sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 61 - 62 - 63

Chương sáu mươi mốt

Tiến sĩ John Dee xem tấm danh thiếp trong bàn tay mình. Tấm thiếp đẹp một cách khác thường, màu mực ánh bạc dập nổi trên tấm giấy dày làm bằng tay từ giẻ rách. Hắn lật qua lật lại, không có ghi tên trên tấm thiếp, chỉ có sự miêu tả được cách điệu hóa của một con hươu đực với những nhánh gạc hoa mỹ được viền bằng một vòng tròn hai nét. Chồm người tới trước, hắn nhấn vào nút liên lạc nội bộ. “Mời quý ông ấy vào; tôi sẽ tiếp ông ấy ngay.”

Cửa căn phòng hắn mở ra gần như ngay khi câu nói vừa dứt, và một anh thư ký trông có vẻ bồn chồn xuất hiện, dẫn theo một người đàn ông cao ráo có khuôn mặt nhọn hoắt vào phòng. “Ông Hunter, thưa ngài.”

“Nhưng các cuộc điện thoại của tôi,” Dee nói gay gắt. “Tôi không muốn bị quấy rầy trong bất cứ tình huống nào.”

“Vâng, thưa ông. Chỉ vậy thôi ạ, thưa ông?”

“Chỉ vậy thôi. Bảo nhân viên có thể ra về ngay bây giờ.” Dee đã đòi mọi người phải ở lại thêm sau giờ làm việc bình thường.

“Vâng, thưa ông. Cám ơn ông, thưa ông. Ngày mai ông sẽ ở đây chứ ạ?”

Dee nhìn dõi theo người thư ký đang chạy lăng xăng. Tay Pháp sư biết toàn bộ văn phòng này đều lo sốt vó lên vì hắn xuất hiện bất thình lình. Có tin đồn lan đi khắp nơi rằng hắn sẽ đóng cửa chi nhánh London của công ty Enoch Enterprises. Cho nên dù bây giờ đã mười giờ tối, vẫn không ai có một tiếng than phiền nào vì phải ở lại trễ.

“Mời ngồi, Ông Hunter.” Dee chỉ vào chiếc ghế thấp bằng kim loại bọc da đặt trước mặt. Còn hắn vẫn ngồi đằng sau cái bàn bằng cẩm thạch đen trũi bóng loáng của mình, cẩn thận quan sát người mới đến. Có cái gì đó không ổn với anh ta, tay Pháp sư khẳng định. Những chỗ bằng phẳng và góc cạnh của khuôn mặt anh ta không hòa hợp cân đối; đôi mắt anh ta hơi to quá, mỗi con mắt có một màu khác nhau và miệng anh ta lại hơi quá thấp và rất rộng. Hầu như thể anh ta được tạo ra bởi ai đó đã lâu chưa từng thấy một con người nào. Anh ta mặc một bộ vét sọc màu xanh lơ nhạt, nhưng chiếc quần đúng là hơi quá ngắn và cho thấy thấp thoáng lớp da chân trắng hớn ngay trên đôi vớ đen, trong khi ống tay áo ngoài của anh ta lại dài xuống tận các khớp đốt ngón tay. Đôi giày của anh ta bẩn thỉu, bện đầy bùn đất.

Hunter gập người ngồi vào ghế, cử động vụng về và cứng nhắc, như thể không biết phải làm gì với tay chân thừa thải.

Dee chạm nhẹ mấy ngón tay của hắn lên thanh Excalibur đang để dựa dưới gầm bàn. Hắn cũng biết năm sáu câu thần chú về luồng điện và khiến nó bừng sống dậy. Và rồi, chỉ còn một vấn đề duy nhất thôi, đó là phải tẩy bụi đất nơi tấm thảm. Có khả năng chiếc ghế cũng sẽ tan chảy ra.

“Làm sao anh biết tôi ở đây?” Dee chợt hỏi. “Hiếm khi nào tôi ghé thăm văn phòng này. Mà bây giờ lại là buổi tối, hơi trễ đối với một cuộc gặp gỡ.”

Người đàn ông cao nghều có khuôn mặt xanh xao định cười, nhưng thay vào đó anh ta lại uốn éo đôi môi một cách kỳ cục. “Chủ nhân của tôi biết ông đang ở trong thành phố. Ông ấy đoán là thế nào ông cũng sẽ đến văn phòng này vì ở đây ông có thể truy cập vào mạng thông tin liên lạc của mình.” Người đàn ông nói tiếng Anh với độ chính xác rõ ràng và nhanh, nhưng giọng cao lại the thé đến nỗi khiến mọi thứ nghe có vẻ yếu ớt một cách buồn cười.

“Ông không thể nói thẳng ra được sao?” Dee gắt. Hắn đã mệt và thời gian đang cạn dần. Mặc cho nhiều tiếng đồng hồ chặn đường và vô số những trạm kiểm soát của cảnh sát, nhưng vẫn không có dấu vết gì của Flamel và bọn trẻ. Chính phủ Anh đang chịu áp lực đi đến việc phải tháo gỡ các trạm kiểm soát. Hiện thời tất cả các con đường ra vào thành phố này vẫn đang bị khóa chặt, và bản thân London đang trong tình trạng bế tắc.

“Ông đã có một cuộc họp với chủ nhân của tôi vào khuya đêm qua,” người đàn ông xanh xao nói. “Cuộc họp đã kết thúc trước khi đạt được một kết luận thỏa mãn hai bên, vì tình hình hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát của ông.”

Tay Pháp sư đứng dậy và đi vòng quanh bàn làm việc. Hắn đang cầm thanh Excalibur trong bàn tay phải, gõ nhè nhẹ lưỡi kiếm đá lên bàn tay trái mình. Người đàn ông đang ngồi không tỏ phản ứng gì. “Ông là gì?” Dee hỏi, có vẻ tò mò. Hắn đã đi đến kết luận là sinh vật này hoàn toàn không tự nhiên và thậm chí có khả năng không phải là con người. Quỳ xuống trên một đầu gối, hắn nhìn chăm bẳm vào gương mặt của người đàn ông, nhìn vào đôi mắt không cùng màu. Một con mắt màu xanh lá và một con màu xám. “Anh là một tulpa, một Golem, simulacrum hay là homunculus?”

“Tôi là một Thoughtform,” nhân dáng ấy nói, và mỉm cười. Miệng hắn ta đầy những chiếc răng hươu. “Do Cernunnos tạo ra.”

Dee giật lùi người trở lại đúng lúc nhân dáng ấy biến hình. Cơ thể vẫn giữ nguyên là một của một người đàn ông cao ráo ăn mặc kỳ cục, nhưng cái đầu đã thay đổi, trở nên xinh đẹp và không còn giống đầu người nữa, ngay khi những nhánh gạc khổng lồ nhô ra. Cái miệng của Thần Sừng cử động thành một nụ cười mơ hồ nhất và đôi mắt với đồng tử hẹp giãn ra và co lại. “Hãy khóa cửa lại, Tiến sĩ; ông không muốn bất cứ người nào bước vào bây giờ chứ.”

Tránh xa sinh vật này, giữ cho thanh Excalibur luôn ở giữa hai người, Dee đi vòng khóa cửa nghe một tiếng tách. Những gì Cernunnos vừa làm thật phi thường. Sử dụng khả năng tưởng tượng và sức mạnh ý chí của chính mình, Quan chấp chính đã tạo ra một tạo vật hoàn toàn từ luồng điện của lão. Tạo vật không hoàn hảo, nhưng cũng tạm được. Dee biết rằng giống người thật sự không bao giờ trông giống hệt nhau nữa là, và cho dù ai đó để ý thấy có gì không ổn trong dáng vẻ của người đàn ông này, thì chắc hẳn họ sẽ chỉ quay đi, cảm thấy có đôi chút bối rối thôi.

“Thật ấn tượng,” Dee nói. “Tôi cứ tưởng rằng ông đang điều khiển Thoughtform này từ xa ấy chứ?”

“Vượt xa những gì ông có thể hình dung,” Cernunnos nói.

“Tôi đã từng đi đến kết luận rằng ông chẳng có chút tinh thông nào về ma thuật cả,” Dee vừa thú nhận, vừa quay về bàn làm việc của mình. Tấm danh thiếp ánh bạc khác thường đang từ từ bốc hơi, những lọn khói màu trắng nhờ nhờ trôi giạt đi như bị hút vào người đàn ông có cái đầu hươu đực đang ngồi nơi cạnh đối diện của chiếc bàn làm việc.

“Không phải ma thuật, chỉ là chút công nghệ của Quan chấp chính thôi,” Cernunnos nói một cách giản dị. “Anh sẽ thấy hai thứ đó không thể phân biệt được.”

“Tôi cho rằng ông ở đây là có lý do,” Dee nói, “chứ không phải chỉ để trình diễn công... công nghệ này thôi.”

Con hươu đực gật đầu, mỉm cười tươi rói. “Tôi biết Flamel, Gilgamesh, Palamedes và cặp song sinh đang ở đâu.”

“Ngay lúc này sao?”

“Ngay lúc này chứ sao,” sinh vật ấy gật đầu tán thành. “Chỉ cách đây một giờ thôi.”

“Nói đi tôi nghe nào,” Dee tra gặng rồi nói thêm, “làm ơn.”

Quan chấp chính giơ bàn tay phải lên. Dee để ý thấy lão có một bàn tay với quá nhiều ngón. “Các điều khoản của tôi vẫn giữ nguyên như cũ, Pháp sư à. Tôi muốn Flamel, Gilgamesh và Palamedes phải còn sống. Và tôi muốn có thanh Clarent.”

“Nhất trí,” Dee nói ngay không chần chừ. “Tất cả là của ông. Cứ nói cho tôi biết bọn chúng đang ở đâu là được.”

“Và tôi muốn cả thanh Excalibur nữa.”

Ngay lúc đó ắt hẳn tay Pháp sư sẽ hứa cho sinh vật này bất cứ thứ gì. “Được luôn. Chính tôi sẽ đặt nó vào tay ông, ngay khi Flamel chết. Có bao nhiêu người khác nữa ở cùng bọn chúng?” Hắn hỏi một cách hăm hở.

“Không có ai hết.”

“Không có ai hết? Còn bọn Gabriel Hounds thì sao?”

“Bọn Rachet và chủ nhân của chúng, Đại Thi hào, đã biến đâu mất rồi. Nhà Giả kim, tên hiệp sĩ và nhà vua đi chung với hai đứa nhỏ sinh đôi.”

“Làm thế nào ông tìm được bọn chúng vậy?” Dee hỏi. Hắn phải thừa nhận là hắn thấy rát ấn tượng. “Tôi đã tìm kiếm bọn chúng khắp mọi nơi.”

Sinh vật ấy lại biến đổi khi đang đứng, những nhánh sừng co thụt vào trở lại thành khung xương sọ. Xuất hiện một cái đầu với nét mặt tinh tế khác với cái đầu trước đó của lão một cách đáng sợ. “Tôi quay lại pháo đài kim loại của bọn chúng, và rồi đơn giản là tôi lần theo mùi hương của bọn chúng thôi.”

“Ông lần theo mùi hương bọn chúng xuyên khắp thành phố này bằng cách ngửi thôi sao?” Dee thấy rằng đây là một kỳ công thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn việc kiểm soát Thoughtform. Hắn cố kiềm chế một nụ cười trước hình ảnh bất chợt hiện ra mô tả một Thần Sừng chạy trên bốn chân xuyên qua làn xe cộ, ngửi ngửi hít hít sau một chiếc xe hơi.

“Công nghệ của Quan chấp chính ấy mà. Bản thân nó là một điều rất đơn giản,” Thoughtform nói. “Bây giờ, nếu ông cùng đi ngay với tôi, tôi sẽ cố gắng sắp xếp để ông có một cảm xúc...”

“Thoughtform thật ấn tượng,” tay Pháp sư nói với vẻ chân thành, “nhưng nếu ông định đi lại giữa giống người, thật sự ông cần phải điều chỉnh giọng nói một chút. Và cả quần áo nữa.”

“Điều đó chẳng thành vấn đề gì mấy,” sinh vật ấy nói. “Chẳng bao lâu giống người sẽ đâu còn nữa.”

Chương sáu mươi hai

Perenelle Flamel thật thất vọng.

Nép mình trong tháp canh nơi bà đã nghỉ qua đêm, Nữ Phù thủy cứ hy vọng hão huyền rằng có một chiếc thuyền nhỏ nào đó trong số những chiếc đang đi lại rải rác khắp vùng vịnh kia thình lình xoay hướng đi về phía hòn đảo này, và Scatty cùng với Joan sẽ cập bờ.

Nhưng cả một ngày trôi qua, bà chẳng thấy họ đâu hết.

Bà chắc chắn rằng họ đang cố gắng, và bà biết chỉ có một thứ gì đó khủng khiếp lắm mới có thể ngăn cản họ. Nhưng bà cũng có chút giận hờn với chính bản thân mình vì đã hy vọng nhiều quá.

“Tàu đang đến!” Giọng nói của de Ayala thầm thì đằng sau tai trái của bà, làm bà giật mình.

“Juan!” Bà gắt lên. “Ông làm tôi chết mất!” Bà chạy đến bên rìa tháp canh, cảm thấy một làn sóng nhẹ nhõm lan khắp người, cùng với một chút nhói lòng vì thấy thật có lỗi khi đã nỡ nghi ngờ những người bạn của bà. Khuôn mặt Nữ Phù thủy vỡ ra thành nụ cười dữ tợn; với Joan Arc và Scathach Bóng tối bên cạnh, không gì - không một thứ gì, thậm chí cả con nhân sư và Ông Già Biển - sẽ có thể chống chọi lại bà.

Những đôi cánh đen khổng lồ vỗ đập kêu tanh tách, và bà quan sát thấy Nữ thần Quạ bay liệng theo hình xoắn ốc lao xuống nóc ngọn hải đăng và nhẹ nhàng lơ lửng trên cầu tàu hầu như ngay phía dưới bà. Perenelle cau mày; sinh vật này đang nghĩ gì vậy? Mụ không biết Scathach có thể sẽ quăng mụ ta cho các Nữ thần Biển, những loài không quá cầu kỳ về những thức ăn của chúng hay sao chứ.

Bà vừa định đứng dậy và trèo khỏi tháp thì khuôn mặt de Ayala không hoàn chỉnh hiện ra trước mắt bà. Đôi mắt của hồn ma mở lớn đầy vẻ hoảng hốt. “Thấp xuống. Hạ thấp người xuống.”

Perenelle nằm bẹp người sát xuống sàn. Bà nghe tiếng nổ lập bập phát ra từ động cơ mô-tô của chiếc thuyền có gắn máy ngoài và tiếng cạo kèn kẹt của gỗ nghiến gỗ khi con tàu va mạnh vào bến. Và rồi một giọng nói cất lên. Tiếng một người đàn ông.

“Quý bà, thật là vinh dự khi thấy bà ở đây.”

Có cái gì đó trong giọng nói này, cái gì đó quen khủng khiếp... Perenelle trườn mình đến cạnh tháp canh và ngó xuống. Gần như ngay bên dưới bà, tay người Ý bất tử Niccolò Machiavelli đang cúi chào Nữ thần Quạ thật sâu. Nữ Phù thủy nhận ra người đàn ông trẻ trèo ra khỏi chiếc thuyền là người bất tử bà đã gặp đang theo dõi bà vào ngày hôm trước.

Machiavelli đứng thẳng người lại và giơ lên một phong bì. “Tôi có những chỉ thị từ chủ nhân Elder của chúng ta. Chúng ta sắp đánh thức đội quân đang ngủ và giết chết Nữ Phù thủy. Bà ta đâu rồi?” Y hỏi dồn.

Nụ cười của Nữ thần Quạ sao mà tàn ác quá thể. “Để tôi chỉ cho.”

Chương sáu mươi ba

Cặp song sinh đang ngủ, và giấc mơ của hai đứa giống hệt nhau.

Chúng mơ thấy mưa và nước chảy ào ào, những thác nước vút cao, những con sóng cuồn cuộn mênh mông và một trận lũ lụt từng có lần đầu như phá hủy cả trái đất.

Những giấc mơ khiến chúng co rúm người và lầm bầm khi ngủ, lẩm bẩm nói thầm bằng đủ thứ tiếng, và có khi, cả Sophie và Josh đều đồng thanh kêu gọi mẹ bằng thứ tiếng mà Gilgamesh nhận ra là tiếng Ai Cập Cổ, một ngôn ngữ lần đầu tiên được nói cách đây hơn năm ngàn năm trước.

Hơn một chục lần trong suốt cả quãng ngày dài, Nicholas Flamel cứ muốn đánh thức hai đứa nhỏ sinh đôi, nhưng Gilgamesh và Palamedes đứng canh cho hai đứa. Nhà vua kéo một cái thùng lại ngồi gần bên Josh; chàng hiệp sĩ ngồi chồm hổm trên một cái hộp rách cạnh Sophie. Hai người đàn ông rạch một cái bảng vuông trên nền đất và liên tục chơi những ván cờ đam với những con cờ bằng đá và hạt của mấy thứ quả, hiếm khi cất tiếng nói gì ngoại trừ khi tính điểm bằng những mẩu que gãy.

Lần đầu tiên Flamel tiến đến gần cặp song sinh, hai người đàn ông ngước nhìn lên, nét ngờ vực giống hệt nhau hiện trên khuôn mặt họ. “Cứ để bọn trẻ yên đó. Tụi nhỏ cần phải ngủ,” Gilgamesh nói dứt khoát. “Pháp thuật Nước là độc nhất vô nhị. Không như những pháp thuật khác đến từ bên ngoài - những câu thần chú có thể được học thuộc lòng, một luồng điện có thể được nạp vào và định hình - còn sức mạnh của ma thuật Nước đến từ bên trong. Hết thảy chúng ta là những sinh vật sống nhờ nước. Đây là thứ ma thuật chúng ta đã sinh ra cùng với nó. Tôi đã làm bừng tỉnh kiến thức nằm sâu trong tế bào của hai đứa, trong gene di truyền của hai đứa. Bây giờ cơ thể của chúng cần phải thích nghi, điều chỉnh và hấp thu những gì hai đứa vừa học được. Đánh thức chúng bây giờ sẽ chỉ là một việc làm quá nguy hiểm mà thôi.”

Flamel khoanh tay nhìn xuống cặp song sinh đang ngủ. “Mà chúng ta phải ngồi đây, chờ đợi trong bao lâu mới được chứ?”

“Cả ngày và cả đêm, nếu chúng ta cần phải thế,” Gilgamesh gắt.

“Dee đang xé đất nước này thành từng mảnh để truy lùng chúng ta, Perenelle của tôi đang bị giam giữ trên một hòn đảo đầy bọn quỷ sứ. Chúng ta không thể cứ...” Flamel nổi giận.

“Ồ vâng chúng ta có thể. Và chúng ta sẽ hành động mà.” Palamedes từ từ đứng thẳng hết mức, vượt cao hơn hẳn Nhà Giả kim. Một vẻ ghê tởm hiện lên nơi khuôn mặt anh ta, và những vết thẹo bên dưới mắt sáng màu nổi lên trên làn da sậm của anh ta. “Ông đã bảo với tôi rằng ông không giết người kia mà.”

“Tôi không giết người!”

“Ừ, thì tôi giết.”

“Anh đe dọa tôi đó hả?”

“Ừ,” chàng hiệp sĩ nói đơn giản. “Sự nóng vội và ngu ngốc đã gây ra cái chết cho nhiều nạn nhân hơn bất cứ thứ vũ khí nào. Ông phải nghe lời nhà vua chứ. Đánh thức cặp song sinh bây giờ là ông giết chết bọn trẻ đó.” Anh ta dừng một chút và rồi nói thêm đầy vẻ cay đắng. “Hệt như cách ông đã giết những người khác trước hai đứa trẻ này vậy.” Anh ta quay đầu nhìn xuống Sophie và Josh. “Có bao giờ ông băn khoăn tự hỏi biết đâu một cặp nào đó đã chết lại có thể là cặp song sinh huyền thoại, và chính sự hau háu hám lợi của ông đã gây ra cái chết cho họ hoặc là tác nhân cho sự điên khùng của họ không?”

“Không một ngày nào qua đi mà tôi không nghĩ đến họ,” Flamel nói với vẻ chân thành.

Hiệp sĩ Saracen ngồi xuống và nhìn chăm chăm vào bàn cờ rạch vào nền đất. Anh ta di chuyển một con cờ, rồi nhìn lên trở lại và nói rất khẽ khàng. “Và nếu ông bước tới gần thêm một bước, tôi sẽ giết ông.”

Nhà Giả kim chắc chắn là anh ta đang có ý định như vậy thật.

Flamel trải qua gần như là cả ngày trong chiếc taxi, nghe tin tức trên radio, nhảy từ kênh này sang kênh khác, tìm xem có manh mối gì về những chuyện đang xảy ra không. Sự suy diễn chạy vòng vo trong khi các chương trình trò chuyện với người nổi tiếng và hộp thư bạn nghe đài lại đầy những lý thuyết kỳ quặc nhất. Tuy nhiên cũng có một tin tức thật. Được những đồng nghiệp thuộc nhà cầm quyền Pháp cảnh báo về mối đe dọa khủng bố lớn, nhà cầm quyền Anh đã đóng cửa tất cả mọi trường và hải cảng. Có những trạm kiểm soát trên mọi trục đường chính, và cảnh sát khuyên người ta không nên ra ngoài trừ phi có việc thật sự cần thiết. Nicholas luôn biết rằng các Elder Đen tối rất mạnh và có tay chân ở mọi cấp bậc trong xã hội loài người, nhưng đây là sự biểu dương quyền lực rõ ràng nhất mà ông từng thấy.

Khi buổi trưa trôi qua và buổi chiều dần đến, Nhà Giả kim lang thang khắp cánh đồng cỏ cao vây quanh nhà kho, uống chai nước Palamedes đã mua trong thị trấn gần đó. Thường thường, Nhà Giả kim là người kiên nhẫn nhất - thuật giả kim tự chính bản thân của nó là một quá trình chậm chạp và lâu dài - nhưng sự trì hoãn này thật làm tức điên lên. Stonehenge chỉ cách đây khoảng một ki-lô-mét rưỡi, và bên trong vòng tròn đứt quãng tạo thành từ những phiến đá dựng đứng là một cổng tuyến nối thẳng đến ngọn Mount Tamalpais. Flamel y thức rằng ông không còn sở hữu sức mạnh để mở cổng tuyến này, nhưng cặp sinh đôi thì có. Ông chắc chắn bọn trẻ sẽ hăm hở trở về nhà như ông. Rồi ông có thể bắt đầu việc giải cứu Perenelle. Ông sẽ giải thoát cho bà hoặc cùng chết với bà. Mà cho dù là ông thành công và đưa được Perry ra khỏi hòn đảo, thì ông vẫn tin rằng họ chẳng còn gì để làm ngoại trừ cái chết.

Nhà Giả kim dừng lại trước một trong những cây sồi cổ xưa làm ranh giới cho cánh đồng này và dựa lưng vào đó, ngửa mặt nhìn chăm chăm vào bầu trời xuyên qua lớp lá dày bao phủ bên trên, rồi ngồi thụp xuống mặt đất khô cứng. Ông giơ cả hai tay ra ánh sáng: đúng là bàn tay gân guốc của một ông già. Ông chải ngón tay vào da đầu và trông thấy những món tóc nhỏ gồm những sợi ngắn ngủn bạc thếch dưới ánh mặt trời. Các khớp đốt ngón tay của ông phình ra và cứng nhắc, và mỗi lần đứng lên hay ngồi xuống, ông lại cảm thấy một cơn đau nhói bên hông. Tuổi già đang bủa chụp xuống người ông. Kể từ thứ Năm tuần trước, khi Dee bước vào tiệm sách của ông, đến nay chắc hẳn ông đã già đi cả một thập kỷ rồi, dù ông chợt thấy hình như phải già đến gấp hai lần như vậy. Ông đã sử dụng luồng điện của mình quá nhiều mà không để nó kịp nạp lại khiến quá trình già càng tăng tốc nhanh hơn. Các mức năng lượng của ông suy yếu một cách nguy hiểm, và ông đang ý thức rằng nếu ông cứ thường xuyên sử dụng luồng điện của mình thì một mối nguy hiểm rất thật sẽ xuất hiện, đó là ông sẽ bốc cháy tự phát mất thôi.

Không có cuốn Codex, cả ông và Perenelle đều sẽ chết. Khóe môi Nhà Giả kim nhếch lên thành một nụ cười gượng gạo. Cuốn sách của Abraham đang ở với Dee và các chủ nhân của hắn, có khả năng là họ không chịu trả lại đâu. Nicholas duỗi thẳng chân, nhắm mắt và quay mặt về phía mặt trời, để sự ấm áp của mặt trời ôm choàng lấy ông. Ông sắp chết rồi. Không phải một ngày nào đó, không phải tại một thời điểm mơ hồ nào đó trong tương lai - ông sẽ chết rất nhanh thôi. Và rồi thì chuyện gì sẽ xảy đến cho hai đứa nhỏ sinh đôi? Sophie còn phải học thêm hai ma thuật nữa, Josh vẫn còn đến bốn; ai sẽ tiếp tục việc huấn luyện chúng đây? Nếu bọn trẻ vượt qua được tình trạng khó khăn hiện nay của chúng và sống sót, ông biết ông cần phải quyết định trước khi thần chết đòi ông trình diện. Liệu Saint-Germain có vui lòng làm cố vấn cho hai đứa nhỏ không? Ông tự hỏi - dù ông không chắc mình có hoàn toàn tin cậy nơi bá tước được không. Có lẽ còn một ai đó ở Mỹ mà ông có thể nhờ được, biết đâu có một pháp sư người Mỹ chính gốc nào đó có thể...

Con kiệt quệ đến tận xương tủy cùng với sức nóng và sự yên tĩnh của ngày hôm ấy khiến Nhà Giả kim buồn ngủ. Hai hàng mi ông chớp nhẹ, rồi dần dần khép lại, và ông rơi vào giấc ngủ khi đang ngồi tựa vào thân cây sồi.

Nhà Giả kim mơ về Perenelle.

Đó là ngày đám cưới của họ - ngày 18 tháng Tám năm 1350 - và vị tu sĩ đã tuyên bố họ là vợ chồng. Nhà Giả kim run rẩy trong giấc ngủ của mình; đây là một giấc mơ cũ, một cơn ác mộng từng ám ảnh ông hàng đêm trong suốt nhiều thế kỷ và ông biết cả những gì sắp diễn ra tiếp theo.

Nicholas và ỏ quay người khỏi bàn thờ để đối diện với toàn cảnh nhà thờ bên dưới hàng ghế giáo dân và thấy rằng tòa nhà bằng đá nhỏ bé kia đã chật ních người. Khi hai ông bà bước xuống lối đi giữa hai dãy ghế, cả hai đều phát hiện ra rằng nhà thờ đầy những cặp song sinh - trai và gái, tuổi thiếu niên, những thanh niên nam nữ - tất cả đều tóc vàng và mắt xanh lơ. Hết thảy họ đều trông giống như Sophie và Josh Newman. Và hết thảy họ đều có cùng một vẻ kinh hoàng và ghê tởm trên gương mặt.

Nicholas giật mình tỉnh dậy. Ông luôn bị đánh thức vào đúng thời điểm ấy.

Nhà Giả kim vẫn ngồi im bất động, để cho nhịp tim đang nện thùm thụp của ông dịu xuống bớt. Ông giật mình khám phá ra màn đêm đang dần buông. Không khí mát lạnh và khô ráo phủ lên lớp da rịn mồ hôi của ông. Những chiếc lá phía trên đầu xào xạc thì thầm, mùi hương của rừng nặng trịch và ngọt ngào một cách giả tạo...

Điều đó không ổn. Lẽ ra màn đêm pải có mùi cây cỏ, nhưng mùi hương của những cánh rừng nguyên sơ đến từ đâu thế này?

Một nhánh cây gãy tách rơi xuống cánh tay trái ông, những chiếc lá khô kêu lại xạo đâu đó phía bên phải và Nhà Giả kim nhận ra có cái gì đó đang chuyển động xuyên qua cánh đồng tiến thẳng về phía nhà kho.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx