sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 3

Cọng sắt ngời sáng trong tay Sơn, phiến đá mài đã phủ đầy bụi kim khí óng ánh. Sơn vuốt nhẹ cọng sắt, nghe nóng lên như da thịt của chính mình. Sơn giắt thử vào thắt lưng, rồi đứng dậy, Sơn mỉm cười. Ta sắp thành một Kinh Kha hay một tráng sĩ nào đây? Sơn đấm mạnh vào không khí, tưởng như có tên thanh niên con ông Bá Huê trước mặt. Sơn thu tay về, rút cọng sắt ra, và phóng vào cây chuối. Phập! Cọng sắt dài hai tấc đã lút gần hết vào thân cây chuối. Cùng với lúc Sơn cất giọng cười khoái chí, Sơn nghe một tiếng rú nhỏ đàng sau lưng.

Sơn quay lại. Thảo Giang! Cô bé đang ôm lấy cột cửa, mặt tái xanh. Sơn ngạc nhiên một chút, rồi vội vàng chào hỏi:

- Thảo Giang qua chơi à?

Cô bé chưa hết run sợ, nói:

- Dạ.. Anh Sơn làm gì ghê quá vậy?

- À, à… tôi tập phóng dao.

Rồi Sơn bước tới rút cọng sắt ra khỏi thân chuối, đưa ra trước mặt. Thảo Giang rùng mình, nói:

- Đâu phải con dao! Cái dùi…

Sơn sáng mắt lên:

- Ừ đúng rồi, cái dùi! Cái dùi!

Thảo Giang nhìn Sơn, lộ vẻ thắc mắc. Sơn vuốt tay trên cái dùi, nói:

- Nó chỉ là cọng sắt nhỏ, nhưng được mài rồi, thành cái dùi. Thảo Giang biết tôi mài nó trong bao lâu không? Ba ngày đó!

- Để làm chi vậy?

- Để tôi…

Sơn định nói tiếp, rằng để tôi giắt ở trong lưng, để tôi có thể ung dung đi lên cầu, đi thăm dòng sông của tôi. Để tôi có thể ra đồng mà không phải đội nón che bớt mặt. Để tôi có thể sang thăm bác và Thảo Giang mà không sợ ai dòm ngó. Để tôi gặp thằng con ông Bá Huê, tôi trị tội hắn… Nhưng nhìn thấy đôi mắt Thảo Giang hiền dịu quá, Sơn không nói nữa. Sơn chỉ là một đứa bé. Thảo Giang cũng chỉ là một đứa bé. Cả hai đều lớn lên ở thôn làng này. Hai gia đình biết nhau từ con rạch này. Chưa có cha mẹ ai dạy con sự thù hằn cả. Sơn nghĩ thế rồi đem cái dùi cùng phiến đá mài cất vào góc bếp.

Thảo Giang đứng ở ngưỡng cửa, dáng nhỏ nhắn như một con mèo. Khi Sơn quay ra, Thảo Giang hỏi:

- Anh Sơn, chiều nay anh không ra sông hở?

Sơn đứng thẳng người, thở dài:

- Không. Từ bữa đó, tôi đã không còn lên cầu nữa.

- Thảo nào…mỗi chiều Giang không thấy anh ở đó.

- Thảo Giang vẫn đến nhà thầy đồ?

- Dạ.

- Thầy tôi hết bệnh chưa?

Thảo Giang lắc đầu:

- Dạ… Thầy vẫn vậy, không thuyên giảm.

Sơn ngồi xuống một thân cây chuối mới đốn, nói:

- Thảo Giang qua đây, có xin phép bác gái chưa?

- Dạ rồi. Mẹ Giang nói Giang qua thăm bên này, cám ơn anh đã…

- Đừng, Thảo Giang! Tôi không phải là hiệp sĩ. Tôi cũng nhát gan như bao đứa con trai khác.

Thảo Giang lộ vẻ xúc động, giọng cô bé run run:

- Hôm ấy nếu không có anh Sơn, chắc Giang chết mất.

Sơn cười nhẹ:

- Tôi còn nhiều điều băn khoăn chưa hiểu… Nếu Thảo Giang không ngại gì, Thảo Giang ngồi chơi, cho tôi hỏi…

- Dạ…

Thảo Giang ngồi xuống ngưỡng cửa, e dè xoắn xoắn vạt áo nâu. Chiếc khăn xanh không có ở trên cổ.

Lặng yên một lúc, rồi Sơn nói:

- Có thật ông Bá Huê… muốn biếu nhãn cho bác gái hôm đó không?

Thảo Giang gật đầu

- Thật. Mẹ Giang bệnh, Giang đến xin ông Bá cho mẹ nghỉ cấy. Ông ấy tỏ vẻ lo lắng lắm, bảo Giang chiều đó tới vườn, ông cho trái cây. Giang không bao giờ muốn nhận nhưng ông Bá nói như vậy là phải tội. Giang đến đó, không ngờ chỉ gặp tên Hộ con của ông ấy thôi.

Sơn nhíu mày:

- Ông ta có thâm ý gì?

Thảo Giang cúi đầu đáp nhỏ:

- Ông Bá muốn mẹ Giang… gả Giang cho tên Hộ…

- À ra thế!

Sơn thốt lên rồi lặng im, đưa tay hờ hững nhặt mấy cọng rơm vương vãi trên đất. Sơn nghĩ đến cái dùi, mới mài có ba ngày… Sơn buồn cười cho cái sự trẻ con của mình. Dễ dầu gì Sơn dám đối diện với tên Hộ, nói chi đến chuyện dùng cây dùi để tấn công hay hăm dọa hắn. Người lớn khôn ngoan hơn, đã nói chuyện với nhau trước rồi.

Khi Sơn ngước lên, thấy Thảo Giang đăm đăm nhìn ra phía ao nhỏ. Đôi mắt Thảo Giang buồn rười rượi. Sơn bồi hồi hỏi khẽ:

- Này Thảo Giang, bác bên nhà … có bằng lòng không?

- Bằng lòng việc gì?

- Thì… thì việc tên Hộ đó.

- Giang còn nhỏ, mẹ Giang chưa tính gì hết. Mà nếu có, thì cũng không phải là với thằng cha nham nhở hôm ấy.

- Bác gái không sợ ông Bá Huê dùng thế lực để ép buộc sao?

Thảo Giang rắn giọng lại:

- Cha của Giang đã dặn… không bao giờ làm thân với gia đình ông Bá Huê.

Sơn giật mình, chợt nhớ đến cha của Thảo Giang. Người nông dân hiền lành ít nói ấy, sau hôm hoàn thành cây cầu đã bỏ nhà đi biệt. Sơn muốn hỏi Thảo Giang về sự việc khó hiểu ấy. Nhưng đôi mắt u uẩn kia như sa sầm hẳn lại, như không muốn nói thêm một điều gì nữa.

Thảo Giang đứng lên, sửa lại vạt áo, nói:

- Nhưng chuyện đó không quan trọng bằng chuyện sắp tới đây.

- Chuyện gì vậy Thảo Giang?

- Bác của Giang trở bệnh nặng lắm. Hôm nay bác muốn gặp tất cả những người học trò.

Sơn hoảng hốt:

- Thật vậy sao? Tôi phải đến thăm Thầy ngay.

- Anh Sơn, nhờ anh nói giùm với các anh khác nhé.

- Được rồi. Thảo Giang cũng sẽ qua đó chứ?

- Dạ. Mẹ Giang bảo tối nay Giang ở lại bên bác để sắc thuốc. Lương y nói… chắc là bác không qua khỏi đêm nay.

- Vậy Thảo Giang đến Thầy trước nhé! Tôi đi gọi mấy anh bạn rồi sẽ đến sau.

Thảo Giang “dạ”, rồi chào Sơn để đi. Còn lại một mình Sơn trong sân vườn, Sơn lại nghĩ đến cái dùi, nghĩ đến cảnh nhàn rỗi của mình bao ngày nay. Thầy đồ sắp chết! Cái hình ảnh thần tượng to lớn của Sơn đã lu mờ từ mấy tháng nay, bây giờ lại sắp biến mất. Thầy đồ chết, bọn Sơn sẽ không còn ai dạy dỗ cho dăm mớ chữ nghĩa, hòng đi thi Hương, thi Hội. Sơn sẽ hoàn toàn là một nông dân, sẽ lớn lên và nối tiếp cuộc sống của ông cha. Sơn sẽ như Tùng, như Huệ, như Đại… mãi mãi là những người thấp cổ bé miệng. Có phải đời sống đã sắp bày như thế rồi chăng?

Sơn sửa lại quần áo cho chỉnh tề, khép cửa lại, cài then, rồi ra khỏi cổng nhà. Trời bây giờ đã nhá nhem tối. Tiếng ễnh ương kêu vang dưới những rãnh nước như bao ngày vẫn đều đặn hòa điệu buồn chốn thôn quê.

° ° °

Nhà thầy đồ ở tận xóm trên. Khi Sơn cùng ba người bạn vào đến cửa, đã thấy ngọn đèn dầu được thắp sáng trong nhà. Mảnh sân vuông lúc trước dùng làm nơi học hành của bọn trẻ, bây giờ vắng ngắt, trơ trơ mấy chậu kiểng xơ xác. Bốn người bước vào nhà, đã thấy có sáu, bảy người học trò nữa đứng ngồi bên giường của thầy đồ. Chén thuốc để trên bàn còn đầy, nhưng cái cơ thể dẹp lép của người nằm trên giường như không còn cần đến sức sống.

Nước mắt Sơn dâng đầy tròng. Sơn bước tới, khe khẽ quỳ bên chân giường. Đôi mắt thầy đồ nhắm kín lại như người ngủ say, nhưng những nhịp thở đứt quãng, mệt nhọc chứng tỏ thầy đang gắng sống những giây phút quý giá nhất.

Thầy đồ cựa mình, mở đôi mắt trắng đục một lát rồi hỏi thều thào:

- Ai đây?

Sơn cầm lấy bàn tay của thầy, run run nói:

- Thưa thầy, Sơn đây ạ.

- Đứa nào nữa?

- Thưa thầy, có anh Tùng, Huệ và Đại.

Người bệnh cố gắng nhấc đầu dậy để nhìn kỹ mấy người học trò, nhưng rồi phải nằm trở lại để thở dốc. Sơn thấy se thắt cả lòng, vừa vuốt ngực cho thầy, vừa ứa nước mắt. Cái cảnh này, Sơn đã thấy cách đây ba năm, khi cha của Sơn lâm bệnh. Người nông phu chết đi, để lại cho vợ con một mảnh vườn nhỏ và ngôi nhà xiêu vẹo. Cái cày và con trâu, theo công nợ mà bán cho người. Mẹ con Sơn phải đi cấy mướn. Nay nhìn thầy đồ nằm thoi thóp, Sơn tự hỏi thầy sẽ để lại gì cho bọn học trò nửa đường này? Cái ước mơ làm kẻ sĩ chắc sẽ tàn lụi theo ngày tháng. Sơn thương thầy, nhưng cũng nghe thương thân, Sơn muốn khóc ròng như một đứa bé.

Đại cất tiếng khẽ:

− Thưa thầy, xin thầy rán uống miếng thuốc…

Thầy đồ xua tay, cười héo hắt:

- Khỏi con! Thầy không còn sống bao lâu nữa… Chắc sẽ không qua khỏi đêm nay.

Đám học trò có người khóc tấm tức. Thầy đồ thở dài:

- Gặp mặt đông đủ các con đây, thầy vui mừng lắm… Nhưng lại thương các con làm sao! Thầy chưa mãn nguyện vì… Thầy còn thiếu trách nhiệm với các con.

Sơn lại vuốt ngực cho thầy, nói:

- Thưa thầy, con xin thầy nằm nghỉ.

- Thầy còn khoẻ lắm các con ạ. Thầy muốn nói với các con rằng… thầy rất ân hận vì đã không dìu dắt các con đến nơi đến chốn. Xóm làng ta chưa có ai làm rạng rỡ hết. Mà thầy thì…

Nghe tiếng sụt sùi trong đám học trò, thầy đồ ngừng lại, đảo mắt yếu ớt nhìn quanh, rồi thều thào:

- Đừng khóc các con! Cái kẻ đáng khóc phải là thầy đây. Thầy phải khóc vì sự bất lực của thầy. Còn các con, các con chưa mất hy vọng đâu!... Hãy lại đây, nghe thầy nói… Cái ngọn đèn nào lúc sắp tắt cũng phải bùng lên. Thầy đã đến những phút cuối cùng rồi!

Bàn tay thầy đồ giá lạnh trong tay Sơn. Sơn tưởng thầy sắp chết sau một giây nữa thôi. Nhưng không, đôi mắt trắng đục, giương to lên, như muốn lôi kéo tất cả những tinh anh của thời trai trẻ trở về. Thầy đồ nói tiếp:

− Nếu thầy không nói cho các con nghe những điều mà thầy được biết thì khi chết đi thầy sẽ đắc tội với trời đất. Các con sống ở xóm làng này, trăm sự đều tùy thuộc vào làng xã và mấy tên bá hộ trọc phú. Các con có biết gì ngoài cái vốn liếng eo hẹp của các con đâu. Chỉ có thầy, biết mà không làm gì được, thì thật là vô lý nếu thầy giữ kín mà đem xuống lòng mộ.

Đám học trò nhìn nhau ngơ ngác. Cái điều gì mà quan trọng đến nỗi một người già nua quên mất sự trối trăng thông thường về gia tài của mình, về ngôi mộ, về chiếc quan tài mà mình sẽ nằm trong ấy?

Sơn kéo tấm chăn bông đắp lên tận ngực của thầy đồ, che kín thân hình còm cõi đang run rẩy của thầy. Thầy nói:

- Cái điều đau đớn trọng đại như thế mà không ai biết. Còn những kẻ biết thì ngậm miệng không dám nói. Nhưng một kẻ sắp về chầu Phật… như thầy đây, phải nói để các con liệu mà sống.

Sơn kê miệng gần tai thầy đồ, nói:

- Xin thầy dạy cho. Chúng con nghe đây.

- Các học trò của thầy! Các người trai trẻ ưu tú đây! Biết gì không? Mảnh đất mà các con đang sống, đã thuộc vào tay giặc rồi! Thầy đau đớn biết bao khi phải nói như vậy. Cái hòa ước khốn nạn đã đem dâng ba tỉnh Nam Kỳ cho giặc Tây. Thế mà các con, dân quê ngu muội, có biết gì không?

Một giọt lệ lăn từ khoé mắt già nua xuống gò má của thầy như nước thấm xuống nền đất nứt nẻ cằn cỗi. Thầy đồ nghẹn ngào:

- Trong lúc giặc đang khiếp vì sự kháng cự của dân ta, thì vua quan ta lại e sợ súng ống của giặc. Trong lúc giặc không ngờ là có sự hòa hoãn, thì ta lại bằng lòng ký giấy cắt đất. Cái tin đau buồn ấy, thầy biết từ mùa hè. Nhưng có biết làm gì hơn? Thầy bệnh hoạn, sắp chết, bất tài… Còn lũ trẻ các con sống trong cái làng hẻo lánh này, bị bao kín bằng lũy tre xanh này, làm sao biết được rằng khắp nơi dân chúng đang phẫn nộ. Người ta đã kết nạp nhau thành nghĩa quân, chống Pháp để giành lại đất. Còn chúng ta ở đây, đời sống còn yên lành quá! Nhưng… một mai, giặc sẽ đến. Rồi các con có yên không? Thầy nói thế để các con biết trước mà liệu. Đời bình yên rồi cũng sẽ không còn.

Thầy đồ ho một tràng, người mệt lả như muốn ngất đi. Sơn vuốt ngực cho thầy. Mấy người con trai phía sau quỳ hết cả xuống đất. Ai cũng nghe rõ tiếng gió đông rít lên ngoài vách nứa. Ngọn đèn dầu dường như hơi lao chao ánh lửa. Không gian chợt yên lặng như cảm thông với nỗi u uất của một người tuyệt vọng.

Giây lát sau, thầy đồ lại sức, tiếp tục trối trăng với đám học trò:

- Thế hệ của các con, không phải là thế hệ của thầy nữa. Đừng bắt chước mẫu người của thầy. Cái học nhà nho chỉ giúp ta sống cho phải đạo người, biết rõ lẽ trời… quý giá lắm! Nhưng không còn thực tế để giúp ta cứu nước. Trước kia thầy mong các con thành Tú Tài, Cử Nhân. Nhưng từ ngày nghe tin chua xót ấy, thầy thấy một điều rõ rệt là thầy không còn mong như vậy. Các con hãy làm một cái gì khác. Thầy muốn nói rằng… khác với hình ảnh con người khoa bảng, mơ ước áo rộng khăn to mà bao lâu nay người ta đã vẽ.

Mười đứa học trò yên lặng. Sơn đưa tay vặn ngọn đèn dầu cho sáng thêm. Một chút rạng rỡ hiện trên gương mặt thầy đồ. Giọng thầy trầm xuống:

- Các con hiểu thầy nói gì không? Điều khổ sở nhất của thầy, thầy đã nói hết. Các con còn trẻ lắm, gắng mà tranh đấu để giữ ruộng, giữ làng. Giặc đã nắm quyền cai trị ta ở trên giấy tờ. Thì sớm muộn gì chúng cũng sẽ đến đây. Lúc đó nhà tan cửa nát. Đau khổ lắm các con ơi! Giặc có súng ống tối tân, nhưng không phải vì thế mà ta khiếp sợ. Ta có tre vót thành mác, có sắt mài thành dùi….

Sơn giật mình. Thầy đồ vừa nói một điều rất khích động. Sơn đã thấy rồi! Cái đó có thể làm Sơn nghe máu trong tim cuồn cuộn, không phải tiếng trống dồn dập nổi lên giữa sân đình, hay tiếng pháo nổ dòn trong những đám cưới. Mà là lời của thầy vừa nói đó! Cái màn tối ngu muội đang được xé rách giữa tâm hồn Sơn. Ta có tre vót thành mác, có sắt mài thành dùi! Sơn đã mài sắt bao nhiêu ngày. Sắt chưa nhọn, nhưng bây giờ lửa hăng hái đã bén. Sơn nhìn thầy đồ. Bỗng nghe tim đau nhói. Ôi, thầy của con, người sinh đồ nho nhã một đời, tưởng yếu ớt như cọng cỏ, không ngờ mang trong lòng cả một nghĩa khí to lớn.

Những tiếng ho làm giọng thầy đồ đứt quãng:

- Tội nghiệp các con!... Sống mà không biết là mình sống… Nô lệ mà vẫn tưởng là được… thái bình. Cái lũy tre đã che mắt các con… Không thấy sông rộng, không thấy núi cao, sao gọi là con trai cho được!...

Thầy đồ thở hổn hển, nước mắt sống chảy ràn rụa xuống hai gò má xương xẩu. Đợi cho cơn ho của thầy dứt, Đại ra hiệu cho anh em đứng lên, rồi nói nho nhỏ:

- Chúng mình hãy ra ngoài cho thầy nằm nghỉ. Tôi thấy thầy nói nhiều, e… có hại.

Rồi Đại cúi xuống sửa lại tấm chăn cho thầy đồ. Đám học trò rón rén đi ra sân.

Sơn nhìn lên vòm trời xám ngắt. Một chút ánh trăng giải trên làn mây u ám. Còn mảnh trăng khuyết thì đã lẩn trong mây. Khung cảnh buồn như chưa bao giờ. Ở đây, mọi màu sắc đều đồng nghĩa với sự chết chóc. Gió đông thổi rít qua cây lá, đập vào da thịt Sơn, tưởng như hơi thở hắt của người bệnh. Sơn đưa mắt nhìn lén vào cửa sổ. Thấp thoáng trong nhà có bóng Thảo Giang bên cạnh giường của thầy đồ. Tay cô bé nâng chén thuốc, miệng nói gì nho nhỏ với người bệnh. Sơn thấy thầy đồ xua tay, và kéo Thảo Giang ngồi xuống. Đèn dầu leo lét không che giấu được trên má Thảo Giang nước mắt tuôn chảy. Sơn thấy thầy đồ thở những hơi mệt nhọc. Nhưng đôi môi khô héo vẫn thều thào những lời dặn dò. Sơn thương thầy quá! Một người không vợ, không con, ở phút cuối chỉ còn đứa cháu gái. Sơn liên tưởng đến cha của Thảo Giang. Sự biệt tích của ông, chắc thầy đồ biết. Và chắc cũng có liên quan đến điều mà thầy vừa nói với đám học trò.

Sau ý nghĩ ấy, Sơn vùng bước nhanh vào nhà. Thảo Giang đang nâng đầu thầy đồ lên, ghé tai nghe những lời thầy nói bây giờ đã bắt đầu khó khăn. Sơn quỳ xuống bên giường, nghe tiếng thầy như hòa trong sương khói:

- Nghĩa quân đông lắm!... Chờ khi họ qua làng, các con xin gia nhập… Cha của cháu, Thảo Giang à,… chắc chú ấy đang ở Tân Hòa. Đừng… đừng qua đó, nguy hiểm… Thế nào nghĩa quân cũng sẽ về… khi chiếm lại được đất…

Thảo Giang nức nở:

- Bác ơi! Cháu làm sao biết được cha cháu ở cánh quân nào mà theo?

- Nghĩa quân đông lắm… vì kết nạp dân chúng mọi nơi. Nhưng dù đông… vẫn ở dưới… bóng cờ của Trương…Công…Định. Đừng đi một mình nghe cháu! Nước non rộng thênh thang. Đợi nghĩa quân…qua làng…rồi…rồi…

Sơn ôm bàn tay giá lạnh của thầy đồ, nói như một lời hứa:

- Thưa thầy, chúng con sẽ theo nghĩa quân.

Thầy đồ gượng cười. Sơn nhìn đăm đăm vào bàn tay thầy. Gần hết đời người, bàn tay ấy trung thành với ngọn bút lông. Đến nay Sơn mới có dịp nắm lấy bàn tay thầy để nhận thấy những mạch máu, những nếp xương nổi lên dưới làn da xám ngắt, giống như sông, như núi, chạy ngoằn ngoèo trên một giải đất. Có phải đó là ước mơ thầy vẽ cho bọn học trò ngu muội hay không? Chúng con sẽ theo nghĩa quân. Vâng, thưa thầy! Sẽ chiếm lại đất, sẽ chống lại giặc. Chúng con có tre làm mác, có sắt làm dùi. Nhưng cái con người mang tên Trương Công Định mà thầy vừa nhắc tới, có phải là thần tượng của chúng con không? Người ấy ra sao? Già hay trẻ? Mập hay gầy? Thấp hay cao? Người có giọng nói miền nào? Người cũng sinh ra tại quê hương này và đau lòng vì mất nước? Chúng con phải biết một chút gì về hình dáng người – để mai đây nghĩa quân qua làng, biết đâu sẽ thấy người trước mặt. Sơn muốn hỏi như thế, nhưng nhìn lại thầy đồ, đã thấy gương mặt của thầy im lìm như tượng đá. Đôi mắt trắng như muốn nhìn xuyên thủng cả mái nhà để thấy bầu trời rộng. Môi thầy không còn mấp máy nữa… Thảo Giang nấc lên một tiếng nghe nhức buốt cả tim. Sơn không còn biết nước mắt mình sẽ chảy ra hay đã đông lại thành tuyết mất rồi?

Bên con rạch nhỏ chảy qua làng, thầy đồ đã đi chuyến đò cuối.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx