sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu nữ - Chương 14 - 15

CHƯƠNG MƯỜI BỐN

Prometheus giơ bàn tay mang găng kim loại. “Khoan đã. Chúng ta chỉ mới sắp lên đến đỉnh thôi.”

Chiếc vimana Rukma tàn phế treo lưng chừng trên không một chút. Bất chợt tròng trành. Đồng loạt, tất cả mọi màn hình tối thui đều lắc rắc vỡ tan, những đường ray kim loại dưới sàn bung ra, đinh ốc và bu lông văng bật khỏi vách, và một chút lửa nhỏ xíu bắt cháy trong các bảng điều khiển dưới chân Prometheus. Ông ta đưa chân giậm tắt.

“Vậy bây giờ chúng ta rớt xuống hả?”

Chiếc vimana Rukma lao xuống. William Shakespeare biến tiếng thét the thé đến ngạc nhiên thành một tràng ho.

Hiệp sĩ Saracen da nâu nhoài người vỗ vào cánh tay ông ta. “Tôi bảo đảm người đã viết quá nhiều về cái chết chắc hẳn phải nghĩ nhiều về nó lắm nhỉ. Ông đã từng viết về sự hấp hối mà, Will,” Palamedes nói.

“Nhiều,” Shakespeare nói, giọng đứt quãng. “Nhưng đâu có viết nhiều về tình huống rơi, ngã nhào, và đổ ầm vào một quả banh lửa thế này.”

“Tôi nghi ngờ chẳng biết có lửa hay không,” Prometheus nói.

“Thế thì càng dễ chịu. Chỉ có rơi, ngã nhào, và đổ ầm chút thôi.”

Joan Arc chồm tới trước. “Tôi luôn thích câu ông viết ‘Vì trong giấc ngủ nơi cõi chết ấy, những gì là giấc mơ sẽ ùa đến...’ Rất thơ mộng. Thế mới đúng là tính đa cảm của người Pháp. Tôi từng ngạc nhiên là câu ấy đã được viết bởi một người Anh,” cô nói thêm kèm theo một nụ cười mím chi thật nhẹ.

“Hamlet,” Will vừa nói, vừa cười yếu xìu. “Một trong những tác phẩm ưa thích của tôi.”

Palamedes cười toe, hàm răng trắng tương phản với gương mặt sậm màu. “Nhưng còn câu này thì sao: ‘Ôi, sự tiêu diệt, phá hủy và suy tàn, tồi tệ nhất là cái chết, cái chết sẽ chiếm lấy cuộc đời hắn’.”

“Lời từ miệng Richard đệ nhị đấy,” Shakespeare nói. “Hi vọng anh đã ngẫm nghĩ về câu nói ấy. Một câu nói hay, mặc dù chính tôi đã viết ra.”

Saint-Germain bắt tréo chân. “Tôi phải thừa nhận mình luôn là một phần của King John: Thần chết ơi, thần chết, ôi thần chết mới dễ thương làm sao, đáng yêu làm sao!... Hãy đến, nhe răng ra với ta, và ta sẽ nghĩ là ngươi đang cười.” Ông liếc qua vợ mình. “Một tính chất rất Pháp nữa, em có nghĩ thế không?”

“Rất đa cảm. Will, chắc hẳn ông phải có máu Pháp đâu đó trong người,” cô nhất định.

Đại Thi Hào chắp tay đặt trong lòng, gật đầu lịch sự. Như hầu hết các nhà văn, ông rất thích nói về tác phẩm của minh, và có thể thấy ông phấn khởi với chủ đề này. “Đúng, tôi đã sống với một gia đình người Pháp theo đạo Tin Lành ở Cripplegate tại London một thời gian.”

“Một người Pháp có thế lực. Tôi biết thông tin đó!” Joan vừa nói, vừa vỗ tay.

“Hết thảy mọi người đã nói xong những lời trích dẫn về cái chết chưa?” Scathach gắt.

“Ồ, tôi còn có nhiều hơn,” Shakespeare đề nghị.

“Đủ rồi!” Scathach nhắm mắt, hít thở sâu. Có lần người ta đã bảo cô sẽ chết tại một nơi xa lạ, và cô đoán không đâu xa lạ hơn trong một chiếc vimana bên trên hòn đảo huyền thoại Danu Talis.

Cái chết không khiến cô sợ hãi - cô đã trải qua trọn cả đời mình trong vai trò là một chiến binh. Luôn luôn có khả năng dẫn đến cái chết, và qua nhiều thiên niên kỉ, cô đã tiến đến rất sát không ít hơn một lần đâu. Cô chỉ có một hối tiếc duy nhất đó là sẽ không được gặp lại chị mình nữa. Aoife đã hi sinh sự sống để kìm giữ Coatlicue đáng khiếp sợ cách xa khỏi Vương quốc Bóng Tối này và xa khỏi Scathach. Bây giờ Aoife đã bị nhốt trong thế giới không ánh sáng của Coatlicue, bị kết án phải chịu đựng vĩnh viễn trừ phi được ai đó giải cứu. Song ai sẽ giải cứu cô ấv kia chứ? Ai sẽ dại dột liều lĩnh - hay là dũng cảm - đủ để mạo hiểm đi vào địa hạt của Coatlicue? Scathach đã thề sẽ giải cứu chị mình, và lúc này có vẻ như cô sẽ không thể giữ lời hứa đó được nữa rồi.

“Cậu, dường như cậu không quá quan tâm đến cái chết sắp đến của chúng ta nhỉ?” cô nói với Prometheus.

“Cô gái, đây là lần cuối cùng, tôi không phải là cậu của cô.” Elder tóc đỏ cáu kỉnh.

“Chưa đấy thôi.” Bóng tối gắt trả lại. “Nhưng vào thời thứ một trăm, ông sẽ thế. Bây giờ, chúng ta sắp đâm sầm xuống và chết có phải không?”

“Đâm sầm thì đúng. Chết thì có thể. Còn tùy thuộc vào các tính toán của tôi có đúng không.”

Scathach bật ra khỏi chỗ ngồi, loạng quạng đụng vào lổ cửa sổ nứt gãy.

Họ đang lao thẳng xuống một khu rừng. Scathach lắc đầu. Điều đó không thể được. Họ đã lên rất cao, và chưa rơi nhanh đủ hoặc lâu đủ. Làm thế nào lại có những cây gần đến thế được?

Đột nhiên cô nhận ra không phải là đám cây. Một cái cây, chỉ một thôi. Họ đang rơi vào bên sườn của một cái cây duy nhất.

Scathach nhào qua buồng lái, bật nảy tưng khỏi vách, săm soi nhìn qua hết lỗ cửa sổ này đến lỗ cửa sổ khác. Cái cây sao mà đồ sộ. Khổng lồ và uốn éo, nó lùm lùm trước mặt họ như một bức tường màu xanh to lớn hết sức. Cô nghển cổ, nhìn lên nhìn xuống. Cành cây biến mất vào tán rừng xa tít bên dưới, và chóp cây cao vút lên chín tầng mây, vươn mãi vào chín tầng trời. Cô chỉ nhìn vào một phần nhỏ xíu của nó thôi, nhưng phần đó thật to lớn khổng lồ.

“Yggdrasill,” cô nói rất khẽ.

“Cây Duy Nhất,” Prometheus xác nhận.

“Cây Yggdrasill nguyên thủy của Danu Talis,” Scathach nói đầy vẻ kính nể.

“Cây nguyên thủy ư? Đây là cây duy nhất trong chủng loại của nó mà.”

Scathach há miệng định trả lời nhưng ngậm lại, không nói nữa. Trước đây cô đã từng nhìn thấy Yggdrasill. Nhưng thân cây cô gặp trong Vương quốc Bóng Tối tiếp giáp với Mill Valley, dù có to lớn đồ sộ vẫn rất bé bỏng so với cây này. Sau đó Dee đã phá hủy mất rồi.

“Cô nên ngồi xuống,” Prometheus ra lệnh. “Ngay đi!”

Bóng tối thả mình trở lại ghế, nắm vào tay tựa đã bị hư. Mọi người có thể nhìn thấy thân cây đang tiến đến gần. Ánh sáng lọc qua lỗ cửa sổ của chiếc vimana Rukma đã tối đi và có màu xanh lục, trông như con tàu đang rớt xuống một khu rừng, nhưng thật ra họ đang hạ xuống theo một góc xiên bên hông thân cây Yggdrasill.

“Cô ngồi chắc lại!” Prometheus la lớn khi những cành cây bắt đầu nạo kèn kẹt và xé dọc bên hông con tàu.

Rồi họ đụng vào một cành to tướng của Cây Thế Giới.

Chiếc vimana chẻ làm hai.

Tiếng răng rắc khổng lồ xé toạc con tàu, nửa thân trước có Prometheus và Scathach bị hất ra phía trước và an toàn đáp xuống một mạng lưới gồm những dây leo dày cộp và những nhánh to đồ sộ. Lá rơi như mưa xuống đầu họ. Nửa thân sau của con tàu, có Joan, Saint-Germain, Will và Palamedes mắc vào một loạt nhánh cây, uốn cong vì sức nặng, rồi gãy lìa, thả con tàu lên một nhánh cây có kích thước bằng cả con phố cách bên dưới sáu mét. Con tàu chao đảo ở đó một lúc, sau đó nhánh cây kẽo kẹt trĩu xuống. Một tiếng răng rắc thứ hai hất các mảnh vụn lên. Phía dưới cành cây chẳng có gì ngoài một cú rơi vô tận vào lớp mây xa bên dưới.

Scathach bò ra khỏi con tàu, túm lấy đoạn dây leo và nhanh chóng biến nó thành một sợi thừng dài. Cột dây thừng quanh nhánh cây mình đang nằm lên, cô hạ nó xuống tới thân con tàu bên dưới.

Prometheus dùng răng giật phắt đôi găng tay kim loại ra, quấn đoạn dây leo thứ hai quanh thắt lưng mình, thả xuống tới nửa sau của con tàu nằm ngay phía dưới, gần như đúng vào hai tay của Hiệp sĩ Saracen.

“Nhanh đi, nhanh đi!” Scathach gào lên. Cô có thể nhìn thấy rằng cành cây mà chiếc vimana đang mắc trên đó sắp gãy tách ra mất.

Bị bầm tím và chảy máu vì một nhát cắt trên trán, Saint- Germain nhấc Joan đang nằm bất tỉnh ra khỏi chỗ ngồi của cô và hất cô lên vai mình. Nắm chặt sợi dây leo của Scathach trong một tay, quấn nó quanh chân mình, ông ta nén hơi kéo mạnh lên phía trên, Scathach thọc chân vào, kéo lên, hàm răng nghiến chặt, cơ bắp căng tối đa.

Palamedes nhấc Will Shakespeare đang run bần bật lên, giữ lấy ông một lúc trong lúc quấn dây leo của Prometheus quanh người, cột thành một gút dưới cánh tay mình. Anh ngước nhìn lên Elder tóc đỏ, gật đầu. “Kéo mạnh đi.”

Hai cánh tay lực lưỡng của Prometheus u phồng lên, ông bắt đầu kéo Shakespeare lên đến chỗ an toàn.

Cành cây lại kêu kẽo kẹt lần nữa, rồi rắc một tiếng. Gãy lìa.

Palamedes nhảy lên, đúng ngay lúc cành cây đứt lìa khỏi thân cây, anh nắm giữ được bàn chân phải của Will và treo lủng lẳng, hơi lắc lư bên này bên kia.

Prometheus càu nhàu kéo cơ căng thêm. Sợi dây leo trượt khỏi hai tay ông, xé rách thịt, y như nạo sống, rồi bắt đầu tuột ra. Elder kêu gào trong tuyệt vọng.

“Will,” Palamedes vừa nói, vừa nhìn lên. “Tôi phải thả”

“Không!” mắt Đại Thi Hào ngân ngấn nước. “Đừng, làm ơn...”

“Will, nếu tôi không thả, cả hai ta đều chết. Mà đâu cần phải thế.”

“Chờ đã,” Shakespeare thều thào. “Chờ đã.”

“Tôi rất vinh dự có được tình bạn của chúng ta trải qua nhiều thế kỉ”

“Đừng!”

“Khi mọi việc này kết thúc, ông có thể nghĩ đến việc viết lách trở lại. Hãy viết cho tôi một phần thật hay vào, hãy làm cho tôi thật sự bất tử. Tạm biệt, Will.” Những ngón tay của Hiệp sĩ Saracen lỏng dần.

Có tiếng rin rít, và bất thình lình một vòng thòng lọng bằng dây leo quấn quanh ngực Palamedes đúng ngay khi anh buông tay. Bất ngờ, nào là dây nhợ, nào là dây leo rơi xuống như mưa, quấn quanh người Joan, Saint-Germain, Will, và Palamedes như một tấm mạng nhện khổng lồ, chụp lấy, giữ chặt họ. Các sợi dây leo co rút, kéo họ lên tới nơi an toàn của nhánh cây to bè, ở đó họ được đặt xuống không chút kiểu cách. Đám dây leo trượt ra, biến mất trở vào thân cây, để lại cả nhóm run rẩy nhưng vẫn còn sống.

Hai dáng người xuất hiện nơi đầu kia nhánh cây.

“Bây giờ chúng ta gặp rắc rối rồi,” Prometheus lẩm bẩm. “Bà ấy sẽ không vui.” Ông tập trung nhìn kĩ vào lòng bàn tay bị rách của mình, nhổ những vụn gỗ ra khỏi lớp thịt chắc.

Dưới ánh sáng màu xanh lục, thật khó để nhận ra từng chi tiết, nhưng một hình dáng to cao lực lưỡng, hoàn toàn che phủ trong lớp kính màu đen và bộ giáp kim loại, đôi mắt sáng xanh lơ lấp lánh ẩn dưới chiếc mũ bảo hiểm trang trí công phu. Dáng dấp thứ hai là một phụ nữ trung niên nước da đen bóng và mái tóc trắng như băng buông rũ xuống vai. Bà ấy mặc một chiếc áo choàng lung linh cứ mỗi bước đi lại nhấp nháy hai sắc vàng và xanh lục.

Hiên ngang bước thẳng tới Prometheus, bà ta chống hai tay lên hông, giậm chân bực bội. “Ông lại đâm sầm vào cái cây của tôi, lại một lần nữa.”

“Tôi rất tiếc, thưa quý bà. Chúng tôi đang vướng vào lắm rắc rối.”

“Ông đã làm hư hại cây của tôi. Muốn lành phải mất đến biết bao nhiêu thế hệ.” Giọng bà ta hạ xuống thành một tiếng thì thầm bí ẩn. “Lần này thậm chí ông còn làm gãy hết mấy cành. Sẽ không được như thế nữa đấy.”

“Tôi sẽ tạ lỗi. Với cả sự hào phóng của mình,” ông nói thêm. “Tôi sẽ biếu tặng cho bộ rễ ạ.”

“Chuyện đó thì có thể đấy. Hãy tặng cho ra trò nhé. Một món gì thật tuyệt ấy. Bảo đảm phải có xương, nó thích xương mà.” Người đàn bà đưa mắt nhìn quanh. “Vậy ra cuối cùng họ cũng ở đây cả rồi. Một lần nữa, Abraham nói đúng thật. Mặc dù ông ta không đả động gì đến việc đâm sầm vào cái cây của tôi.” Bà ta lom lom nhìn lần lượt từng người một. “Họ trông như một nhóm lắm tài xoay sở ấy nhỉ. Đặc biệt là người này.” Bà chĩa một ngón tay vào Scathach. Rồi bà chồm tới và hít hít. “Tôi không quen biết cô phải không?”

“Chưa ạ. Nhưng sẽ biết thôi.”

Người phụ nữ ngửi ngửi lần nữa. “Tôi biết mẹ cô.” Bà ta lại hít hít ngửi ngửi. “Và ông anh chẳng hay ho gì của cô.”

Joan bước tới giữa hai người phụ nữ kia. “Prometheus, bộ ông quên cách cư xử của mình ư. Tại sao không giới thiệu chúng tôi?” cô gợi ý.

“Tất nhiên là phải làm thế,” Prometheus nói. “Thưa quý ông quý bà, cho phép tôi được giới thiệu Elder Hekate, Nữ thần Ba Mặt.” Người phụ nữ cúi chào lịch sự, chiếc đầm của bà lóe lên màu ngọc lục bảo. “Và hiển nhiên, đây chính là nhà quán quân, Huitzilopochtli.”

“Mars,” Scathach thì thầm đầy kính nể.

“Tôi không biết đến cái tên đó,” nữ chiến binh quát.

“Bà sẽ biết thôi,” cô lẩm bẩm.

CHƯƠNG MƯỜI LĂM

Nicholas và Perenelle ngồi cạnh nhau trên hàng ghế bằng kim loại bên ngoài quán cà phê Hard Rock nơi lối vào cầu tàu số 39. Mặc dù chỉ mới hơn bảy giờ chiều một chút và mặt trời vẫn còn một tiếng rưỡi nữa mới lặn, nhưng sương mù vây phủ đêm hôm đó đã vội vã đến rồi. Một thứ u ám xám xịt, ẩm ướt, lạnh lẽo bao trùm lên mọi thứ, tầm nhìn hạ xuống còn chừng một mét. Xe cộ đã bật đèn và đường phố bắt đầu trống trơn. Vài quán ăn, cửa tiệm dọc theo cầu tàu số 39 thậm chí đã đóng cửa.

Nicholas hít vào. “Này, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ trải qua đêm cuối cùng được sống của mình mà lại ngồi bên ngoài nhà hàng trong một đêm đầy sương mù ở San Francisco thế này. Tôi luôn mong muốn được chết ở Paris cơ.”

Perenelle đưa tay siết mấy ngón tay ông. “Hãy nghĩ đến nhiều lựa chọn đi,” bà vừa nói, vừa quay lại với tiếng Pháp cổ thời trẻ của họ.

“Đúng,” ông nói khẽ khàng. “Có thể tôi đang ngồi ở đây một mình.”

“Hoặc người đó là tôi,” bà nói. “Sau hết thảy ngần ấy năm, tôi mừng là chúng ta vẫn còn bên nhau.”

“Chỉ là nhờ mình đấy,” Nhà Giả Kim nói. Ông quay nhìn vợ, bàn tay ông sờ vào con bọ hung cổ xưa đeo quanh cổ, dưới lớp áo sơ mi. Quá nhiều thứ đã xảy ra trong vài tiếng đồng hồ vừa qua đến nỗi tưởng như cách đây cả một đời rồi, trong khi chỉ mới sáng sớm ngày hôm đó Perenelle đã sử dụng năng lượng từ luồng điện của Tsagaglalal và Sophie để chuyển chút ít luồng điện của bà qua con bọ hung này vào người Nicholas. Bà đã cho ông sống thêm hai mươi bốn giờ nữa. Đổi lại, bà đã bị rút ngắn cuộc đời mình cũng bằng chừng đó. Không ai trong họ cần đến đồng hồ mới biết được họ còn sống chỉ hơn mười chín tiếng chút thôi. Họ không định sẽ ngủ vào tối hôm đó đâu.

Perenelle đưa tay ra, áp lòng bàn tay vào cổ Nicholas. “Tôi đã bảo mình rồi: tôi không muốn sống trong một thế giới mà không có mình.”

“Tôi cũng không sống mà không có mình,” ông dịu dàng nói. Nicholas biết rằng việc nhường bớt luồng điện là một cái giá khủng khiếp đối với cuộc sống của vợ ông. Ông có thể thấy nó hằn thêm những vết nhăn mới nơi khóe mắt và quanh miệng bà.

Nhiều thế kỉ quan sát ông đã cho phép bà đọc được nét mặt ông dễ dàng như thể ông nói ra bằng miệng. “Vâng, tôi đã già đi,” bà nói. “Cứ mỗi giờ trôi qua tóc tôi lại bạc thêm.” Bà vuốt mái tóc dài, vén ra khỏi mặt. “Tôi luôn nói mình làm cho tôi bạc tóc cơ mà.” Bà xoa xoa bàn tay lên đầu tóc cắt sát của ông. Một lớp tóc đen xoăn xoăn mỏng dính, vài sợi ria trên má và cằm vẫn còn sậm màu. “Trong khi mình thì... rõ ràng là luồng điện của tôi hợp với mình lắm. Trông mình thật trẻ.”

“Không phải trẻ,” ông chọc ghẹo.

“Không phải trẻ,” bà đồng ý. “Nhưng đủ để gọi là trẻ. Không ai đoán được mình sẽ tròn sáu trăm bảy mươi bảy tuổi trong vài tháng tới.”

Ông siết chặt tay bà. “Đó là một sinh nhật tôi không bao giờ có. Song,” ông nói và nhoẻn cười, “sáu trăm bảy mươi sáu cũng không phải là quá tệ.”

“Hãy nhớ nhé, mỗi lần sử dụng luồng điện là mình đang làm tiêu hao chút năng lượng còn lại trong con bọ hung này đấy.” Bà sờ vào miếng đá ông đeo nơi cổ. Một tia lửa màu trắng nhảy ra khỏi ngón tay bà, kêu xì xì trên lớp vải áo.

“Tôi hiểu mà. Tôi sẽ cố để dành cho tới khi thật sự cần.”

“Chẳng bao lâu nữa đâu, mình sẽ cần đến. Màn biểu diễn với con vẹt chắc đã ngốn của mình một hai giờ sống rồi đó.”

Nicholas lắc đầu. “Ba mươi phút thôi, có lẽ thế. Cũng xứng đáng mà. Tôi đã quên mất cảm giác vui thích thế nào khi được bay bổng. Hơn nữa, tôi đã biết được nhiều thông tin từ màn biểu diễn ấy. Chúng ta đã khám phá được rằng Machiavelli và Billy giờ là đồng minh.”

“Tôi không tin đâu.”

“Người nào?”

“Không tin ai trong hai người đó. Nhưng đặc biệt phải kể đến Machiavelli. Với Dee mình luôn biết mình đang đứng ở đâu.”

“Tôi luôn có chút cảm giác tiếc xót cho tay Pháp sư người Anh,” Nicholas thú nhận. “Và có chút ngưỡng mộ hơi miễn cưỡng với tay người Ý ấy. Tôi nghĩ trong những tình huống khác, tôi và anh ta hẳn là có khả năng kết bạn.”

Nữ Phù Thủy nhăn mặt. “Nhớ hồi ở núi Mount Etna đi,” bà nói.

“Mình đã đánh bại y. Mình còn làm y bị thương nữa.”

“Y đã chuốc thuốc độc mình. Rồi còn khiến ngọn núi lửa ấy phun trào!”

“Công bằng mà nói, tôi nghĩ không hoàn toàn do lỗi của y đâu. Đó là sản phẩm phụ sinh ra từ luồng điện của mình đã khiến nó sống dậy đấy chứ. Nhưng nhìn kìa ấy là những quãng thời gian thật kì lạ. Có nhiều biến cố chúng ta không hiểu được. Hãy kết đồng minh bất cứ nơi đâu có thể tìm được. Dù sao đi nữa,” ông cười toe, nói thêm, “chúng ta sẽ chết trước sáng mai và đó sẽ không còn là vấn đề của chúng ta nữa!”

“Mình không thể chết được!” Perenelle rụt tay về, khoanh hai tay lại. “Đừng nói thế.”

“Đó là sự thật mà.”

Perenelle xoay người xuống con phố, săm soi nhìn vào màn sương mù. “Mấy anh chàng kia đâu hết vậy cà?” bà thắc mắc.

“Mình cố tình đổi đề tài đó hả?”

“Đúng.”

Ngay khi bà còn đang nói, hai hình dáng một cao lớn, một mảnh dẻ hơn, lùm lùm bước ra khỏi màn sương dày đặc, uốn éo. Chính là Niten và Prometheus. Elder cao lớn đang mang một khay làm bằng giấy bồi trên đó có ba cái tách lớn bằng giấy màu trắng. Niten tay cầm một cái tách nhỏ hơn, miệng nhâm nhi phần bánh ngọt ló ra khỏi bịch giấy nâu.

Elder ngồi thụp xuống bên hai vợ chồng, trao cho Nicholas và Perenelle tách cà phê đang bốc khói. “Chúng tôi quyết định chọn thế này vì cả hai ông bà đều là người Pháp nên chắc sẽ thích cà phê hơn trà.” Ông ta liếc lên Niten. “Thật ra, đó là ý của Niten.”

“Tôi lấy trà,” Niten nói.

“Tôi vẫn để cà phê đen đấy. Còn đường thì cất riêng trong túi.”

“Cám ơn ông.” Perenelle khum bàn tay quanh chiếc tách trắng, cẩn thận húp một ngụm, đầu cúi xuống để ông ta không trông thấy vẻ nhăn nhó nơi mặt mình. “Phải có đường mới được,” bà nói khẽ.

“Mình thấy sao?” Nicholas hỏi. Ông hớp thử. “Không tệ lắm. Phải có đường mới được.” Ông chồng ba gói màu nâu vào với nhau, xé chúng một lượt, rồi đổ những hạt trong như pha lê vào cà phê.

“Thành phố sắp đóng cửa,” Prometheus nói. Ông ta luồn tay vào tóc. Hôm qua thì đỏ rực, lúc này lại là một màu trắng xám dơ bẩn, lốm đốm từng giọt nước. “Nhìn quanh xem. Bây giờ là tháng Sáu, chúng ta đang ở trên cầu tàu số Ba Mươi Chín. Chỗ này đáng lẽ phải sáng bừng đèn đuốc và chật ních người ta ấy chứ. Vậy mà nó hầu như vắng ngắt. Có ti vi trong nhà hàng, hàng tá vụ đụng xe trên đường, phi trường đóng cửa và mọi phương tiện đường biển đều tạm dừng lại hết. Người ta nói đến việc đóng cả Vịnh lẫn cầu Cổng Vàng. Nguồn tin đáng tin cậy gọi đây là đợt sương mù tệ hại nhất thế kỉ.”

Nicholas hít một hơi. “Và là một đợt sương trên biển không bình thường chút nào. Chúng ta đang ngửi thấy mùi gì, đúng ra là mùi ai vậy nhỉ?” ông hỏi.

Niten lắc đầu. “Thứ gì đó đã chết và mục rữa.”

Nicholas liếc sang vợ.”Mình có nhận ra không?”

Bà lắc đầu, đưa chiếc tách xa khỏi mặt để có thể hít mạnh một hơi. “Thịt thối.” Bà nhanh nhẹn đưa chiếc tách che mặt trở lại để xua thứ mùi ấy đi nhờ mùi dễ chịu của cà phê. “Đó có thể là bất cứ ai trong số nửa tá Elder. Vài người có mùi quả thật rất kì quặc, và nhiều người trong số họ dường như thích mùi gì có liên quan đến thịt thì phải.” Bà mỉm cười với Prometheus. “Không có ý xúc phạm.”

“Không sao. Bản thân tôi có bao giờ thích mùi đó đâu.” Prometheus uống hết tách cà phê chỉ bằng một lần húp, vò nát chiếc tách, liệng nó vào thùng rác. “Có hai khả năng trên vùng Bờ Tây này,” ông khẽ nói. “Đó có thể là Quetzalcoatl, hoặc tệ hơn, có thể là Bastet. Cả hai đều thích mùi thịt thối.”

“Mình nghĩ đó là ai?” Perenelle hỏi.

Prometheus lắc đầu. “Hồi sớm, tôi nghĩ có khả năng là Quetzalcoatl. Tôi bắt gặp một thứ mùi ngoại lai rất nhẹ, hương gia vị bàng bạc trong không trung.”

Niten hít sâu. “Tôi lại không như thế. Tất cả những gì tôi ngửi được là mùi thịt ôi và có lẽ chỉ có lẽ thôi là dấu vết của mèo. Mặc dù điều đó có thể rút ra từ một con mèo đang ở gần đâu đây,” anh ta nói thêm.

“Hoặc cũng có thể là cả hai Elder,” Perenelle gợi ý.

Prometheus lắc đầu rất kiên quyết. “Không, điều đó sẽ không xảy ra đâu. Chúng luôn là kẻ thù không đội trời chung mà.”

“Tại sao vậy?” Niten hỏi.

“Có chuyện gì đó xảy ra cách đây lâu lắm rồi, trước cả khi Danu Talis bị nhận chìm. Không cách gì họ chịu hợp sức đâu.”

Một tiếng còi báo hiệu cho tàu bè trong sương mù cất lên, họ dừng lại để lắng nghe tiếng rống vang trầm trầm từng hồi dài. “Càng lúc càng tinh quái rồi đây,” Nicholas thì thầm. Ông đặt chiếc tách của mình xuống, rồi xát nhanh hai bàn tay vào nhau. “Ông đã cố liên hệ được ai chưa?”

Prometheus khẽ lắc đầu. “Vài người. Nhưng không đủ. Những người trung thành với giống người đã biết sự náo loạn ở đây và tôi hi vọng họ đang trên đường đến. Tất nhiên vụ việc này cũng ứng dụng được cho cả những kẻ trung thành với các Elder Đen tối nữa. Tuy nhiên, tôi đã nói với Barbarossa.”

“Hoàng đế hay cướp biển?”

“Hoàng đế,” Elder nói rõ. “Ông ta đang ở Chicago, nhưng sẽ đến trong chuyến bay đầu tiên vào sáng mai. Nếu có chuyến bay. Ông ta đã thông báo hết với những bất tử và các Elder sống trên vùng Bờ Đông rồi, và sẽ mang theo nhiều hết sức.”

“Họ sẽ đến quá trễ mất thôi,” Perenelle nói. “Chúng ta cần họ ở đây bây giờ kia.”

“Ông ấy đã nói rằng người bất tử Zenobia và Elder Pyrgomache đang trên đường đến đây. Họ sắp vào đến đây trên một chiếc xe buýt Greyhound.”

“Trong sương mù thế này thì họ không đi được rồi,” Perenelle nói. “Và tôi không tin Zenobia. Không bao giờ tin.”

“Tôi đã nói chuyện với Khutulun,” Niten nói. “Bà ấy đang chăn nuôi ngựa ở Kentucky.”

Nhà Flamel đồng loạt lắc đầu. “Bà ta là ai thế?” Nicholas hỏi.

Niten mỉm cười. “Có lẽ là chiến binh nổi tiếng nhất ông bà chưa hề nghe chăng. Bà ấy là cháu của Kublai Khan, và vì thế là họ hàng trực hệ với Genghis Khan. Trước tiên bà ấy được Scathach huấn luyện và sau đó là Aoife. Aoife gọi bà ấy là Trăng Sáng và nói đó là cô con gái mình luôn ao ước có được. Khutulun nói trong vòng một tiếng nữa sẽ rời nhà đi.”

“Bà ấy định lái xe à?” Perenelle hỏi.

“Khutulun không đi máy bay được.”

“Cho dù bà ấy không dừng lại để ngủ, thì lái xe qua đất nước này cũng phải mất ít nhất hai ngày,” Perenelle nói. “Mọi chuyện sẽ kết thúc trước lúc bà ấy đến mất thôi.”

“Bà ấy cũng biết vậy, và nói sẽ báo thù cho chúng ta.”

“Nghe được thế cảm thấy thật dễ chịu.”

“Bà ấy định nghỉ lại ở Wyoming và đón Elder Ynaguinid với Macanduc nữa.”

Prometheus gật đầu. “Các chiến binh dữ dội,” ông nói. “Dũng cảm nhất trong những người dũng cảm.”

“... những ai đang ở Wyoming,” Perenelle nói. “Những gì đang ở Wyoming đều không có ích cho chúng ta.”

“Davy Crockette từ Seattle đang lái xe xuống đây,” Niten nói. “Nhưng ít nhất phải mất một ngày. Thậm chí với cách lái xe của ông ấy.”

Nicholas uống hết phần cà phê của mình, cẩn thận đặt chiếc tách không trên mâm giấy. “Vậy điều mọi người đang nói là có nhiều sự giúp đỡ đang đến, nhưng không ai trong số đó đến được đúng thời điểm cả.”

Elder và người bất tử đồng loạt gật đầu.

“Trong khi đó,” Perenelle nói thêm, “chúng ta lại biết có vài Elder Đen tối đang sống trong và quanh thành phố này. Eris sống ngay dưới đường vào Haight-Ashbury.”

Prometheus thô bạo khoát tay. “Chúng ta có thể không tâm đến mụ ta. Mụ ta đã im hơi lặng tiếng hàng bao nhiêu thế kỉ nay rồi. Dạo này mụ ta dùng thời gian chỉ để đan móc thôi.”

“Đây có đúng là Eris người đã gây ra cuộc chiến tranh thành Troa vì không nhận được thư mời dự đám cưới phải không?” Perenelle hỏi với vẻ không tin. “Ông có nghĩ mụ ta sẽ ngồi yên vị mà đan móc trong khi phe cánh xấu xa của mình tung hoành khắp thành phố này không?”

“Gần như chắc chắn là không,” Prometheus đồng ý.

“Vậy ra chỉ có chúng ta thôi,” Nicholas nói.

“Chúng ta đã nói thế trước rồi mà. Hòn đảo này là vị trí then chốt,” Niten nói.

“Tôi lo cho Odin và Hel,” Nhà Giả Kim nói tiếp. “Cả Mars nữa. Khi tôi thấy, Hel đang bị thương, còn họ gần như không giữ được mình cho vững. Và tôi đặc biệt lo cho Diều Hâu Đen. Anh ta hoàn toàn biết đâu mất. Tôi sợ chúng ta đã mất anh ấy vào tay bọn Nữ Thần Biển rồi.”

“Chúng ta cần phải đánh từ trong lòng địch,” Niten nói đầy kiên quyết. “Phải giành lại thế chủ động. Nếu trì hoãn, các Elder Đen tối sẽ đến và chúng ta bị buộc phải chiến đấu trên hai mặt trận. Và đó là cuộc chiến chúng ta không thể thắng được, cần phải đến được Alcatraz.”

“Bằng cách nào?” Prometheus hỏi. “Không gì có thể mạo hiểm vào vịnh trong sương mù thế này.”

Nicholas nhìn Perenelle. “Mình có nhớ hồi chúng ta ở trên hòn Đảo Người và Dee xuất hiện cùng với lũ ma cà rồng được huấn luyện của hắn không? Có nhớ chúng ta đã ra khỏi đó bằng cách nào không?”

Perenelle cười toe. “Tôi nhớ vẻ mặt của tay Pháp sư ấy.” Nụ cười của bà nhạt ngay. “Nhưng, Nicholas, vậy thì chúng ta phải là một nhóm trẻ hơn, và là một nhóm trọn cả nhóm mạnh hơn kia.”

“Được thôi, thì chúng ta sẽ đốt lên một luồng điện nhỏ.” Ông nhún vai. “Chúng ta đâu có gì để mất nào.”

Perenelle chồm tới hôn nhanh vào má chồng. “Đúng thế.”

“Hai ông bà đã làm thế nào để rời khỏi hòn đảo ấy?” Niten hỏi.

“Chúng tôi thả bộ thôi.”

“Trên mặt nước ư?”

Nicholas và Perenelle Flamel cùng gật đầu.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx