sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu nữ - Chương 41 - 42 - 43

CHƯƠNG BỐN MƯƠI MỐT

Trong một gian phòng không cửa sổ, sâu bên dưới cây Yggdrasill, Hekate, lúc này đang là một phụ nữ teo quắt, già cỗi, nằm trong một mạng rễ cây dài như cỗ quan tài, hai tay khoanh trước ngực, bàn tay trái đặt trên vai phải, lòng bàn tay phải áp vào vai trái. Toàn bộ cái cây rùng mình thở dài, sau đó bộ rễ quấn quanh, ôm lấy bà.

“Rã rời vì vất vả, tôi bươn bả vào giường,” William Shakespeare nói thầm, “giấc ngủ yêu quý dành cho tay chân sau chuyến đi mệt mỏi.”

“Bà ấy là cây,” Scathach nói. “Không thể tách rời, không thể gỡ bỏ, mà luôn quấn chặt vào nó. Nếu một bên nằm xuống, bên kia cũng sẽ ra đi.”

“Việc đó sẽ không bao giờ xảy ra,” Huitzilopochtli nói đầy tự tin, ông giục các bạn đồng hành ra khỏi gian phòng tròn không cửa sổ này. “Cây Yggdrasill đã tồn tại hàng nhiều thế kỉ rồi. Nó luôn sống sót. Và vì thế nữ thần kia cũng vậy.”

Hàm răng nhọn của Scathach cắn môi. Cách đây chưa đầy một tuần lễ, cô đã quan sát cây Yggdrasill, phải thừa nhận là một phiên bản nhỏ hơn, đã ngã gục. Cô đã nhìn thấy cái chết của Hekate. Nhưng việc đó sẽ không diễn ra trong vòng mười ngàn năm.

Prometheus đang chờ bên ngoài cửa. Toàn thân ông từ đầu đến chân mặc một bộ giáp đỏ trang trí công phu, một lưỡi kiếm đỏ buộc ngang qua lưng, chuôi kiếm ló ra trên vai phải. Đằng sau ông là đạo quân Torc Allta, những con ma lợn do Hekate tạo ra. Hai trong số các sinh vật khổng lồ này chiếm lấy vị trí bên ngoài phòng ngủ của Hekate. Thân mình chúng thuộc về những người lực lưỡng đồ sộ, nhưng lại có mặt heo, mũi dẹt và răng nanh lòi. Riêng đôi mắt màu xanh lơ nhạt lại là của người.

“Bọn Torc Allta sẽ canh chừng trong lúc bà ấy ngủ. Không ai được lại gần,” Prometheus nói.

“Chúng sẽ chiến đấu cùng với ta chứ?” Scathach hỏi. “Chúng xứng với lũ anpu đấy.”

“Không đâu, Torc Allta chỉ trung thành với một mình Hekate,” Prometheus nói. “Tốt hơn là loài người nên đứng cùng nhau trong trận chiến cuối cùng này.” Ông quay sang Huitzilopochtli. “Đã đến giờ.”

Không nói thêm lời nào, hai Elder lên đường xuống dãy hành lang dài quanh co.

“Chờ với!” Scathach gọi lớn. Cô phóng theo họ, bỏ lại Shakespeare, Palamedes, Joan và Saint-Germain đằng sau.

Bầy Torc Allta mặc giáp nặng nề hơn nhóm trước từ vùng bóng tối hiện ra, tụ tập quanh lối vào hang động bên trong. Các sinh vật không hề nói năng, nhưng vũ khí thì đột nhiên hiện rõ dưới ánh sáng màu xanh lá đùng đục.

“Tôi nghĩ chúng muốn chúng ta đi tiếp thì phải,” Palamedes nói khẽ.

“Tôi không biết là anh nói chuyện được với Torc Allta,” William Shakespeare nói, thoáng kinh sợ.

Palamedes lắc đầu. “Là một người sáng trí, song thỉnh thoảng ông lại rất ngốc nghếch, Khi nào có ai đó người hay thú, nhe răng và chĩa một con dao dài bằng cánh tay, đó là một gợi ý.”

“Tôi sẽ để ý việc đó,” Will lẩm bẩm.

Palamedes cao giọng. “Chúng ta cần phải ra khỏi đây ngay bây giờ. Hai người biết chúng ta và có thể làm chứng cho chúng ta Huitzilopochtli và Prometheus đã đi rồi, còn những người bạn lông đỏ của chúng ta hiện giờ trông có vẻ kích động. Và với mấy cái răng nanh đó, tôi ngờ rằng chúng không phải kẻ ăn chay đâu.”

Bốn người bất tử hối hả bắt kịp những người khác.

“Kế hoạch là gì?” Scathach vừa hỏi, vừa bắt nhịp cùng bước với hai Elder.

“Kế hoạch hả? Chúng ta sẽ dẫn cư dân Cây vào Danu Talis,” Prometheus nói. “Chúng ta sẽ giải thoát Aten và đánh bại hoàn toàn các Elder.”

“Chỉ thế thôi sao?” cô hỏi một cách kinh ngạc. “Tôi tưởng hai người các ông là những chiến binh vĩ đại chứ.”

“Đơn giản mà hiệu quả,” Huitzilopochtli nói.

“Và chúng ta có lợi thế là mưu mẹo mới,” Prometheus nói tiếp. “Trước nay loài người chưa bao giờ nổi dậy cả.”

Hành lang gỗ mở lên một dãy cầu thang mênh mông dẫn tới thân cây. Những bậc thang được đẽo ra từ bộ rễ nhiều ú nần, đánh bóng láng mướt, sáng như gương bởi nhiều thế kỉ đi qua đi lại, mỗi bậc có một độ cao, độ rộng và độ dài khác nhau.

Prometheus chọn một cầu thang đang chạy, Huitzilopochtli và Scathach nhảy theo, dừng ở ngay bậc bên dưới. “Nếu loài người trước nay chưa bao giờ nổi dậy, vậy thì làm sao ông có thể chắc chắn bây giờ họ sẽ làm thế?” Scathach hỏi dồn.

“Họ tôn sùng Aten,” Huitzilopochtli đáp. “Qua nhiều thế hệ, loài người phải làm nô lệ cho các Elder. Khi Aten lên nắm quyền, ông ta chính thức công nhận họ là một loài thông minh và ban cho họ quyền làm công dân của Danu Talis.”

“Nhiều Elder phản đối, nhưng không ai dám hành động chống lại Aten,” Prometheus nói thêm. “Cho tới bây giờ, chuyện đó mới xảy ra. Bastet hẳn đã phải lên kế hoạch này hàng bao thế kỉ nay.”

“Nhưng ông có chắc loài người sẽ đứng lên khi ông ấy xuất hiện không?” Scathach nằng nặc.

“Tôi đã nói rằng họ sẽ làm vậy mà,” Prometheus lạnh lùng nói.

“Ai nói với ông...” cô mới nói được thế, rồi lắc đầu. “Đừng, đừng nói với tôi. Hãy để tôi đoán một người đàn ông đội mũ trùm với một chiếc móc câu nơi bàn tay trái.”

“Vậy là ông ấy cũng được biết đến trong thời của cô sao?”

“Tôi biết về ông ấy. Và tôi biết rằng các Elder sẽ không chịu thua mà không chiến đấu đâu,” cô nói thêm.

“Chúng tôi biết mà,” Prometheus nói. “Chúng ta muốn hòa bình, nhưng phải chuẩn bị cho chiến tranh.”

“Theo kinh nghiệm của tôi, khi nào gây náo loạn nơi cổng nhà một ai đó với quân đội sau lưng, thì luôn luôn có chiến tranh,” Scathach nói dứt khoát.

Huitzilopochtli liếc sang cô. “Nhưng nếu chúng ta không đi bây giờ, chúng ta sẽ kết án loài người phải chịu cảnh nô lệ vĩnh viễn. Hoặc tệ hơn. Chị gái tôi, Bastet, đang chủ trương tiêu diệt toàn bộ loài người và thay thế vào đó bằng bọn anpu hay bộ tộc ma nào đó. Nếu bà ấy có thể đặt Anubis vào vị trí quyền lực, không gì có thể đứng ngáng đường bà. Bà ấy sẽ kiểm soát Danu Talis.”

“Tại sao ông làm việc này, Huitzilopochtli?” Scathach hỏi.

“Bởi vì đây là việc đúng đắn mà tôi phải làm.” Ông chầm chậm lắc đầu. “Abraham và Marethyu cho chúng ta thấy tương lai,” ông nói thêm, “và thế giới không loài người thì không còn đẹp đẽ nữa. Không phải tất cả các Elder đều là quỷ sứ. Chúng tôi không nhiều, nhưng có sức mạnh, và chúng tôi sẽ làm bất kể việc gì để cứu thế giới.”

“Và nếu ông không thể cứu được thế giới?” Scathach hỏi.

“Thì sức bao nhiêu chúng tôi sẽ cứu loài người bấy nhiêu.”

“Chúng tôi ở đây là để giúp đỡ các người,” Bóng Tối nói.

“Tại sao?” Huitzilopochtli hỏi gặng. “Đây đâu phải cuộc chiến của cô.”

“Ông lầm rồi. Đây còn hơn nữa chứ không đơn thuần là cuộc chiến của chúng ta. Đây là tương lai của chúng ta.”

“Anh nghĩ xem,” William Shakespeare vừa thở khò khè, vừa ấn bàn tay vào một bên hông, “một nơi tinh vi thế này phải có một thang máy chứ nhỉ.” Ông đi chậm rồi dừng hẳn lại, chồm tới trước, hai cánh tay và bàn tay duỗi thẳng trên bậc thang bằng gỗ ngay trước mặt.

Palamedes vẫy Joan và Saint-Germain đi tiếp, còn mình dừng lại. Anh ngồi trên bậc thang chờ Đại Thi Hào lấy lại hơi thở. “Gần tới rồi.”

“Đây sẽ là nơi từ giã cõi đời của tôi,” Shakespeare làu bàu.

Hiệp sĩ Saracen chìa tay ra. Shakespeare nắm lấy và Palamedes kéo ông dậy. “Nhưng đây là cuộc tìm tòi nghiên cứu kì diệu mà, Will. Tôi đã thấy ông viết ghi nhớ. Hãy nghĩ đến vở kịch ông sẽ lấy ý tưởng từ đây đi!”

“Không ai tin tôi đâu. Nghiêm túc đấy, anh bạn, tôi e là mình sẽ chết ở đây mất.” Ông trèo lên một bậc nữa.

Chàng Hiệp sĩ dừng lại nhìn Đại Thi Hào lúc này đang ở trên anh một bậc. Mặt họ ngang tầm nhau. “Thần chết đến với tất cả chúng ta mà. Cả ông và tôi, chúng ta đã sống quá phần thời gian được chia rồi. Lẽ ra đừng tiếc nuối chứ.”

“Việc gì làm thì đã làm rồi,” Shakespeare nhất trí.

“Và chúng ta ở đây vì một lí do,” Palamedes nói thêm.

“Anh biết chắc điều này chứ?”

“Marethyu đã chẳng mang chúng ta tới đây nếu chúng ta không đóng vai trò gì.” Có gì đó chuyển động đằng sau đôi mắt sẫm màu của chàng hiệp sĩ và Đại Thi Hào với tay nắm lấy cánh tay anh bạn mình.

“Có gì mà anh chưa nói với tôi thế?”

“Ông thì lúc nào cũng tinh mắt,” hiệp sĩ nói.

“Kể tôi nghe đi,” Will nài nỉ.

“Phiến đá màu xanh ngọc lục bảo Tsagaglalal đưa tôi hồi sớm...” Anh dừng lại và lắc đầu. “Chỉ mới hồi sáng sớm hôm nay thôi sao? Cứ như thể đã lâu lắm rồi.”

Đại Thi Hào gật đầu. Tại bữa tiệc ngoài vườn không chuẩn bị trước ở San Francisco, Tsagaglalal đã tặng mỗi người một phiến đá màu xanh ngọc lục bảo. Mỗi phiến chứa một thông điệp cá nhân Pháp sư Abraham gửi cho.

“Trong đó nói gì vậy?” Shakespeare vội vã hỏi.

“Phiến đá cho tôi thấy những cảnh trong quá khứ của tôi, về những trận chiến mà tôi từng tham gia, một số thắng, một số thua. Cho tôi thấy trận chiến cuối cùng của mình, lúc Vị Vua Một Thời và Tương Lai ngã xuống, còn tôi vừa giằng được thanh Excalibur. Và cho tôi thấy mình đang đứng bên trên ông,” anh vội vàng nói dứt câu.

“Kể tôi nghe đi!”

“Tôi đã thấy cái chết của chúng ta, Đại Thi Hào. Cái chết của tất cả chúng ta.” Anh liếc tới Saint-Germain và Joan đang kiên nhẫn chờ trên đầu bậc thang. “Tôi đã nhìn thấy Scathach và Joan Arc, máu me và dơ bẩn, đang đứng đâu lưng với nhau trên những bậc thang của kim tự tháp bị bọn quỷ sứ đầu chó vây quanh. Tôi đã nhìn thấy Saint-Germain tuôn mưa lửa từ trời xuống. Tôi đã nhìn thấy Prometheus và Tsagaglalal đương đầu với một đạo quân quỷ sứ đông đúc...”

“Còn chúng ta?” Will hỏi. “Chúng ta thì sao?”

“Chúng ta đang ở trên những bậc thang của một kim tự tháp khổng lồ, bị bọn quỷ sứ giày xéo. Ông nằm dưới chân tôi còn tôi đang cầm một con đại bàng đầu sư tử giơ ra cách mình một sải tay.”

Đôi mắt màu xanh lơ nhạt của Đại Thi Hào lấp lánh. “Tốt, vậy là một cái kết có hậu đấy.”

Hiệp sĩ Saracen chớp mắt ngạc nhiên. “Phần nào trong câu chuyện tôi vừa mô tả gợi nên một cái kết có hậu? Cái chết và sự diệt vong trong tương lai nằm ngay trước mắt chúng ta đấy.”

“Nhưng hết thảy chúng ta đều có nhau. Và nếu chúng ta chết anh hoặc tôi, hoặc Scathach, hoặc Saint-Germain thì chúng ta cũng không chết lẻ loi. Chúng ta sẽ chết cùng với bạn bè, gia đình của mình.”

Palamedes chầm chậm gật gù. “Tôi luôn hình dung mình sẽ chết trong cô độc, trên một chiến trường xa lạ nào đó, thi thể tôi không ai than khóc tiếc thương và cũng không người thừa nhận.”

“Song chúng ta chưa chết được đâu,” Shakespeare. “Anh không nhìn thấy tôi chết, phải không nào?”

“Không. Nhưng mắt ông nhắm mà.”

“Có lẽ tôi đang ngủ đấy thôi,” Shakespeare vừa nói, vừa quay người chạy lên cầu thang. Ông dừng lại, liếc lui xuống Hiệp sĩ Saracen. “Nhưng anh nên biết điều này, Palamedes. Tôi không mong ước có bất cứ người bạn đồng hành nào ngoài anh.”

“Sẽ rất hân hạnh được chết cùng ông, William Shakespeare,” Hiệp sĩ Saracen khẽ khàng nói. Anh hối hả bước nhanh lên mấy bậc thang không đều sau Đại Thi Hào bất tử.

“Có một thuật ngữ trong môn đánh cờ mà anh tin là thích hợp với lúc này,” Saint-Germain nói với Joan khi họ chờ ở đầu cầu thang phía trước Shakespeare và Palamedes.

Joan gật đầu. “Tàn cuộc.”

“Và chúng ta đã tới được điểm ấy rồi.”

Dãy cầu thang mở vào ngay chính giữa cây. Trên một mặt phẳng bằng gỗ rộng bao la bát ngát, một đạo quân đang tề tựu, nhiều đàn ông và đàn bà đứng thành những hàng dài không bằng nhau, ánh sáng màu xanh lá dội bật ra khỏi kim loại và bộ giáp, làm cho mọi thứ có diện mạo như đang ở dưới nước. Bầu không khí phía trên tối sầm do những chiếc tàu lượn quay qua lộn lại, và đâu đó có tiếng trống đánh từng hồi không theo quy luật nào.

Saint-Germain và Joan chăm chú nhìn hàng chục chiếc vimana lăn bánh khỏi nhà để máy bay. Hầu hết đều được vá bằng gỗ và da thuộc, số khác được buộc dính vào nhau bằng dây thừng hoặc đậy lá kín lỗ cửa sổ thay vì kính thủy tinh. Nhiều người mặc đồ bay bằng len dày và da thuộc đứng thành nhóm quanh con tàu, kiểm tra kĩ lưỡng, trong khi các người khác chất vào khoang chứa nào là giáo mác, nào là thùng thưa chất đầy khối cầu pha lê.

“Nhìn thế này làm em nhớ đến các phụ nữ trẻ đã bay qua chiến trường châu Âu hồi Thế chiến Thứ Nhất trong những chiếc phi cơ bằng gỗ và len dạ,” Joan nói khẽ. “Bao nhiêu người sống sót?”

“Rất ít,” Saint-Germain nói.

“Và bao nhiêu trong số này sẽ trở về?” cô hỏi.

Saint-Germain nhìn chiếc vimana cũ kĩ với nhiều lần sửa chữa vá víu. “Không một ai.”

Cô gái bất tử nhỏ nhắn người Pháp hít thở sâu. “Dường như em đã trải qua phần lớn cuộc đời dài dằng dặc của mình trên các chiến trường để chứng kiến cái chết của những người nam nữ còn rất trẻ.”

“Và em cũng trải qua nhiều năm tháng làm điều dưỡng cứu biết bao sinh mạng kia mà,” Saint-Germain nhắc cô nhớ.

“Sau cuộc chiến tranh cuối cùng, em đã thề sẽ không bao giờ kết thúc trên chiến trường một lần nào nữa,” cô nói.

“Không phải lúc nào chúng ta cũng có được thứ mình muốn. Đôi khi cuộc sống ban tặng cho chúng ta những điều ngạc nhiên.”

“Đúng rồi, chắc chắn cuộc phiêu lưu này cũng được xem như một điều ngạc nhiên.” Cô mỉm cười. “Và mặc dù rất thích những điều ngạc nhiên, nhưng em không chắc là mình sẽ thích việc này. Tuy nhiên một khi đã ở đây rồi, chúng ta sẽ làm những gì phải làm.”

“Em biết không,” Saint-Germain vừa nói, vừa nhìn quanh quất. “Anh nghĩ mình đang có được ý tưởng cho một album mới.” Hai bàn tay ông di chuyển trong không khí, gõ nhè nhẹ theo nhịp trống và tiếng kèn túi. “Đó sẽ là một album mang ý tưởng rất lạ, với ban nhạc và dàn hợp xướng.” Ông ta bắt đầu huýt sáo.

Joan dựng đứng bàn tay, ý bảo ông im lặng. “Tại sao anh không làm cho em ngạc nhiên đi.” Một ý tưởng bất chợt nảy ra trong đầu, cô ngoái về phía chồng. “Anh có tựa đề cho album đó chưa?”

“Trận tử chiến cuối cùng.”

CHƯƠNG BỐN MƯƠI HAI

Tầng trệt nhà máy điện Alcatraz bập bùng một thứ ánh sáng màu xám đùng đục.

Thận trọng di chuyển xuyên màn sương dày tưởng như bất tận, Nicholas và Perenelle trườn về phía ánh sáng ấy. Bàn tay phải của Nhà Giả Kim lần theo đường ray kim loại. Ở bên kia đường ray, họ có thể nghe tiếng sóng biển vỗ bờ nhưng không nhìn thấy.

Perenelle hít thở sâu. Vượt trên mùi muối và mùi thịt thối hôi hám của màn sương, bà thoáng bắt được một mùi khác nữa: mùi mốc đặc quánh của lông vũ bị ướt. Bà kê miệng sát vào tai Nicholas và thì thào. “Tôi nghĩ là có gì đó sắp đi tới đây.”

“Tôi cũng vậy,” ông nói, khiến bà ngạc nhiên. Sau đó ông suýt xoa đau đớn khi ngón chân vấp phải một mảnh vôi vữa bể. Phần này của đảo nằm trong tình trạng không được sửa chữa. Sự xói mòn do muối và thời tiết dần dần đã chinh phục Alcatraz, từ từ xóa hết mọi dấu vết của con người.

Họ chỉ phần nào nhận ra phần mái nghiêng dốc của nhà kho chức năng và nhà máy điện. Đằng sau họ là một đám ống khói cao. Và đậu dọc theo nhà máy điện là đường viền mờ mờ của một con thuyền chở du khách móp méo và gỉ sét, cùng kiểu với những chiếc thuyền đã đưa du khách đến đảo trước khi công ty của Dee mua lại và đóng hết mọi hoạt động. Phần lớn con tàu nằm khuất sau nhà máy điện và chìm trong màn sương biến chuyển không ngừng, nhưng họ thoáng bắt gặp một dãy đèn kéo dài từ phía sau tòa nhà đổ nát ra tới con thuyền.

“Nói tôi nghe xem,” Perenelle thì thầm.

“Hãy nghĩ đến lũ quỷ sứ mình đã nhìn thấy trong các xà lim.”

Ông cảm thấy tóc bà quét lướt qua mặt ông khi bà gật đầu.

“Và mình đã nói rằng vài xà lim nhốt nhiều hơn một loại sinh vật.”

Nữ Phù Thủy gật đầu lần nữa. “Một số nhốt đến hai hoặc ba loại.”

“Nhưng đây là những xà lim nhỏ mà, Perenelle. Một mét rưỡi nhân hai mét bảy.”

“Mấy con quỷ lớn hơn,” đột nhiên bà buột miệng. “Đương nhiên rồi! Không có sinh vật to lớn nào trong dãy xà lim.” Bà quay người nhìn vào những hình dáng mơ hồ của hai tòa nhà. “Đúng là tôi đã nhìn thấy một con minotaur, nhưng nó còn tương đối nhỏ, thú con thì phải. Nhân sư là con vật lớn nhất ở đó, mà nó đi lại tự do.”

“Đủ hiểu rằng Dee và các chủ nhân của hắn chắc hẳn không đóng khung trong những sinh vật kích cỡ bình thường. Nếu thật sự muốn tạo ảnh hưởng trên thành phố, bọn chúng sẽ phải cần đến vài con quỷ to lớn kia.”

“Vậy thì cái gì trong đó?”

“Con minotaur trọn cỡ,” Nicholas đoán. “Có lẽ một hai con yêu tinh. Mình biết Dee thích mấy con yêu tinh của hắn lắm mà.”

“Một con rồng chăng?” Perenelle tự hỏi. Rồi bà lắc đầu. “Không, nếu hắn có một con rồng thì chắc hẳn đã thả nó ra rồi. Nhưng thứ gì đó có vảy, một con wyrm hay wyvern gì đó, có lẽ. Một con smok cũng được. Mình nhớ hồi hắn vực dậy một con smok ở Ba Lan không?”

Họ trườn tới gần hơn, di chuyển ngang qua những đống gạch vụn và đá bể, va cẳng chân, quệt cánh tay vào chỗ bê tông và kim loại nhô ra. Lúc này họ đã tới khu nhà kho đủ gần để săm soi nhìn qua những ô cửa sổ cao hình chữ nhật. Những chiếc bóng kì cục nhảy múa khắp trên các bức tường, và họ thoáng nhìn thấy lông thú với vảy cứng. Đến gần tòa nhà, mùi hôi thật không chịu nổi: mùi hôi do lông thú bị ướt, mùi phân nồng nồng lẫn với mùi lông bẩn thỉu của quá nhiều loài rắn và loài có vú bị dồn sát vào nhau. Mùi nồng nặc của loài wyrm và smok bây giờ đã phân biệt rõ: mỗi lần há miệng, loài thở ra lửa này xì ra chướng khí nặng mùi lưu huỳnh đến buồn nôn.

Nhà Flamel nghe có tiếng la hét bên trong, một giọng cao éo nói bằng ngôn ngữ phát ra từ yết hầu. “Một con nữa.” Perenelle dịch ngôn ngữ bí ẩn ấy ra. “Chúng ta có thể bắt được một con nữa trong chuyến đi này. Mang cái gì lớn lớn ấy.”

Nicholas gật đầu ngưỡng mộ. “Tôi quên khuấy là mình đã nói thứ tiếng ấy.” Ông chợt siết tay bà. “Thậm chí sau tất cả những năm tháng thế này, vẫn có quá nhiều điều tôi chưa biết về mình.”

“Medea từng dạy cho tôi ngôn ngữ này của Danu Talis nay đã bị lãng quên,” bà nói. “Mà mình biết đủ về tôi đấy. Mình biết tôi rất mực yêu thương mình.”

Nhà Giả Kim sờ vào con bọ hung đeo quanh cổ. Nó phập phồng dưới bàn tay. “Tôi biết chứ,” ông nói.

Nicholas và Perenelle vòng đến cuối tòa nhà ngay khi cửa ra vào bật mở. “Anpu,” Nữ Phù Thủy nói thầm.

Hai chiến binh đầu chó rừng xuất hiện mỗi con kéo mạnh một sợi xích sắt dài. Cặp anpu thứ hai vội vã ra khỏi tòa nhà. Chúng đang cầm những cây đinh ba bốc khói mà chúng dùng để thọc mạnh vào con rắn dài thượt xanh lè có hai chân từ tòa nhà ấy trườn ra, cùng với sợi xích sắt. Ít nhất phải dài đến hơn sáu mét. Một cặp anpu nữa theo sau sinh vật đó. Chúng quấn thêm nhiều sọi xích quanh cái đuôi nhọn hoắt của nó.

“Lindworm,” Nicholas nói. “Chân trước có móng vuốt, nhưng không có chân sau. Mà đừng cho là nó chậm chạp nhé. Cú cắn của nó thật chí tử và cái đuôi là thứ vũ khí chết người đấy.”

Bầy anpu kéo lê và thúc con lindworm tiến về phía con thuyền.

“Chúng ta không thể để con thuyền này rời bến được,” Nicholas nói.

“Làm thế nào ngăn nó được?”

“Lũ sinh vật này hết thảy bọn chúng, quỷ sứ và anpu đều nằm dưới tầm kiểm soát của một kẻ duy nhất. Nếu chúng ta có thể đánh bại kẻ đó, bầy quái thú sẽ quay vào nhau. Bọn chúng sẽ xé toạc con thuyền đó thành từng mảnh giúp chúng ta. Vì thế vấn đề là, ai đang kiểm soát chúng?”

“Tôi nghĩ mình biết...” Môi Perenelle uốn vặn đầy thất vọng. “Tôi tưởng mụ ta đã thay đổi...”

“Ai thế?”

“Mụ ta đã giúp tôi trốn thoát. Tôi hi vọng có thể mụ sẽ giữ trung lập, nhưng có vẻ như tôi sai mất rồi. Lúc nãy tôi đã ngửi thấy mùi của mụ ta.”

“Perenelle...” Nicholas nói.

Nhưng bà chưa kịp đáp, màn sương đã vặn xoáy bốc lên thành hai cuộn đồng tâm và một hình dáng tối sầm rơi xuống đất ngay trước mặt Nicholas và Perenelle. Nhà Giả Kim và Nữ Phù Thủy cả hai đều chìa bàn tay ra, chút luồng điện đầu tiên của hai ông bà xuất hiện nơi đầu ngón tay.

Hình dáng ấy quấn từ đầu đến chân trong lớp da thuộc đen nhánh sáng mờ mờ, khí ẩm toát ra từ những chiếc đinh tán bạc sáng lấp lánh rải khắp chiếc áo chẽn da của mụ kết thành một thiết kế hình xoắn ốc. Khoác qua vai, cái mũ trùm kín đầu kéo quanh mặt, rũ dài xuống đất phía sau mụ là tấm áo choàng làm hoàn toàn bằng lông quạ. Hầu hết gương mặt giấu trong cái mũ trùm ấy, ngoài đôi môi đen thui cong tớn lên vì mấy cái răng sữa dài quá khổ.

“Chúng ta lại gặp nhau, Nữ Phù Thủy.”

“Nicholas,” Perenelle nói, “hãy để tôi giới thiệu mình với Morrigan.”

CHƯƠNG BỐN MƯƠI BA

Billy the Kid quăng mình tới trước, hụp xuống, cuộn tròn thành một quả banh thật chặt và lăn êm ra rồi đứng lên trở lại.

Con nhân sư bay vèo qua đầu gã, đâm sầm xuống đất, móng vuốt trượt dài cào đỡ vào sàn đá. “Mi chỉ trì hoãn một việc không thể tránh thôi,” nó vừa gầm gừ, vừa quay tròn, mong thấy được Billy đang phóng xuống hành lang chạy trốn nó.

Nhưng người bất tử lại đứng đối diện với nó, hai cánh tay buông thõng bên hông. Lúc này gã đã đứng gần đến nỗi đủ để luồng điện của gã, một màu tím thẫm hơi đo đỏ, bắt đầu tỏa thành một làn sương mù trên da thịt. Bầu không khí nghe có mùi ớt, con nhân sư hắt hơi. Billy nghiêng đầu qua một bên và mỉm cười. “Nhớ ta chứ?”

“Ồ, có đấy,” nó đáp. “Món đầu tiên của ta được thêm gia vị rồi đây.” Nó nhảy lên không, móng vuốt xòe ra.

Bàn tay Billy cử động.

Hai đầu giáo cổ xưa hình chiếc lá nhét vào thắt lưng bên trái và phải, ngay trên phần hông. Bằng một động tác trơn tru, gã hớt hai đầu giáo ném vào không trung.

Con nhân sư cười rú như thách thức, dần dần cao thé thành tiếng khóc thét.

Ngọn giáo đã cắm trúng vào nó.

Thời gian chậm lại.

Rồi ngừng hẳn.

Con nhân sư treo lơ lửng trên không. Hai đầu giáo đã cắm phập rất sâu vào da con nhân sư. Chúng đập từng nhịp, một lần, hai lần, rồi trở lại, một nhịp màu xanh lơ, một nhịp màu đỏ, và cuối cùng là trắng nóng.

Sát chung quanh mỗi vết thương, da thịt con nhân sư sẫm lại, đổi thành màu xanh lơ rất đậm, rồi nhạt dần thành trắng và lại chuyển thành trong suốt. Quá trình Biến đổi chảy khắp sinh vật ấy, phóng xuyên cả thân mình, thịt biến thành kính thủy tinh, để lộ cả bộ xương bên dưới lớp da. Con nhân sư hổn hển cố hít thở một hơi, nhưng lớp da trên mặt nó bắt đầu biến thành kính, nhìn thấy cả khung xương sọ trắng hếu bên dưới. Dần dần, xương sọ và toàn bộ các xương khác bên trong con nhân sư thủy tinh đều biến từ xương sang pha lê.

Sau đó con nhân sư ngã nhào và vỡ tan thành cả triệu mảnh trên sàn.

Billy the Kid cúi xuống, cẩn thận giật hai lưỡi giáo hình lá ra khỏi những mảnh kính nằm dưới đất. Gã xoay xoay trên ngón tay và nhét vào thắt lưng trở lại. Gã quay sang nháy mắt với Mars, Odin, và Hel. “Có vài điều các người đừng quên nhé.” Gã cười toe.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx