập trung vào những khu chỉ định, trao quyền bảo vệ an ninh trật tự toàn cõi Việt Nam cho quân đội. Theo sự bàn tán ở Ba-Lê lúc đó thì sở dĩ chính phủ Léon Blum thời bấy giờ có hành động này chẳng qua là để xoa dịu những yêu sách của Khối Cộng sản và Đảng Xã hội Pháp mà không thực tâm muốn thương thuyết với cụ Hồ.

Bấy giờ thì tôi thấy rõ không còn chút hi vọng gì về một nền hòa bình cho Việt Nam bằng các cuộc thương thuyết. Chiến tranh thì càng ngày càng khốc liệt hơn và bên Tàu, quân Mao Trạch Đông đang tiến dần xuống phía Nam, chính phủ Tưởng Giới Thạch bắt đầu gặp những cuộc khủng hoảng kinh tế và tiền tệ trầm trọng.

Tôi còn nhớ vào khoảng đầu năm 1947, ít lâu sau khi phái đoàn Marius Moutet và tướng Leclerc từ Hà Nội trở về Ba-Lê và sứ mạng của Giáo sư Paul Mus thất bại, một giai thoại được truyền tụng trong chính giới Pháp, tướng Leclerc và ông Bộ trưởng Marius Moutet lúc đến Hà Nội, đã được mật vụ Pháp cho biết tin Hồ Chí Minh và tổng bộ hiện đang trốn tại một vùng rừng núi trong tỉnh Tuyên Quang. Đại tá Debes, tướng Salan đề nghị tổ chức một cuộc hành quân nhảy dù đột kích vào nơi đó, trong lúc bề ngoài lên tiếng chấp nhận thương thuyết trở lại với cụ Hồ và như thế có nhiều hi vọng bắt trọn bộ tham mưu Việt Minh.

Đô đốc D’argenlieu, tuy đã từ chức nhưng vẫn còn giữ quyền cao ủy Pháp tại Sài Gòn, tướng Moliere, tư lệnh quân Pháp tại Hà Nội đều tán thành kế hoạch này. Riêng tướng Leclerc nhất định phản đối. Ông nói rằng danh dự nước Pháp không cho phép quân đội Pháp hành động như vậy, ông gọi đó là hành động đê tiện mà nước sông Seine không rửa sạch được (C’est une perfidie que toute L’eau de làSeine nè peut laver!).

Bộ trưởng Moutet thì nói rằng một chính phủ xã hội (Thủ tướng Léon Blum) được thành lập để tìm giải pháp hòa bình cho Việt Nam không thể hành động như một bọn thảo khấu, bất chấp danh dự, bất chấp lương tri. Tướng Leclerc muốn đích thân gặp cụ Hồ, như lời đề nghị riêng của cụ Hồ, bất cứ nơi nào mà cụ Hồ chỉ định và tự đặt trong sự bảo vệ an ninh của cụ Hồ, với điều kiện ông được chính phủ Pháp trao toàn quyền giải quyết vấn đề Việt Minh và toàn quyền kí kết các văn kiện thay mặt chính phủ Pháp.

Nhưng các đảng hữu khuynh như MRP và cả đa số Đảng Cộng sản và Xã hội Pháp không chấp nhận điều kiện của tướng Leclerc, vì hầu hết mọi người Pháp đều đinh ninh rằng cụ Hồ đã mất hết uy quyền trong tổng bộ Việt Minh, bị nhóm hiếu chiến và thân Mao Trạch Đông (lúc bấy giờ đã chiếm quá nửa Trung Hoa lục địa) như Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu thao túng và bao vây cụ Hồ. Chỉ có ba nhân vật trong chính quyền Pháp là ông Moutet, tướng Leclerc, ông Jean Sainteny là những kẻ hiểu rõ uy thế và tài năng của cụ Hồ, tỏ ý tin tưởng rằng trong mọi trường hợp, cụ Hồ vẫn là lãnh tụ được tuân phục của phong trào Việt Minh.

Những nhân vật Pháp đã giết chết mọi hi vọng tái lập hòa bình Việt Nam bằng thương thuyết, ngoài Đô đốc D’argenlieu và hai cận thần của ông ta là Leon Pignon và Torel, còn có các tướng lãnh Pháp như tướng Moliere, Valluy. Giữa lúc giải pháp thương thuyết ở Việt Nam được chính phủ Pháp coi như không thực tế thì nước Pháp lại vướng vào những phong trào nổi loạn giành độc lập ở nhiều thuộc địa: Madagascar, Maroc, Tunisie … Tướng De gaulle tuy đã rời chính quyền, nhưng uy thế của ông vẫn rất lớn, lại đưa ra một thông cáo ý nghĩa hết sức mập mờ nói rằng người Pháp nào làm cho nước Pháp mất đi một lãnh thổ hải ngoại Pháp, sớm muộn phải bị xét xử trước tòa án tối cao. Ông Bollaert, vốn là một thuộc hạ thân tín của tướng De Gaulle trong thời kì kháng chiến chống Đức, nhất định là phải “khớp” trước lời cảnh cáo nghiêm khắc của tướng De Gaulle, cho nên đã lúng túng trong việc quyết định tìm một giải pháp thương thuyết với cụ Hồ.

Vào khoảng đầu năm 1947, quyết định về nước của tôi đã dứt khoát, nhưng tôi muốn hiểu thêm trách nhiệm cũng như vai trò của một người công giáo, của một linh mục công giáo đối với số phận đất nước mình. Tôi thu xếp đi La Mã cùng với các cha Mai, cha Khiết, cha Bồng và xin yết kiến Đức Giáo hoàng. Chúng tôi lên đường vào khoảng tháng tư hay tháng năm. Chúng tôi đáp xe hỏa từ Ba-Lê sang Ý. Những dấu tích của chiến tranh vẫn chưa xóa hết dọc đường xe hỏa. Những cầu cống đường sá vừa sửa chữa còn những dấu vết của bom đạn.

Hai bên đường những nhà cửa bị tàn phá vẫn chưa tái thiết hết được. Càng nhìn cảnh tàn phá do chiến tranh gây nên ở Âu châu, tôi lại càng lo sợ buồn phiền cho đất nước mình đang lâm cảnh chiến tranh không biết bao giờ mới thoát ra được.

Các cha giao hết cho tôi trách nhiệm và vinh dự hầu chuyện với Đức Thánh Cha. Đến La Mã vào buổi chiều chúng tôi tìm đến một nơi tạm trú dành cho các linh mục từ xa đến, nghỉ tạm một đêm. Chúng tôi đã gửi thư xin yết kiến Đức Thánh Cha lên Bộ Truyền giáo của tòa thánh Vatican từ trước, nên trong ngày đó, chúng tôi đến gặp Đức Hồng Y và lấy giấy giới thiệu. Được biết Đức Thánh Cha đang nghỉ mát tại biệt điện Castel Gondolpho, hôm sau chúng tôi đi xe buýt đến nơi đó, vào lúc 8 giờ. Chúng tôi được một lính hầu thường được gọi là Garde Suisse, phục sức như lính thời Trung Cổ dẫn qua nhiều dãy phòng, nhiều hành lang. Tại mỗi phòng đều có một đức ông. Chúng tôi được dẫn vào phòng một Hồng Y phụ trách việc tiếp khách của Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y cho biết là phái đoàn chúng tôi những bốn người và thường thì trong trường hợp này, Đức Thánh Cha tiếp trước cửa văn phòng của ngài.

Chúng tôi ngồi trong phòng Đức Hồng Y phụ trách nghi lễ và tiếp khách một lúc. Chúng tôi được dặn dò những cách thức quỳ lạy hôn tay Đức Thánh Cha.

Một lát sau, chúng tôi được dẫn đến cửa văn phòng Đức Thánh Cha. Lính hầu mở rộng cánh cửa và từ trong văn phòng, Đức Thánh Cha bước ra nhìn thẳng vào chúng tôi, mỉm cười hiền từ. Ngài mặc y phục trắng tinh, phủ tận chân. Chúng tôi theo đúng nghi lễ triều yết Đức Thánh Cha, quỳ lạy và hôn tay Đức Thánh Cha Piô XII có vẻ mặt nghiêm nghị nhưng hiền từ, nhìn bốn chúng tôi và nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng Pháp:

- Cha yêu mến dân tộc Việt Nam của chúng con nhiều lắm và cha rất sung sướng gặp các con. Cha còn nhớ một người Việt Nam hiền đức mà cha thương mến, là đức Nam Phương hoàng hậu. Cha gặp bà trước đây, trước đệ nhị thế chiến, khi bà mới kết hôn với hoàng đế của chúng con. Các con có tin tức gì về hai người đó không?

Chúng tôi trình Đức Thánh Cha những tin mà chúng tôi biết về hoàng đế Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương.

Chúng tôi cũng chẳng biết gì về gia đình vương giả đó và những tin chúng tôi biết chỉ qua tin đồn. Hoàng đế Bảo Đại thì đã thoát sang Hồng Kông và hoàng hậu Nam Phương nghe đâu còn ẩn nấp tại một nhà dòng ở Huế (Dòng Chúa cứu thế -- Huế).

Tôi trình Đức Thánh Cha những thắc mắc của tôi, của những người công giáo và nhất là của những linh mục công giáo trong tình thế mới:

- Kính tâu Đức Thánh Cha, chúng con muốn xin Đức Thánh Cha soi sáng cho chúng con một vài niềm băn khoăn. Hiện nay bên nước Việt Nam của chúng con có một phong trào đang nổi lên giành độc lập, đánh Pháp. Phong trào Việt Minh như một làn gió mạnh thổi từ Nam chí Bắc, nung nấu tâm trí mọi người Việt Nam, nhưng chúng con biết rằng phong trào đó đã bị cộng sản chi phối, mặc dầu mục tiêu đấu tranh của nó là mục tiêu chung của độc lập Việt Nam chúng con. Chúng con là người công giáo lại là linh mục công giáo, chúng con không biết nên có thái độ như thế nào trước phong trào này.

Đức Thánh Cha có vẻ trầm ngâm, nghĩ ngợi một phút, giọng ngài chậm rãi, từ tốn, dè dặt:

- Cha biết rằng những người công giáo Việt Nam đang làm bổn phận người yêu nước của họ.

Tôi nhớ rõ nguyên văn câu nói bằng tiếng Pháp của Đức Thánh Cha: (Nous savons que les catholiques Annamites font leur de voir patriotes).

Sau câu nói đó, Đức Thánh Cha im lặng nhìn chúng tôi, ánh mắt có vẻ nhiều buồn phiền, đau thương xót xa. Ngài ban phép lành cho chúng tôi và theo lệ thường, gửi phép lành về cho những người thân, cho đất nước chúng tôi. Câu nói của Đức Thánh Cha làm tôi suy nghĩ mãi từ đó không dứt. Câu nói có thể hiểu nhiều cách, không chê trách, không bắt buộc, không dạy bảo phải hành động như thế này hay thế kia, mà để toàn quyền lựa chọn và quyết định cho người trong cuộc. “Những người công giáo Việt Nam chỉ làm bổn phận người yêu nước.” Khi họ theo Việt Minh, dù biết Việt Minh là cộng sản, khi họ chiến đấu chống Pháp, họ cũng làm bổn phận người yêu nước.

Tôi cảm thấy như trút được gánh nặng. Giáo hội không lên án người công giáo Việt Nam làm bổn phận người yêu nước. Quyền lựa chọn và quyết định là ở mọi người. Và riêng tôi đã có sự lựa chọn, quyết định. Tôi không thể dửng dưng, đứng ngoài, trốn tránh cuộc chiến tranh máu lửa trên đất nước tôi. Tôi phải về nước, mặc dù chưa biết sẽ làm gì, sẽ làm được gì.

***

Chương 18

18. Nhìn cảnh trâu cày mắt rưng lệ.

Tháng tám 1947, nghĩa là vài tháng sau khi yết kiến Đức Thánh Cha, tôi cùng mười lăm cha Việt Nam khác lên tàu Felix Roussel về nước. Tàu lênh đênh hai mươi mốt ngày trên biển cả. Mỗi ngày qua đi, tôi lại thấy lòng thương nhớ nước Việt Nam lớn thêm, những bồn chồn mong đợi và lo sợ cũng tới theo. Những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, chờ đợi nước Việt Nam chúng tôi trong những ngày tới? Khi tàu ghé qua một vài bến ở Phi châu, tôi và vài cha có lên thăm các thành phố xứ người cho khuây khỏa. Hình ảnh nước Pháp hùng mạnh càng hiện rõ hơn, nhưng bóng dáng những nứt rạn, những lúng túng của nước Pháp, của đế quốc Pháp cũng đã bắt đầu nổi lên tại các xứ thuộc địa Pháp này rồi. Tôi tin tưởng gần như chắc chắn là nước Pháp sẽ phải thanh toán các thuộc địa của họ. Điều đáng lo sợ là cái cách thanh toán đó, có bao nhiêu dân tộc nhỏ bé bị nghiền nát, bị hi sinh?

Tàu đến Cap St Jacques dừng lại một đêm ngoài cửa sông chờ người cầm lái. Sáng hôm sau, tàu ngược dòng sông lên Sài Gòn.

Chúng tôi đứng trên boong tàu nhìn vào hai bên bờ sông từ khi tàu vào sông cho đến lúc tàu cập bến, những đám ruộng lúa bắt đầu hiện ra. Vài con trâu đủng đỉnh gặm cỏ trên bờ ruộng. Tự dưng mắt tôi ươn ướt và tôi đã khóc thầm lặng không biết từ lúc nào. Nhìn sang các cha bên cạnh, một vài người Việt Nam bên cạnh, cũng đang rưng rưng nước mắt. Nhưng không phải là nước mắt đau thương mà là nước mắt sung sướng vinh dự được trở về quê hương mình sau tám năm cách biệt. Mặc dầu báo chí đã cho tôi thấy những cảnh chiến tranh tàn bạo nhưng lúc tàu ngược dòng tôi chỉ thấy cảnh thanh bình, yên ổn hết sức. Những lũy tre, những rặng dừa, những thửa ruộng, những đàn trâu bò, những đứa bé chăn trâu, vài đoàn người đi trên bờ ruộng. Tất cả đều có vẻ thanh bình kì lạ.

Chúng tôi được một đại diện Đại Chủng viện Sài Gòn ra Bến Nhà Rồng đón tiếp và chúng tôi về ngay Đại Chủng Viện ở đường Cường Để bây giờ. Các cha khác, tùy gốc địa phận, chờ tàu trở lại địa phận của họ. Riêng tôi thì chờ tàu ra Hải Phòng để tìm cách về địa phận Vinh.

Khoảng vài tuần sau, tôi mua được vé tàu thủy ra Hải Phòng. Cảnh Vịnh Hạ Long hùng tráng, sừng sững nổi lên trên mặt nước, với vài chiếc thuyền buồm, vài chiến hạm Pháp, tuy đồ sộ mà so với cảnh thì thật là bé nhỏ vô nghĩa, càng làm tôi yêu mến đất nước mình hơn.

Lúc tàu cập bến Hải Phòng, cảnh chiến tranh bắt đầu hiện ra trước mắt. Những dấu vết của vụ bắn phá Hài Phòng cuối năm 1946 vẫn còn nguyên vẹn.

Dân Việt Nam ngoài bến tàu ra thì rất thưa thớt. Chỉ có những khu phố của người Tàu và người Pháp là còn có vẻ đông đúc, thịnh vượng. Vừa bước lên bến tàu tôi đã biết ngay thế nào là nỗi nhục của một người dân nước nhỏ bị trị. Đáng buồn nhất, là chính một người Việt Nam nhắc nhở cho tôi cái nhục này.

Tôi đến phòng nhà đoan để khai giấy tờ. Trên phiếu khai bằng tiếng Pháp, nơi dòng ghi quốc tịch, tôi viết thật đậm nét hai tiếng: Việt Nam.

Người thư kí nhà đoan gạch hai chữ đỏ, nhìn tôi trâng tráo hỏi:

- Cha người Cochinchinois, Annamites hay Tonkinois? Tôi trừng mắt nhìn người thư kí nhà đoan, gắt giọng:

- Tôi người Việt Nam.

Người thư kí nhà đoan cau mày, mấp máy như sắp gắt gỏng với tôi, rồi chẳng hiểu sao lại mỉm cười, giải thích dài dòng:

- Xin lỗi cha, lệnh quan trên bây giờ bắt buộc mọi người lên bến phải khai rõ là người Cochinchinois, Annamite du Centre, hay Tonkinois. Cha hiểu cho, đó chỉ là bệnh quan trên, chúng tôi có muốn bắt ép ai làm gì đâu.

Tôi chán ngán đau đớn:

- Quê tôi ở Hà Tĩnh, thầy ghi sao đó cũng được. Người thư kí nhà đoan viết nắn nót: Annamite du Centre. Tôi chua xót vì hiểu ra âm mưu định gây chia rẽ Nam Bắc trở lại của người Pháp. Mình không được quyền làm người Việt Nam nữa. Mình phải bị bắt buộc làm người Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Người Pháp muốn có ba nước Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ!

Tôi lên ngay Hà Nội.

Đường xe lửa đã được tái lập ngay sau khi Pháp tái chiếm Hà Nội. Xe chạy thật chậm chạp, có lẽ chỉ khoảng năm chục cây số một giờ hay kém hơn. Từ cửa sổ toa xe lửa nhìn ra ngoài, những làng mạc hoang tàn, những khu nhà bị đốt cháy còn trơ nền, những nhà gạch đổ nát cho tôi biết chiến tranh đã là một sự thật mà từ đây tôi phải làm quen, phải hòa mình vào. Tôi đến ở tại nhà Chung Hà Hội, nơi tôi đã từng sống ít lâu trước khi đi Pháp. Tôi bắt đầu làm quen lại với văn chương Việt Nam. Tôi đọc hầu hết những sách của Tự lực Văn đoàn. Khi hay tin tôi về nước, một số người Việt ở Pháp và những người biết tiếng tôi đôi chút lần lượt đến thăm, thỉnh thoảng mời tôi đến nhà họ chơi.

Tôi nhớ hình như người đầu tiên mà tôi gặp là Hoàng Bá Vinh còn được người công giáo trong địa phận Vinh gọi là ông già Vinh. Tôi xin đóng một dấu ngoặc ở đây: ông già Vinh được gọi như thế không phải vì ông nhiều tuổi, mà vì ông từng học ở Đại Chủng viện ra và gần thụ phong linh mục, thì vì một lí do nào đó bỏ dở con đường tu hành.

Đối với những người đó, người công giáo địa phận Vinh gọi là “ông già” để tỏ ý kính trọng một chút.

Hoàng Bá Vinh lúc bấy giờ cầm đầu một nhóm thanh niên trẻ, hăng say lí tưởng, phần lớn người công giáo đầy lòng yêu nước, tuy không theo Việt Minh, nhưng nhất quyết không hợp tác với Pháp, đang hoạt động cho một giải pháp quốc gia thuần túy.

Lãnh tụ được tôn thờ nhất là ông Ngô Đình Diệm. Trong này có anh Nguyễn Văn Châu, người Quảng Bình, về sau làm trung tá giám đốc nha chiến tranh tâm lí, một thời được ông Diệm tin cậy. Ngoài ra, nếu tôi nhớ không lầm thì có một anh chàng cao lớn, hơi gầy, đen, liều lĩnh, thật thà, là anh Hoàng Bá Linh.

Không rõ lúc đó anh đã đi học trường Hạ sĩ quan Pháp hay chưa, hình như là chưa thì phải.

Hoàng Bá Vinh gặp tôi rất thường và những lúc đó tôi với anh ta bàn về tình hình đất nước, nói đến những niềm hi vọng của mọi người Việt Nam, của những người công giáo yêu nước.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx