sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 67 - 68 - 69

Chương sáu mươi bảy

“Ông biết bà ta là ai?” Bill the Kid vừa hỏi vừa nghiêng đầu và tiếng nói phát ra nơi khóe miệng hắn ta. Hắn ta nhìn vào lưng người phụ nữ mà bọn chúng đang đi theo, qua dãy hành lang bắng đá kim loại.

Machiavelli gật đầu. “Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau khi có việc,” y nói kín đáo. “Bà ta là Nữ thần Quạ, một người thuộc Thế hệ Kế tiếp.”

Đầu người đàn bà xoay tròn như đầu một con cú để nhìn hai người đàn ông. Đôi mắt bà ta giấu đằng sau cặp kính râm phản chiếu úp sát hai mắt. “Sao mà thính giác của tôi tốt thế.”

Billy cười toe. Hắn ta bước nhanh tới trước hai bước và đi bên cạnh người phụ nữ khoác áo lông đen. Hắn ta chìa tay ra. “William Bonney, thưa quý bà. Hầu hết mọi người cứ gọi tôi là Billy.”

Nữ thần Quạ nhìn bàn tay rồi mỉm cười, mấy cái răng cửa dài quá khổ nhấn lên đôi môi đen bầm. “Đừng chạm vào tôi. Tôi cắn đó.”

Billy không lấy gì làm phiền hà. “Tôi đã là người bất tử khá lâu rồi, hơn một trăm hai mươi sáu năm một chút, mà quả thật, tôi chưa từng thấy được nhiều Elder và Thế hệ Kế tiếp. Chắc chắn không ai như bà...”

“William,” Machiavelli điềm đạm nói, “tôi nghĩ anh nên dừng lại đừng làm phiền Nữ thần Quạ nữa.”

“Tôi có làm phiền bạn ấy đâu ạ, tôi chỉ hỏi...”

“Anh là người bất tử, William, chứ không phải là người không thể bị tấn công đâu nhé.” Machiavelli mỉm cười. “Morrigan được tôn kính trong các vùng đất của người Celt như một nữ thần chết chóc. Chừng đó đủ cho thấy bản chất của bà ấy.” Đột nhiên y nín bặt. “Đó là cái gì vậy?”

Bàn tay Billy the Kid thọc tay vào dưới lớp áo khoác và rút ra một con dao găm dài gần bốn tấc. Nét mặt thay đổi hẳn, ngay lập tức trở nên cứng đờ. “Cái gì?”

Machiavelli giơ bàn tay lên, có ý bảo anh chàng người Mỹ im lặng. Đầu nghiêng nghiêng, y tập trung hết sức. “Nghe như...”

“... có tiếng động cơ nổ ngoài chỗ con thuyền!” Billy the Kid vụt chạy đi. Machiavelli liếc nhanh qua Nữ thần Quạ thoáng nghi ngờ và quay người phóng trở lại xuống hành lang.

Ít phút sau con nhân sư lượn nhẹ qua góc nhà. Mụ ta chợt trông thấy Nữ thần Quạ và dừng lại, hai người phụ nữ cúi chào nhau thật lịch sự. Họ có họ hàng xa thông qua một mạng lưới phức tạp các mối quan hệ của Elder. “Tôi nghĩ mình nghe cái gì đó,” con nhân sư nói.

“Họ cũng nghe như thế.” Nụ cười của Nữ thần Quạ thật man rợ.

Nicholas không bao giờ học lái, nhưng cuối cùng cách đây mười năm Perenelle lại bắt đầu học, và sau sáu tuần học lái, bà đã đậu ngay lần thi đầu tiên. Họ chưa bao giờ mua một chiếc xe, nhưng Perenelle không hề quên một bài học nào. Bà chỉ mất vài phút để tìm ra cách kiểm soát chiếc thuyền máy nhỏ màu vàng chói này. Bà vặn chìa khóa cắm nơi bộ phận đánh lửa rồi đẩy van tiết lưu, và con thuyền có động cơ gắn ngoài tung bọt trắng xóa. Xoay bánh lái, bà đẩy van tiết lưu lên chút nữa và chiếc thuyền gầm rú rời khỏi Đào Atcatraz, để lại một đường nước trắng xóa hình chữ V ngay sát đằng sau.

Khuôn mặt de Ayala đông lại thành một khối từ màn bụi nước phun lún phún ở đầu mũi thuyền. “Tôi tưởng bà sẽ chiến đấu chứ.”

“Chiến đấu là phương sách cuối cùng,” bà la lớn át đi tiếng gió và tiếng gầm rú của động cơ. “Nếu Scathach và Joan tham gia cùng với tôi, ắt hẳn khi đó tôi sẽ chống cự được con nhân sư và hai tay bất tử kia. Nhưng có một mình tôi thì không được đâu.”

“Còn Thần Nhện thì sao?”

“Areop-Enap có thể tự lo cho mình mà,” Perenelle nói. “Hy vọng lớn nhất của bọn họ là không có mặt trên hòn đảo khi bà ta thức dậy. Bà ta sẽ cảm thấy đói, và Lão Nhện phàm ăn ghê lắm.”

Một tiếng la ơi ới từ đàng xa khiến bà quay lại. Machiavelli và bạn đồng hành của y đang đứng trên cầu tàu. Tay người Ý đứng yên, còn người đàn ông nhỏ thó hơn đang vẫy lia lịa hai cánh tay, ánh mặt trời phản chiếu làm lóe sáng con dao trong tay hắn ta.

“Họ sẽ không đùng dến pháp thuật của họ chứ?” de Ayala hỏi.

“Pháp thuật thật sự không có tác dụng đối với dòng nước đang chảy đâu.” Perenelle cười toe.

“E là tôi phải để bà lại đây thôi, thưa quý bà. Tôi cần phải quay trở lại hòn đảo.” Khuôn mặt của hồn ma bắt đầu tan ra thành bụi nước.

“Cảm ơn, Juan, vì tất cả những gì ông đã làm,” Perenelle nói một cách chân thành bằng tiếng Tây Ban Nha trang trọng. “Tôi nợ ông.”

“Bao giờ bà trở lại Atcatraz?”

Perenelle ngoái người ra phía sau nhìn nhà tù. Ý thức rằng bây giờ những xà lim đang giữ trong lòng chúng một bộ sưu tập đáng sợ, bà nghĩ bản thân hòn đảo trông gần giống như một con quái thú đang yên ngủ. “Tôi sẽ trở lại.” Hẳn phải có ai đó alfm gì đạo quân này trước khi chúng được đánh thức chứ. “Tôi sẽ quay lại. Và sớm thôi.” bà hứa.

“Tôi sẽ chờ,” de Ayala nói, rồi biến mất.

Perenelle bẻ góc con thuyền hướng về phía trụ cầu và nhả van tiết lưu. Một niềm vui sướng lan tỏa khắp khuôn mặt bà. Bà được tự do rồi.

Niccolò Machiavelli hít thở sâu và tự trầm tĩnh lại. Cơn giận sẽ làm mờ đi khả năng phán đoán, và ngay bây giờ y cần phải suy nghĩ thật rõ ràng. Hắn đã đánh giá thấp Nữ Phù thủy, và bà ta đã khiến y phải trả giá cho sai lầm ấy. Điều này không thể tha thứ được. Y đã được phái đến Atcatraz để giết Perenelle và y đã thất bại. Cả chủ nhân của y lẫn chủ nhân của Dee sẽ không vui, tuy nhiên y có cảm giác rằng bản thân Dee sẽ không quá bực bội. Tay Pháp sư người Anh có thể còn hả hê nữa là khác.

Mặc dầu khá gờm Nữ Phù thủy, nhưng Machiavelli thật sự muốn đánh nhau một trận với người phụ nữ ấy. Y không bao giờ tha thứ cho bà ta vì đã đánh bại y trên ngọn Mount Etna và qua nhiều thế kỷ hắn đã tốn kém cả một gia tài để thu nhập các câu thần chú, bùa phép và thuật phù thủy để hòng tiêu diệt bà ta. Y kiên quyết báo thù. Vậy mà bà ta đã lừa được y. Không dùng đến một chút phép thuật, hoặc một chút luồng điện nào. Nhưng chỉ bằng sự láu cá khôn lanh... và đó được xem là bài học nhớ đời của y.

“Ngăn bà ta lại,” Bill hét. “Làm cái gì đó đi chứ!”

“Anh có im đi một lúc được không?” y nạt anh chàng người Mỹ. Y rút điện thoại di động ra. “Tôi phải báo cáo và thật sự tôi không mong chuyện này tí nào. Người ta không bao giờ nên là người mang tin xấu đến.”

Và rồi, ở bên kia vịnh, Ông Già Biển bất ngờ xuất hiện trên mặt nước, ngay phía trước chiếc thuyền. Những lúc tu bạch tuộc quấn chặt quanh con thuyền nhỏ, khiến nó lắc mạnh và dừng sựng lại. Perenelle văng đâu mất, có vẻ như bị cú dừng đột ngột ném ngược ra đằng sau.

Machiavelli cho điện thoại vào túi trở lại; có lẽ cuối cùng hẳn y cũng có được một tin tốt lành nào đó để mà báo cáo chứ.

Giọng Nereus vang vang trên khắp mặt nước, những lời của lão ta ngân rung vượt lên những ngọn sóng. “Tôi biết chúng ta sẽ gặp lại nhau mà, Nữ Phù thủy.” Machiavelli và Billy chăm chú quan sát khi Elder gớm guốc kia trồi lên khỏi mặt biển và ngồi chồm hổm vắt ngang qua mũi thuyền, mấy cái cẳng chân quằn quại. Gỗ kêu cọn kẹt và nứt ra, tấm kính chắn gió nhỏ bị vỡ vụn và trọng lượng của sinh vật ấy ở phía trước mũi thuyền làm cho phần đuôi thuyền chĩa thẳng đứng lên khỏi lớp sóng, động cơ gắn ngoài của nó vẫn tiếp tục rền rĩ dữ dội.

Lấy tay che mắt, Machiavelli quan sát thấy Nữ Phù thủy đứng vụt dậy. Bà ta đang cầm một ngọn giáo gỗ khá dài bằng cả hai tay. Ánh mặt trời nhấp nháy một màu vàng ánh kim loang loáng trên thứ vũ khí ấy, rạch một đường khói trắng trong không trung. Y trông thấy bà ta đâm một lần, hai lần, ba lần vào cẳng chân sinh vật kia rồi mớ quơ tròn ngọn giáo thọc mạnh vào ngực Nereus. Nước phun lên, phun ra những tia nước cao chót vót, khi Ông Già Biển tuyệt vọng bò toài ra khỏi lưỡi giáo, Elder kia ngã nhào ra khỏi mũi thuyền và biến mất dưới lớp lớp sóng nước, như một vụ nổ sủi đầy bọt bong bòng. Con thuyền ổn định trở lại trên mặt nước, động cơ khuấy tung bọt lên và bắn nước văng tung tóe, rồi lại phóng vọt tiến lên. Ba cái cẳng chân dài nhằng vẫn còn đang ngó ngoáy vặn vẹo bị tuột khỏi chiếc thuyền máy và trôi giạt trên mặt sóng nhấp nhô. Toàn bộ cuộc so tài diễn ra trong vòng chưa đầy một phút.

Machiavelli thở dài và lại rút điện thoại ra. Sau cùng thì y chẳng có tin tức gì tốt để báo cáo; có phải ngày hôm nay càng lúc càng tồi tệ không? Một thoáng bóng tối che ngang phía trên đầu và y ngước nhìn lên vừa kịp trông thấy hình dáng khổng lồ của Nữ thần Quạ bay ngang qua. Mụ ta bay vút lên cao, tấm áo choàng đen giang rộng như đôi cánh, rồi bổ nhào xuống gọn ơ phía sau chiếc thuyền máy màu vàng kia.

Tay người Ý chợt mỉm cười. Tất nhiên rồi, đơn giản là Nữ thần Quạ sẽ kéo Nữ Phù thủy ra khỏi chiếc thuyền rồi Ông Già Biển có thể đánh chén được một bữa ngon lành. Nụ cười của y nhạt ngay khi y nhìn rõ hai người phụ nữ - Thế hệ Kế tiếp và người bất tử - ôm lấy nhau. Ngay lúc họ quay người đưa tay vẫy vẫy hòn đảo sau lưng, khuôn mặt y chợt biến thành một chiếc mặt nạ dữ tợn đầy sát khí.

“Tôi tưởng Nữ thần Quạ thuộc phe chúng ta chứ,” Billy the Kid nói nghe như ai oán.

“Trong những ngày này, có vẻ như không thể tin bất cứ ai được,” Niccolò Machiavelli vừa nhận xét, vừa quay người quày quả bỏ đi.

Chương sáu mươi tám

Đạo quân Wild Hunt phóng ra khắp vùng đồng bằng Salisbury Plain.

Những sinh vật mà Sophie và Josh chỉ mới thoáng thấy lúc nãy giờ đã đến gần hơn. Một số đã có thể nhận diện được: những con chó đen và những con sói xám, những con mèo khổng lồ mắt đỏ ngầu, những con gấu đồ sộ, những con lợn lòi đực nanh cong vòng, những con dê, con hươu đực và ngựa. Một số khác cùng bọn với loài Hunt: những dáng vẻ giống hình thù con người được chạm khắc vào đá; những sinh vật da khô như vỏ cây, tóc như lá cây và chân cẳng khẳng khiu như những nhành cây phóng tiếp theo sau chúng. Sophie và Josh nhận ra có nhiều bọn Genii Cucullati hơn, Bọn Trùm Đầu ấy; hai đứa nhìn thấy nhóm cucubuth dao đầu cạo nhẵn thín tay cầm những khúc dây xích, và những tên kỵ sĩ La Mã mặc những bộ giáp vấy bẩn đổi màu và gỉ sét ăn mòn. Những chiến binh mang hình xăm khắp người mặc áo lông thú và những sĩ quan chỉ huy người La Mã trong những bộ giáp nứt gãy đi khập khiễng phía sau bọn Dearg Due tóc đỏ. Và đang chạy giữa đám quái thú ấy là những con người trông hoàn toàn bình thường, mang kiếm, dao và giáo mác, Josh thấy đây mới là nhóm đáng sợ nhất trong hết thảy.

Cặp song sinh nhìn sang Stonehenge tối lờ mờ, không mấy rõ ràng trong màn đêm, và biết rằng hai đứa sẽ không sao kịp đến đó được. “Chúng ta sẽ phải dừng lại chiến đấu,” Josh nói hổn hển, phân tích tình hình và những lựa chọn đầy giới hạn của bọn họ. “Tôi còn chút ít năng lượng... Có lẽ tôi có thể gọi thêm một ít mưa nữa...”

Một tiếng hú the thé vang vọng khắp Salisbury Plain. Đầu Josh chúi xuống và cậu trông thấy một chuyển động ở bên phải - một nhóm khác nữa đang di chuyển đến để kết liễu cả nhóm mất thôi. “Rắc rối to,” cậu khẳng định.

“Trái lại là khác,” Palamedes cười toe. “Nhìn lại xem.”

Và rồi Josh nhận ra dáng người đi đầu nhóm. “Shakespeare!”

Đại Thi hào dẫn nhóm Gabriel Hounds len vào từng ngóc ngách. Nhóm Rachet được huấn luyện kỹ tràn vào đạo quân ô hợp kia, bắt chúng phải dừng sựng hẳn lại. Những ngọn giáo bằng sắt và những thanh kiếm bằng kim loại lóe sáng lên trong đêm và một màn bụi nữa nhanh chóng tung lên khắp cánh đồng.

William Shakespeare, mặc bộ giáp nguyên người hiện đại của cảnh sát và chiếc nón bảo hiểm có tấm kính che mặt, bước ngang hàng với Palamedes. “Gặp nhau thú vị nhỉ,” ông nói.

“Tôi tưởng là tôi đã nói với ông đừng chờ cho đến sau khi mặt trời lặn chứ,” Hiệp sĩ Saraceh nói.

“Ồ, mọi việc sẽ đến cho ai biết chờ đợi.” Shakespeare nói. “Mà anh biết có thế nào tôi cũng không bao giờ nghe lời anh kia mà,” Đại Thi hào nói thêm với một nụ cười bẽn lẽn. “Hơn nữa, bằng vào việc không có gì di chuyển trên đường, tôi đoán thế nào anh cũng phải tìm một chỗ để ẩn nấp cho tới khi trời tối.”

Palamedes ném phịch Nhà Giả kim đang bất tỉnh xuống đát và bắt đầu vỗ vào má Flamel. “Dậy đi, Flamel. Dậy đi. Chúng ta cần phải biết hòn đá nào.”

Đôi mắt màu nhạt của Nicholas nhấp nháy mở ra. “Đến Phiến đá Bệ thờ,” ông thều thào nghe khản đặc.

Gabriel xuất hiện trong bóng đêm. Da thịt trơn tru của anh ta vằn vện những muội bồ hóng. Bồ hóng phủ cả trên tóc. “Chỉ là bọn chúng quá nhiều, cứ mỗi phút lại càng đến đong hơn,” anh ta nói hổn hển. “Chúng tôi không giữ bọn chúng nổi đâu.”

Josh chỉ tay về phía vòng tròn do những hòn đá xếp thành. “Kéo mọi người trở lại Stonehenge.” Cảm giác yên lành cậu đã từng cảm thấy lúc nãy giờ lại tràn ngập lấy cậu. Không còn quyết định nào khác. Một lần nữa tất cả những gì cậu phải làm là đứng lên chiến đấu. Cậu phải bảo vệ cô chị gái cậu cho đến cùng. Ấn bàn tay vào ngực, cậu cảm giác hai trang của cuốn Codex kêu sột soạt bên dưới làn áo. Có lẽ đã đến lúc phải thủ tiêu chúng, tuy cậu hoàn toàn không rõ phải làm thế nào. Có lẽ nên ăn chúng đi. “Mọi người quay trở lại,” cậu la lớn. “Chúng ta sẽ mở đợt kháng cự cuối cùng ở đó.”

Chương sáu mươi chín

“Việc đó không cần thiết đâu,” Shakespeare gắt lên. “Bọn Wild Hunt và những sinh vật khác có mặt ở đây là vì cậu và chị gái của cậu, chúng bị thu hút bằng mùi hương luồng điện của cậu và phần thưởng to lớn của Dee đang treo trên đầu hai người. Vì thế tất cả những gì chúng ta phải làm là tách rời khỏi hai người ra. Palamedes, Gabriel,” Đại Thi hào ra lệnh. “Dùng kế hoãn binh.”

Hiệp sĩ Saracen gật đầu. Bộ giáp lồi lõm của anh ta hình thành và sắp xếp trở lại khắp người anh ta, hóa nên trơn láng, đen và phản chiếu lấp loáng. Nắm chặt thanh trường kiếm khổng lồ bằng cả hai tay, anh ta lao người về phía bọn sói và bọn mèo đen. Gabriel dẫn nhóm Rachet sát theo phía sau anh ta.

Shakespeare giúp Nhà Giả kim và Josh ôm Sophie dựng đứng lên, và cả bốn theo đường giữa hai cột sa thạch cao đi vào giữa lòng Stonehenge.

Đúng ngay lúc Josh bước vào vòng tròn ấy, cậu cảm nhận được tiếng kêu vo vo của năng lượng cổ xưa. Tiếng kêu đó nhắc cậu nhớ đến những cảm giác cậu đã nếm trải khi cầm thanh Clarent trong tay mình, cảm thấy như có tiếng nói ngay nơi bờ rìa của thính giác cậu. Cậu nhìn quanh, nhưng thật khó để nhận ra hình thù của những hòn đá trong đêm tối thế này.

“Nơi này tính đến nay đã bao nhiêu tuổi rồi ạ?” cậu hỏi.

“Chỗ già nhất có lẽ đến năm ngàn năm tuổi, nhưng có thể còn già hơn thế,” Shakespeare đáp. Thình lình ông ta va vào một hòn đã nằm ềnh trên đất. “Đây đúng là Phiến đá Bệ thờ,” ông ta nói với Nhà Giả kim.

Nicholas Flamel nằm mọp người trên hòn đá ấy, hơi thở nặng nề, một bàn tay ấn vào ngực mình. “Định hướng giúp tôi với,” ông khò khè. “Hướng nào là hướng bắc?”

Theo bản năng, cả Shakespeare và Josh đều ngước lên nhìn bầu trời, tìm sao Bắc cực.

Một con mèo đen khổng lồ nhảy qua cánh cổng, há ngoác miệng, chân xòe móng vuốt lao thẳng vào Nhà Giả kim. Flamel dựng hai tay lên đỡ và những cái vuốt sắc như dao cào vào lòng bàn tay ông; liền sau đó cây dùi cui cnahr sát của Shakespeare đập liên hồi, đánh sinh vật ấy văng vào không trung. Con mèo đâm sầm xuống hòn đá lớn kia và tan thành bụi. “Như kim loại, đá là chất độc đối với bọn chúng,” Đại Thi hào nói ngay. “Chúng không thể chạm vào mấy thứ này; đó là lý do tại sao chúng không nhảy xổ vào chúng ta. Nhà Giả kim, nếu ông muốn làm gì, thì ông cần phải làm ngay bây giờ đi.” Ông ta chỉ tay. “Hướng này là hướng bắc nè.”

“Tìm một trilithon thật hoàn hảo ở vị trí thứ ba phía bên trái,” Flamel thều thào.

“Cái gì vị trí thứ ba ạ?” Josh hỏi, rất lúng túng.

“Trilithon. Hai hòn đá dựng đứng đỡ một hòn nằm ngang bên trên,” Shakespeare giải thích. “Tiếng Hy Láp của ‘ba hòn đá’ ấy mà.”

“Giúp tôi với,” Nicholas nói.

Shakespeare nắm lấy tay Nhà Giả kim và dìu ông đến hai hòn đá khổng lồ dựng đứng. Len vào khe hẹp giữa hai hòn đá, Nicholas đặt hai tay hai bên, với cao hết sức mình, rồi dạng chân rộng cho tới khi thân mình ông làm thành một hình chữ X ngay giữa hai hòn đá.

Bầu khí đêm lạnh lẽo thoang thoảng mùi hương bạc hà.

Ngay sau lưng Nhà Giả kim, một con gấu vô cùng to lớn giương mấy cái vuốt ra quào quào rạch rạch phía trên đầu ông. Nhưng Hiệp sĩ Saracen kéo giật ngược sinh vật ấy ra sau rồi quăng nó thẳng vào nhóm Gabriel Hounds. Cả nhóm đồng loạt nhảy xổ vào, miệng hú vang hoang dại. Bụi đất cuồn cuộn bốc lên.

Một nhóm ba con sói phóng thẳng vào Flamel. Josh đánh cược một con bằng thanh kiếm shamshie và Gabriel hạ gục một con khác. Josh chém phạt xuống con thứ ba và nó tránh được cú chém ấy, nhưng khi tránh được lưỡi kiếm, nó lại chạm lướt qua hòn đá đứng - và liền tan thành bột nhuyễn.

Đột nhiên Josh nhận ra rằng nhóm Gabriel Hounds chỉ còn chưa đầy một dúm sống sót và họ đang bị dồn lùi vào vòng đá dựng đứng. Một kỵ sĩ không đầu cưỡi trên một con ngựa chỉ còn là một bộ xương từ đằng sau phóng lên, đập móng guốc trúng vào một trong số những con chó còn lại, xô nó đổ sầm xuống một hòn đá. Con chó liền tan biến ngay, chỉ để lại duy một đường viền bằng bụi trong không trung.

“Nhà Giả kim,” Shakespeare cảnh báo, “làm cái gì đi chứ.”

Nicholas ngồi thụp xuống đất. “Tôi không làm nổi.”

“Chú có chắc đây đúng là cổng tuyến không?” Josh hỏi.

“Chắc. Chú không còn gì hết.” Ông ngước nhìn lên cặp song sinh và trong thoáng chốc Josh nghĩ mình vừa thấy có gì đó trong ánh mắt của người bất tử này. “Sophie, Josh, hai đứa phải làm việc này thôi.”

“Đứa con gái kiệt sức lắm rồi,” Đại Thi hào nói ngay. “Sử dụng luồng điện sẽ làm con bé bùng cháy mất.”

Nicholas nhoài người nắm lấy bàn tay Josh, kéo cậu ra phía trước. “Vậy thì phải là cháu thôi.”

“Cháu hả? Nhưng mà cháu...”

“Cháu là người duy nhất có luồng điện có thể làm chuyện này.”

“Còn lựa chọn nào khác không?” Josh hỏi. Cậu có cảm tưởng rõ ràng rằng đây là một kế hoạch mà Nhà Giả kim đã vạch ra ngay từ đầu. Flamel không bao giờ có đủ năng lượng để kích hoạt cổng tuyến.

“Không còn đâu.” Nhà Giả kim chỉ vào những sinh vật đang kéo đến ngay phía ngoài những hòn đá. Rồi ông chỉ tay lên trên. Một ngọn đèn pha đang lia khắp cảnh vật phía trước bọn họ. Hai ánh đèn khác ngay phía sau. “Trực thăng cảnh sát,” ông nói. “Họ sẽ đến đây trong ít phút nữa thôi.”

Josh đưa cho Flamel thanh gươm shamshir trầy xước và lưỡi hơi cong cong. “Cháu phải làm gì?”

“Đứng ngay chính giữa đưa cánh tay lên trời và dang rộng cẳng chân ra. Hãy hình dung luồng điện của cháu đang chảy ra khỏi thân thể mình hướng thẳng vào mấy hòn đá. Chừng đó là đủ để kích hoạt chúng.”

“Mà phải làm nhanh lên đi,” Shakespeare nói. Nhóm Gabriel Hounds chỉ còn chưa đến một chục, còn Palamedes giờ đã bị cắt đường và đang bị bọn bogman bao vây, chúng liên tục vụt những con dao găm bọc đá lửa vào người anh ta làm bộ giáp của anh ta kêu chan chát và tóe lửa. Những con soi và mèo lại lảng vảng ngay bên ngoài vòng đá.

“Để cháu giúp thằng em cháu,” Sophie thều thào.

“Không được,” Shakespeare nói. “Nguy hiểm lắm.”

Luồng điện của Josh chợt bốc hơi ngay khi cậu ấn người vào giữa mấy hòn đá, hơi tỏa ra khỏi da thịt cậu biến thành một làn khói màu vàng. Dang tay ra, cậu đặt lòng bàn tay mình thẳng bẹt lên mặt sa thạch nhẵn thín và mùi hương cam thơm phưng phức ngày càng đượm nồng hơn.

Mùi hương làm cho bọn sinh vật ngoài vòng đá điên cuồng dữ tợn. Chúng càng nỗ lực gấp đôi để bắt cho được hai đứa nhỏ sinh đôi. Shakespeare và Gabriel chốt giữ hai vị trí hai bên hòn đá, cố gắng hết sức để ngăn không cho chúng đến gần Josh.

Josh duỗi người cho bàn chân trái chạm một hòn đá dựng, và ngay khi bàn chân phải chạm vào hòn đá dựng kia, thì âm thanh mà cậu nghe trong đầu lúc mới bước vào vòng tròn xưa cổ ấy mới thật trong trẻo rõ ràng. Đột nhiên cậu nhận ra rằng sao mà âm thanh đó quen thuộc đến thế. Tất cả đều là một cung giọng duy nhất - cung giọng của thanh Clarent và Excalibur đã được nên hình nên dạng từ cùng một loại đá lửa giống như những hòn đá to lớn màu xanh lơ từng tạo nên tổng thể vòng tròn cổ xưa này. Cậu nhìn thấy những gương mặt cả người lẫn không phải người, và một số lại là sự pha trộn kinh khủng của cả hai, của những người sáng tạo nguyên thủy nên vùng Henge này. Không phải tuổi thọ của Stonehenge là năm ngàn năm đâu; phải hơn thế, hơn nhiều, hơn rất nhiều nữa kia. Cậu thoáng thấy bóng Cernunnos, ngời sáng và xinh đẹp, không có sừng, mặc toàn trắng, đang đứng trong tâm vòng đá, giơ cao một thanh kiếm tầm thường đơn giản bằng cả hai tay.

Nhưng trong khi cột đá bên trái Josh kê tanh tách và chiếc ra ánh sáng vàng rực, thì cột đá bên phải lại vẫn tối om.

Flamel chém lên một con lợn lòi đực xông vào vòng tròn. Ông quay người sang Sophie. “Cháu phải giúp cậu ấy thôi.”

Cô bé gái quá kiệt quệ chỉ vừa đủ sức để đứng vững. Cô bé nhìn Nhà Giả kim, cố sắp xếp từng lời trong đầu mình. “Nhưng Will bảo rằng nếu cháu còn sử dụng luồng điện của mình nwuax, cháu có thể bùng cháy thành ngọn lửa đó.”

“Nhưng nếu cổng tuyến không mở, thì tất cả chúng ta chết hết,” Flamel càu nhàu. Nắm lấy vai Sophie, ông đẩy cô bé tới hòn đá. Cô bé bước loạng choạng trên mặt đất gồ ghề, vấp chân và ngã chúi xuống, cánh tay sải rộng... và mấy đầu ngón tay cô bé lướt qua phiến đá. Mùi hương vanilla tràn ngập, và rồi hòn đá ấy chợt sáng bùng lên. Làn sương mù màu bạc đùng đục cuộn xoắn bốc len khỏi hòn đá và rồi thắp sáng hòn đá ấy từ bên trong, cho tới khi mấy cột đá của trilithon đều rừng rực màu bạc và vàng ánh kim, riêng hòn đá nằm ngang phía trên lại bừng sáng màu cam.

Đang là buổi tối trên vùng đồng bằng Salisbury Plain, nhưng giữa những hòn đá, hiện ra một sườn đồi tràn ngập ánh nắng chói chang.

Josh nhìn chăm bẳm vào cảnh tượng ấy mà lòng đầy kinh ngạc. Cậu thật sự có thể ngửi thấy mùi cỏ và cây xanh, cảm nhận được sức sống mùa hè trên da mặt mình và nếm được thoang thoảng rất nhẹ vị muối trong không khí. Cậu quay đầu lại; đằng sau cậu là bóng đêm, những ngôi sao cao tít tắp trên các tầng trời; trong khi phía trước cậu lại là ban ngày. “Ở đâu đây?” cậu thều thào.

“Mount Tamalpais,” Flamel nói với vẻ đắc thắng. Kéo Sophie đứng dậy, ông dìu cô bé đi về phía khoảng trống và ánh sáng. Ngay khi mấy đầu ngón tay của cô bé rời khỏi, cột đá liền nhạt đi ngay.

“Đi nào,” Shakespeare nói. “Đi ngay đi...”

“Bảo Palamedes...”

“Tôi biết rồi. Ra khỏi đây đi. Ngay đi.”

“Thật là một vở kịch mà tụi cháu ắt hẳn vừa vãn tuồng!” Nhà Giả kim vừa nói, vừa vòng tay ngang eo Josh, kéo cặp sinh đôi đang đứng giữa những hòn đá chiếu sáng rực bước vào phong cảnh cỏ cây ngút ngàn ở phía bên kia trái đất.

“Tôi không bao giờ thích viết ra những bi kịch,” William Shakespeare thì thầm.

Ánh sáng màu vàng óng ánh lịm dần ngay lúc bàn tay Josh rút ra, và mùi hương cam cùng hương vanilla tan biến mất, thay thế bằng mùi xạ thơm của Gabriel và duy nhất một Rachet còn sống sót.

Đạo quân Wild Hunt và Thế hệ Kế tiếp, những người bất tử và những kẻ tấn công con người ngay lập tức nhạt nhòa vào bóng đêm trở lại, không còn để lại gì đằng sau chúng ngoại trừ bụi đát, những cánh đồng xanh ngát ngập ngụa trong đống đổ nát hỗn độn lầy lội. Palamedes lảo đảo bước ra khỏi bóng đêm. Bộ giáp của anh ta bị trầy xước và sứt mẻ, thanh gươm to bản dềnh dàng nứt tách ra làm hai. Tình trạng kiệt sức làm tiếng nói của anh ta có trọng âm không rõ ràng. “Chúng ta cần phải ra khỏi đây trước khi cảnh sát đến.”

“Tôi biết một nơi,” Shakespeare nói. “Gần đây lắm, một nhà kho thời vua Edward II được bảo quản tới mức hoàn hảo.”

Palamedes siết chặt bả vai Đại Thi hào. “Tôi e rằng chẳng được bảo quản hoàn hảo gì mấy đâu.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx