sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Pháp sư - Bí mật của Nicholas Flamel bất tử - Chương 38 - 39

CHƯƠNG 38

Cuối cùng Josh bắt kịp con quỷ bên bờ sông Seine.

Cậu không biết cậu đã chạy bao xa, chắc một hai cây số—nhưng cậu biết rằng lẽ ra cậu không thể làm như vậy được. Cậu đã mở hết tốc lực suốt chặng đường cuối cùng—cậu nghĩ bảng tên con đường ghi là Rue de Marignan—không chút gắng sức nào, và bây giờ, quay ngoắt sang trái trên đại lộ Montaigne, thậm chí cậu còn không chút hổn hển.

Đó là do thanh kiếm.

Cậu có cảm giác nó kêu o o trong tau cậu khi cậu chạy, nó thì thầm và rì rào cái gì đó nghe như hứa hẹn mơ hồ. Khi cậu cầm nó ngay trước mặt cậu, hướng về con quỷ, những tiếng thì thầm phát ra lớn hơn và thấy rõ là nó rung rung trong tay cậu. Khi cậu chuyển ra hướng khác, chúng nhòa bớt đi.

Thanh kiếm đã kéo cậu về phía sinh vật đó.

Theo dấu vết phá hoại của con quỷ xuống con phố hẹp. phóng qua những người dan Paris bối rối, kinh hoàng và khiếp đảm, Josh thấy những tư tưởng kỳ lạ và xáo trộn lung linh trong mọi bờ rìa của tâm thức cậu:

… nó ở trong một thế giới không có đất liền, bơi lặn trong đại dương đủ mênh mông để nuốt trọn những hành tinh, nhung nhúc những sinh vật làm c con quỷ cậu đang bám đuổi trong còn có tí tẹo…..

…. Nó đang du đưa tuốt trên cao trong không trung, bị quấn trong những nhánh rễ dày đặc cắn phập vào da thịt nó, nhìn xuống vùng đất hoang mạc khô cằn nóng đổ lửa, tàn héo quắt queo…

…. Nó bị lạc đường và bị bấn loạn, trong một nơi an toàn là những ngôi nhà nho nhỏ có nhiều tầng và thậm chí có cả những sinh vật còn bé nhỏ hơn, và nó bị đau, một ngọn lửa nung nóng đốt xoáy tận chân xương sống nó…

… nó là….

Nidhogg.

Cái tên vọt ra trong vùng ý thức của cậu, và một cú sốc vì không hiểu sao cậu lại đang nghiệm những tư tưởng của con quỷ gần như đột ngột ngăn chân cậu, làm cậu đứng sựng lại. Cậu biết hiện tượng này phải có liên quan đến thanh kiếm. Trước đây, khi cái lưỡi của sinh vật đó chạm vào lưỡi kiếm, cậu đã thoáng thấy một bức ảnh chụp nhanh của một thế giới xa lạ, những hình ảnh kinh tởm của một quang cảnh kỳ quái, và bây giờ, khi đâm vào sinh vật một lần nữa, cậu bắt được những thoáng lờ mờ của một cuộc sống hoàn toàn nằm ngoài kinh nghiệm của cậu.

Một ý nghĩ lóe ra trong óc, cậu đang nhìn thấy những gì sinh vật đó—Nidhogg—đã nhìn thấy đâu đó trong qua khứ. Cậu đang trải nghiệm những gì giờ đây nó cảm thấy.

Phải có liên quan đến thanh kiếm.

Và nếu đây là thanh kiếm sinh đôi của Excalibur, Josh chợt tự hỏi, thì liệu có phải thứ vũ khí đó cũng truyền điảm giác, xúc cảm và cảm tưởng khi có ai sử dụng nó? Dee cảm thấy gì khi đâm ngập thanh Excalibur vào cây Yggdrasill cổ xưa? Hắn đã nhìn thấy những cảnh tượng gì, hắn đã trải nghiệm những gì và học được những gì? Josh thấy mình đang tự hỏi không biết đâu là lý do thật khiến Dee phá hủy Yggdrasill: có phải hắn giết chết nó để cảm nhận được kiến thức lạ thường chứa trong đó?

Josh liếc nhanh thanh kiếm đá và một cơn rung mình chạy dọc khắp người cậu. Một thứ vũ khí như thế này sẽ mang lại cho người sử dụng nó những năng lực không thể tưởng tượng nổi—và sự cám dỗ đáng kinh hãi biết bao. Chắc chắn sự thúc đẩy sử dụng nó hết lần này đến lần khác để thu được càng lúc càng nhiều kiến thức sẽ trở thành một mong muốn không sao kiềm chế được.

Nhưng tại sao Nhà Giả kim lại tặng nó cho cậu?

Câu trả lời đến ngay tức khắc: vì Flamel đã không biết! Thanh kiếm là một phiến đá vô tích sự cho đến khi nó đâm hoặc chém vật gì đó—chỉ điều đó mới làm nó sống dậy. Josh gật gù với chính mình; giờ cậu mới biết tại sao Saint-Germain, Joan và Scatty không muốn chạm vào thứ vũ khí này.

Khi cậu phóng xuống con phố dẫn ra dòng sông, cậu tự hỏi không biết chuyện gì xảy ra nếu cậu giết được Nidhogg bằng thanh Clarent. Cậu sẽ cảm thấy gì, cậu sẽ học được gì?

Cậu sẽ biết những gì?

Nidhogg đột ngột hiện ra qua một hàng cây và lao ngang qua con đường rồi xuống cảng Champs-Elysees. Nó dừng lại trong bãi đậu xe trên mảnh đất bên rìa bến cảng gần như ngay trước Dee và Machiavelli và thả mình bò lồm ngồm, cái đầu khổng lồ đu đưa từ bên này qua bên kia, cái lưỡi lè ra khỏi miệng. Nó quá gần đến nổi bọn họ có thể nhìn thấy than hình mềm nhũn của Scatty bị cắp trong mấy cái vuốt của nó và Disir đang ngồi dạng chân trên cổ nó. Cái đuôi Nidhogg quất mạnh, hất tung những chiếc xe đang đậu và đâm mạnh vào một chiếc xe buýt đường dài, chọc thủng động cơ. Một bánh xe nổ tung một tiếng ầm vang.

“Tôi nghĩ chúng ta nên ra khỏi xe…,”

Dee lên tiếng, đưa tay ra về phía cánh cửa, đôi mắt dán chặt trên cái đuôi nhún nhảy vừa đúng lúc nó quất vào mui xe chiếc BMW nặng nề.

Cánh tay Machiavelli bung ra, các ngón tay khép lại trên cánh tay Pháp sư như cái mỏ cặp chặt cứng đau điếng.

“Thậm chí chỉ nghĩ đến việc cử động thôi cũng không được. Đừng làm gì lôi kéo sự chú ý của nó.”

“Nhưng cái đuôi..”

“Nó đang đau, đó là lý do tại sao cái đuôi cư quẫy đập lung tung. Nhưng hình như nó đang chậm dần thì phải.”

Dee hơi quay đầu. Machiavelli đúng: có cái không ổn với cái đuôi của Nidhogg. Khoảng chừng một phần ba chiều dài cái đuôi trở màu đen thui—trông gần như hóa đá. Thậm chí ngay lúc Dee chăm chú nhìn, những chùm lông xoắn và những đường gân máu của một thứ chất lỏng màu đen ngòm vẫn đang bò lan qua da thịt cứng ngắc của con vật, chầm chậm bọc nó vào trong một cái vảy. Tiến sĩ Dee ngay lập tức biết chuyện gì đã.

“Thằng nhỏ đã đâm nó bằng thanh Clarent,”

hắn nói thậm chí không quay đầu lại nhìn Machiavelli.

“Đó là nguyên nhân của phản ứng này.”

“Tôi nghĩ ông đã nói Clarent là Thanh kiếm Hỏa công, chứ đâu phải là Thanh kiếm Cổ Thạch.”

“Có nhiều hình thái lửa khác nhau,”

Dee nói.

“Ai biết được năng lực của lưỡi kiếm gặp thư gì đó giống như Nidhogg thì phản ứng như thế nào?”

Hắn nhìn chòng chọc vào cái đuôi, ngày càng nhiều lớp vảy cứng đen true mọc lên trên lớp da. Khi nó cứng lại hắn bắt gặp một thoáng lửa điện đỏ hiện lên chớp nhoáng.

“Vảy nham thạch,”

hắn nói, giọng chợt tắt lịm đi vì kinh ngạc.

“Đó là vảy nham thạch. Lửa thiêu đốt bên trong lớp da của sinh vật.”

“Thảo nào mà nó đau đớn vậy,”

Machiavelli lẩm bẩm.

“Ông nói nghe cứ như thể tiếc xót cho nó,”

Dee buột miệng.

“Tôi không bao giờ đánh nổi nhân tính để lấy một cuộc đời dài đằng đẳng, ông Tiến sĩ ạ. Tôi luôn nhớ về cội rễ của mình.”

Tiếng hắn đanh lại, có vẻ khinh khỉnh.

“àm việc chăm chỉ như chủ nhân Elder của ông đến nổi quên mất cảm giác làm người—là con người—thì như thế nào. Và chúng ta, những con người,”

—hắn nhấn mạnh từ cuối cùng—”

có khả năng cảm thấy nỗi đau đớn của sinh vật khác. Đó là những gì nâng con người lên trên các Elder, đó là thứ làm cho họ trở nên vĩ đại.”

“Và đó cũng là sự yếu đuối rốt cuộc sẽ hủy diệt họ,”

Dee tiếp lời một cách đơn giản.

“Hãy để tôi nhắc ông rằng sinh vật này không phải là con người. Nó có thể nghiền nát ông dưới chân mà thậm chí chẳng để ý. Tuy nhiên, bây giờ không phải là lúc để chúng ta tranh cãi; càng không khi chúng ta sắp là người chiến thắng. Thằng nhỏ hẳn sẽ giải quyết vấn đề cho chúng ta,”

Dee nói.

“Nidhogg đang từ từ biến thành đá.”

Hắn cười lớn đầy phấn khích.

“Nó sẽ nhảy ùm xuống dòng sông ngay bây giờ, sức nặng của cái đuôi của nó sẽ kéo nó xuống tới đáy—và mang cả Scathach theo cùng nó.”

Hắn ranh mãnh nhìn Machiavelli.

“Tôi nghĩ chắc là nhân tính của ông không dành những cảm xúc tiếc thương cho Bống tối đâu nhỉ.”

Machiavelli nhăn mặt.

“Ý nghĩ Scathach đang nằm dưới đáy sông Seine và được bao bọc trong móng vuốt của sinh vật đó làm cho tôi thật sự hạnh phúc.”

Hai người bất tử ngồi bất động trong chiếc xe hơi lom nhom vào sinh vật lắc lư tiến thẳng phía trước, giờ đang di chuyển chậm hẳn, kéo lê lết theo nó là sức nặng của cái đuôi. Tất cả những gì nằm giữa nó và làn nước là một trong những chiếc thuyền chung quanh lắp kính—những chiếc du thuyền bateau-mouche—mang những du khách xuôi ngược dòng sông.

Dee hất đầu về phía du thuyền.

“Một khi nó leo lên đó, con thuyền sẽ chìm; và Nidhogg lẫn Scathach sẽ biến mất vào dòng sông Seine vĩnh viễn.”

“Còn Disir thì sao ta?”

“Chắc chắn ả ta bơi được.”

Machiavelli tự cho phép mình có một nụ cười chế giễu.

“Vì thế tất cả những gì chúng ta đang đợi chờ bây giờ…”

“… là nó bước lên thuyền,”

Dee kết thúc, vừa đúng lúc Josh xuất hiện ngang qua cái lỗ trống hoác trong mảnh đất bên bìa bến cảng có một hàng cây xanh chạy viền, và cậu lao mình băng ngang bãi đậu xe.

Khi Josh phong mình lên sinh vật đó, thanh kiếm trong tay cậu bắt đầu cháy lên, những dải lửa dài màu da cam cuồn cuộn bốc lên khỏi lưỡi kiếm. Luồng điện của cậu bắt đầu nổ lách tách một màu vàng ánh kim rất hòa hợp, tràn ngập bầu không khí là nùi hương cam thơm ngát.

Bất ngờ, Disir trượt khỏi lưng con quỷ, lung linh biến trở lại thành áo giáp bằng vòng xích trắng trong chớp mắt trước khi chân chạm đất. Cô đi vòng qua Josh, nacute;t mặt cô ả bọc trong một cái mặt nạ xấu xí và hung tợn.

“Mi thật là cái thứ quấy rầy, thằng nhỏ kia,”

cô ả gầm lên bằng một thứ tiếng Anh khó hiểu. Giơ thanh kiếm rộng bản lên bằng cả hai bàn tay, ả buông mình về phía Josh.

“Chuyện này chỉ mất một chốc lát thôi.”

CHƯƠNG 39

Những đám sương mù khổng lồ cuộn tròn bao quát khắp vịnh San Francisco.

Perenelle Flamel khoanh tay ngang ngực và nhìn chăm chăm vào bầu trời đêm đầy những con chim. Một đàn rất đông đúc đang chao liệng bốc lên khỏi thành phố, tụ tập thành một đám mây chuyển động đặc kịt, và rồi, hệt như những vòng xoắn của lọ mực bị đánh đổ, bầy chim tách thành ba luồng bắt đầu lên đường băng ngang vịnh, hướng thẳng về hòn đảo. Và bà biết rằng đâu đó giữa bầy đàn khổng lồ ấy là Nữ thần Quạ. Morrigan đang đến Alcatraz.

Perenelle đứng giữa tàn tích của một đám cháy trong nhà người cai ngục, nơi cuối cùng bà đã trốn thoát được những đống nhện lúc nhúc. Dù đã bị cháy từ hơn ba thập kỷ trước, bà vẫn có thể ngửi thấy mùi thoang thoảng của gỗ cháy thành than, vữa hồ nứt vỡ và ống dẫn nóng chảy quanh quẫn trong không khí. Nữ Phù thủy biết rằng nếu bà hạ thấp những vũ khí phòng thủ và tập trung, bà sẽ có thể nghe những tiếng nói của những viên cai ngục và gia đình của họ qua nhiều năm cư ngụ.

Che đôi mắt xanh nhạt của mình và nheo mắt nhìn một cách khó khăn, Perenelle tập trung vào những con chim đang tiến đến gần, cố phân biệt chúng với bóng đêm và nhận ra bà còn được vỏn vẹn bao nhiêu thời gian trước khi chúng đến. Bầy chim rất đông, và sương mù dày đặc khiến không thể nào đoán được kích thước hoặc khoảng cách. Nhưng bà đoán có lẽ bà còn mười hay mười lăm phút trước khi chúng đến hòn đảo. Bà đưa ngón tay út và ngón tay cái lên gần nhau. Một tia lửa nổ lách tách giữa chúng. Perenelle gật gù. Năng lượng của bà đã trở lại, tuy chưa đủ. Bây giờ chúng tiếp tục mạnh hơn khi bà rời xa được con nhân sư, nhưng luồng điện của bà được nạp vào ban đêm lại chậm hơn. Bà cũng biết rằng bà vẫn không còn cách gì mạnh đủ để đánh bại Morrigan và các con thú cưng của mụ ta.

Nhưng điều đó không có nghĩa bà không có khả năng tự vệ; cả cuộc đời nghiên cứu đã dạy bà nhiều điều hữu ích.

Nữ Phù thủy cảm thấy một luồng gió lạnh buốt làm mái tóc dài của bà gợn lên trong tích tắc trước khi hồn ma của Juan Manuel de Ayala lung linh thành một người hiện hữu bên cạnh bà. Hồn ma lơ lửng trong không trung, lấy chất liệu và độ rõ từ một đám phân tử bụi và nước đọng thành giọt trong lớp sương đang tụ lại. Cũng như những hồn ma khác bà từng gặp, ông ta đang mặc bộ quần áo mà ông cảm thấy thoải mái nhất khi ông còn sống: một chiếc áo sơ mi trắng rộng bằng vải lanh bỏ vào trong chiếc quần dài đến đầu gối. Đôi chân ông thót nhỏ lại ngay từ phần dưới đầu gối, và, như nhiều linh hồn khác, ông không có bàn chân. Lúc còn sống, hiếm khi người ta cúi nhìn xuống chân mình.

“Bà có thấy đây từng là một nơi xinh đẹp nhất trái đất này không?”

ông hỏi,ắt phẳng lì ướt lấp nhấp dán vào thành phố San Francisco.

“Giờ vẫn vậy,”

bà, quay người nhìn xuyên qua vịnh nơi thành phố lấp lánh với vô số những ngọn đèn tí xíu nhấp nháy nhấp nháy.

“Đã nhiều năm nay tôi và Nicholas gọi đó là mái nhà.”

“Ồ, không phải là thành phố này!”

de Ayala nói một cách thô bạo.

Perenelle liếc xéo sang hồn ma.

“Ông muốn nói về cái gì?”

bà hỏi.

“Trông nó thật đẹp.”

“Đã có lần tôi đứng ở đây, gần ngay đứng chỗ này, và ngắm nhìn có lẽ đến cả ngàn ngọn lửa đang cháy trên bờ biển. Mỗi ngọn lửa đại diện cho một gia đình. Một lần tôi đến quen biết tất cả bọn họ.”

Gương mặt dài của người Tây Ban Nha nhăn nhó có lẽ vì đau đớn.

“Họ dạy tôi về đất liền, và về nơi này, nói cho tôi nghe về các vị thần các sinh vật siêu nhiên của họ. Tôi nghĩ đó chính là những người đã trói buộc tôi vào mảnh đất này. Tất cả những gì tôi nhìn thấy bây giờ là ánh đèn; tôi không thể nhìn thấy các vì sao, tôi không thể nhìn thấy những bộ tộc hoặc con người riêng lẻ quay quần quanh những ngọn lửa của họ. Nơi chốn tôi từng yêu quý nay đâu rồi?”

Perenelle hướng đầu vía ngọn đèn xa xa.

“Vẫn ở đó. Chỉ có điều lớn hơn thôi.”

“Nó thay đổi không còn nhận ra nữa,”

de Ayala nói,

“và không phải để tốt hơn.”

“Tôi cũng từng nhìn thế giới này thay đổi, Juan.”

Perenelle nói rất đổi nhẹ nhàng.

“Nhưng tôi thích tin rằng nó đã thay đổi để trở nên tốt hơn. Tôi còn lớn tuổi hơn ông. Tôi sinh ra vào thời kỳ khi mà bệnh nhức răng thôi cũng có thể giết chết ông, khi cuộc sống ngắn ngủi và tàn bạo, và cái chết thường rất đau đớn. Khoảng cùng một thời với lúc ông khám phá ra hòn đảo này, tuổi thọ của mỗi người trưởng thành mạnh khỏe không nhiều hơn ba mươi lăm năm. Bây giờ thì gấp đôi con số đó. Nhức răng không còn giết chết được ai nữa—ồ, không phải lúc nào cũng vậy,”

bà nói thêm và cười lớn. Đưa Nicholas đến nha sĩ trong thực tế là một việc không thể.

“Con người đã có những cải tiến đáng kinh ngạc trong vài năm nay; họ đã tạo ra những điều kỳ diệu.”

De Ayala thả mình loanh quanh ròi lởn vởn ngay trước mặt bà.

“Và rằng vào việc hối hả tạo ra những điều kỳ diệu, họ đã bỏ qua những điều kỳ diệu khắp nơi chung quanh mình, bỏ qua những điều bí ẩn, những nét đẹp. Những chuyện thần thoại và huyền thoại đi cùng với họ mà không nhận thấy, chúng bị bỏ mặc, không được công nhận. Không phải l&uào điều đó cũng như vậy.”

“Đúng, không phải như vậy,”

Perenelle tán thành một cách buồn bã. Bà nhìn qua vịnh. Thành phố nhanh chóng biến mất trong sương mù, những ánh đèn mang vẻ siêu trần và đầy ma thuật. Thật dễ chịu khi lúc này lại được nhìn thấy những gì chắc hẳn cũng giống ngày xưa… và trông sẽ ra sao nếu các Elder Đen tối giành lại trái đất này. Nhiều kỷ nguyên trong quá khứ, loài người đã nhận ra rằng thực sự đã có các tạo vật và giống loài khác—Ma cà rồng, Ma biến hình, Người khổng lồ—sống trong những vùng bóng tối. Đôi khi những loài này mạnh như những vị thần sống trong lòng núi hoặc sâu thẳm trong những khu rừng không thể qua được. Có những con ma ăn xác thối dưới lòng đất, những con ma sói thật sự rong chơi trong rừng, và có những sinh vật xấu xa gấp nhiều lần hơn những con quỷ khổng lồ dưới chân cầu. Khi những du khách từ những miền đất xa lạ trở về, mang theo những câu chuyện về ma quỷ và các sinh vật họ đã gặp, những điều kỳ diệu họ đã nhìn thấy, không ai nghi ngờ họ cả. Ngày nay, thậm chí với những tấm ảnh, những đoạn phim hoặc lời tường thuật về những chuyện lạ thường hay thuộc về thế giới bên kia, dù được chứng kiến tận mắt, người ta vẫn nghi ngờ—gạt bỏ đi như thể đó là một trò lừa. “

“Và bây giờ một trong những sinh vật thần kỳ khủng khiếp nhất đang đến với hòn đảo của tôi,”

Juan buồn buồn nói.

“Tôi có thể cảm nhận nó đang đên gần. Ai vậy?”

”Morrigan, Nữ thần Quạ.”

Juan quay sang Perenelle.

“tôi có nghe nói về bà ta; một vài phù thủy người Ireland và Scotland trong đoàn của tôi rất sợ bà ta. Bà ta đến đây vì bà à?”

“Đúng.”

Nữ Phù thủy cười cay nghiệt.

“Bà ta sẽ làm gì?”

Perenelle nghiêng đầu, vẻ như xem xét.

“Ồ, chúng đã cố bắt bỏ tù tôi. Việc đó đã thất bại. Tôi hình dung cuối cùng những chủ nhân của Dee đã phê chuẩn một giải pháp lâu dài hơn.”

Bà cười lớn, giọng rung rung.

“Tôi đã từng trong những tình thế ngặt nghèo hơn…,”

giọng bà vỡ ra và nuốt nước bọt một cách khó khăn và nuốt một lần nữa.

“Nhưng lúc nào tôi cũng có Nicholas bên cạnh. Cùng nhau chúng tôi bất khả chiến bại. Ước gì bây giờ có ông ấy ở đây với tôi.”

Bà hít một hơi thật dài, giữ vững hơi thở và giơ cả hai bàn tay ra trước mặt bà. Những cuộn khói từ luồng điện trắng tinh như nước đá của bà xoắn vặn ra khỏi đầu mấy ngón tay.

“Nhưng tôi là người bất tử Perenelle Flamel, và tôi sẽ không bị đánh bại mà không chiến đấu.”

“Hãy nói xem tôi có thể giúp bà bằng cách nào?”

de Ayala

“Ông đã làm cho tôi như vậy là đủ rồi. Bởi nhờ ông tôi mới trốn thoát được con Nhân sư đó.”

“Đây là hòn đảo của tôi. Và bây giờ bà đang ở dưới sự bảo vệ của tôi.”

Ông cười rầu rĩ.

“Tuy nhiên, tôi không rõ là những con chim có sợ mấy tiếng cửa sập đó không. Và thứ tôi có thể làm thì không nhiều lắm.”

Perenelle cẩn thận rón rén từng bước từ bên này sang qua bên kia ngôi nhà đổ nát. Đứng vào một trong những ô cửa sổ hình tam giác, bà chăm chăm nhìn lui lại nhà tù. Bây giờ màn đêm đã buông xuống, hình dáng nó in lờ mờ và báo hiệu một điềm gở trên nền trời tím. Bà đánh giá tình thế của mình: bà bị giam trên một hòn đảo nhung nhúc những con nhện, có một con nhân sư đi thơ thẩn tự do trong hàng lang bên dưới, và những cây xà lim đầy những sinh vật từ những vùng thần thoại đen tối nhất mà bà từng chạm trán. Thêm vào đó năng lượng của bà giảm xuống một cách không thể tin được và Morrigan đang tới. Bà đã bảo với de Ayala là bà đã từng ở trong nhiều tình thế hiểm nghèo hơn, nhưng ngay lúc này bà không thể nhớ một tình huống nào.

Hồn ma hiện ra bên cạnh Perenelle, đường nét của nó làm cho hình ảnh ngôi nhà phía sau méo mó vặn vẹo.

“Tôi có thể làm gì giúp bà?”

“Ông biết về hòn đảo này rõ cỡ”

bà hỏi.

“A ha! Tôi biết đến từng xen-ti-met một. Tôi biết những nơi bí mật, những đường hầm do những tù nhân đào dang dở, những hành lang được giấu kín, những căn phòng bị nít lại, những hang động của những người da đỏ khoét sâu vào bên dưới lớp đá. Tôi có thể giấu bà và không bao giờ có một ai có thể tìm ra bà.”

“Morrigan rất có tài xoay sở… và rồi còn có những con nhện. Chúng sẽ tìm thấy tôi.”

Hồn ma trồi lên lòng vòng rồi lại đặt mình ngay trước mặt bà. Chỉ có đôi mắt ông ấy—một màu nâu đen thẫm—là người ta có thể nhìn thấy được trong màn đêm.

“Ồ, những con nhện đâu phải nằm dưới sự kiểm soát của Dee.”

Perenelle ngạc nhiên lùi lại một bước.

“Không phải à?”

“Chúng chỉ mới bắt đầu xuất hiện khoảng một hai tuần nay thôi. Tôi bắt đầu để ý thấy những tấm mạng giăng khắp các cửa ra vào, phủ lên các cầu thang. Cứ mỗi buổi sáng, lại càng có nhiều những con nhện nữa. Chúng lơ lửng trong gió, được những sợi tơ mang đi. Rồi có những tên canh gác rất giống con người xuất hiện trên hòn đảo….. nhưng chúng không phải là con người,”

ông vội nói thêm.

“Những sinh vật có khuôn mặt trống trơn thật kinh khủng.”

“Homunculi,”

Perenelle nói mà rung mình.

“Những sinh vật Dee nuôi trong những bể chứa mỡ sôi sùng sục. Chuyện gì đã xảy ra với chúng?”

“Chúng được giao nhiệm vụ quét sạch các mạng nhện, giữ cho mấy cái cửa sạch sẽ. Một con lỡ sẩy chân ngã vào tấm mạng,”

de Ayala nói. Một nụ cười thoáng qua làm hàm răng ông hiện ra mờ mờ.

“Tất cả những gì còn lại là những mảnh áo quần tơi tả. Thậm chí xương cũng không còn,”

ông nói với bà bằng một tiếng thì thào đầy kinh hãi.

“Đó là bởi vì Homunculi không có xương,”

bà lơ đãng nói.

“Vậy cái gì gọi những con nhện đó tới đây?”

De Ayala quay nhìn khối nhà tù.

“Tôi không rõ…”

“Tôi tưởng ông đã biết tất cả về hòn đảo này tức là phải biết những cái đó chứ?”

Perenelle vừa nói vừa mỉm cười.

“Tận bên dưới khối nhà tù, những con sóng vỗ ngày này qua ngày kia đã khoét sâu tuốt vào nền đá móng một dãy những hang động bí mật dưới lòng đất. Tôi tin rằng những người ngụ cư đầu tiên của hòn đảo này đã dùng chúng làm kho chứa. Khoảng một tháng t một người Anh nhỏ thó….”

“Dee?”

“Đúng, Dee, đã mang thứ gì đó đến hòn đảo trong một đêm khuya thanh vắng, và cho hết vào trong những cái hang này, rồi hắn bịt kín toàn bộ khu vực bằng những con dấu và Thần chú Canh giữ đầy ma thuật. Thậm chí cả tôi cũng không thể xâm nhập vào tầng tầng lớp lớp bảo vệ này được. Nhưng tôi đoan chắc rằng cái thứ bị nhốt trong những hang động đó đang kéo những con nhện này đến hòn đảo.”

“Ông có thể đưa tôi đến những hang động đó được không?”

Perenelle vội vã yêu cầu. Bà có thể nghe tiếng soàn soạt huyên náo của hàng ngàn cánh chim, đang kéo đến gần hơn bao giờ hết.

“Không,”

de Ayala nói ngay.

“Những hành lang dày đặc những con nhện, và ai biết Dee còn nhốt thứ gì trong những cạm bẫy khác nữa.”

Perenelle tự động giơ tay chạm vào cánh tay người thủy thủ, nhưng bàn tay bà lại xuyên qua ông để lại một hình xoáy những giọt nước liền sau tay bà.

“Nếu Dee đã chôn cái gì đó trong hầm tù ẩn kín của Alcatraz, và rồi bảo vệ nó bằng ma thuật hiệu nghiệm đến nỗi ngay cả một linh hồn mong manh cũng không thể đi ngang qua, thì chúng ta cần phải biết đó là thứ gì.”

Bà mỉm cười.

“Ông đã bao giờ nghe câu nói ‘ của kẻ thù là bạn’ chưa?”

“Chưa, nhưng câu ‘kẻ dại khờ lao đầu vào ngõ cụt’ thì tôi có nghe.”

“Nào, đi thôi—nhanh lên, trước khi Morrigan đến. Hãy đưa tôi trở vào lại Alcatraz.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx