sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu nữ - Chương 53 - 54 - 55

CHƯƠNG NĂM MƯƠI BA

Một khi con nhân sư bị hạ gục, hết thảy lũ quỷ sứ tụ tập trên Alcatraz bất thình lình trở nên ý thức rằng chúng không ở một mình trên hòn đảo. Đằng sau những thanh chắn của xà lim nhà tù, phần lớn chúng đã quay vào đánh giết nhau, và bức tường đá vang dội những tiếng kêu thét, hú hét. Một thứ mùi khác ngập tràn trong không khí: mùi máu tanh ói nồng nặc.

Diều Hâu Đen dẫn Billy và Machiavelli xuống một hành lang dài chạy dọc theo dãy xà lim gọi là Đường Michigan. Odin đỡ Hel đang bị thương, còn Mars đi sau cùng, bảo vệ họ trước những sinh vật từ góc tối phóng ra.

Billy the Kid phá ra cười. “Bọn chúng nó mải bận rộn ăn thịt lẫn nhau rồi, không quan tâm gì đến chúng ta đâu.”

“Không,” Hel vừa thì thầm, vừa liếm môi. “Nhiều tên trong đám sinh vật này,” ngọn roi của bà chém phạt vào ba con ma cà rồng mình dơi đầu người trên không trung, “nhiều tên trong đám sinh vật này là những kẻ săn người và hút máu. Ba người các anh, Billy, Machiavelli, và Diều Hâu Đen, có mùi như một bữa tiệc đối với chúng đấy.”

“Ý bà đang nói là tôi bốc mùi á hả?” Billy hỏi gằn.

Cánh mũi Hel nở ra hít sâu. “Như mùi gà nướng vậy. Với một chút cây hương thảo.”

“Còn các người thì sao?” Billy vừa hỏi, vừa ngoái nhìn ba Elder. “Bộ định nói là chúng sẽ không rớ đến các người sao?”

Odin nhún vai. “Không ai trong chúng ta an toàn cả,” ông nói. “Mặc dù chúng tôi không phải là người, nhưng chúng tôi vẫn là thịt mà, và mấy thứ tồi tệ này đang đói ngấu.”

“Ông cảm thấy thông cảm với chúng hả?” Machiavelli hỏi. Máu chảy từ một vết đứt nông trên đỉnh đầu người Ý bất tử, trông như y đang đeo một chiếc mặt nạ đỏ.

“Chúng có mặt đâu phải do tự chọn,” Odin đáp. “Chúng cũng là tù nhân như những kẻ đã bị tống giam ở đây qua các thời kì vậy mà.”

“Bọn chúng vẫn sẽ giết chết và ăn thịt chúng ta thôi,” Mars nói dữ dằn. Ông né nghiêng khi một con rắn ba đầu từ trong xà lim tối ngóc dậy, phun từng dòng nước vàng chạch sền sệt vào người. Thanh kiếm của ông giơ lên, phạt xuống, thế là hai cái đầu rơi trên đất. “Còn nếu thoát vào thành phố, chúng sẽ được đánh chén no nê hàng nhiều tuần hoặc thậm chí là nhiều tháng rồi mới bị bắt.”

“Không con nào được ra khỏi hòn đảo này,” Diều Hâu Đen nói dứt khoát. Anh ta đã gắn hai đầu giáo hình lá trở vào hai cán gỗ và đang giộng giộng đuôi giáo xuống đất. “Chúng ta sẽ quyết chiến.”

“Thế thì các người sẽ chết,” Hel nói.

“Người ta đã nói câu đó với tôi cả đời rồi,” Diều Hâu Đen vừa nói, vừa lắc đầu. “Vậy mà tôi vẫn ở đây, trong khi họ thì không.”

Một con minotaur nhỏ thó xuất hiện bên ngoài một xà lim, nhào tới thả bộ móng chẻ nặng nề xuống vai Billy the Kid, đẩy gã khuỵu xuống gối. Bàn tay Machiavelli cử động, mùi rắn hôi hôi bốc ra. Đột nhiên con minotaur hú ré lên, bắt đầu cào cấu điên cuồng, xé móng guốc tuốt khỏi da thịt nó, đầu lắc mạnh từ bên này sang bên kia. Diều Hâu Đen vung một cán giáo, trúng mấy cẳng chân con quái thú, từ bên dưới mình nó giật mạnh ra. Nó ngã cái rầm, lăn dọc theo mặt sàn, vừa thét rít vừa cào cấu điên loạn.

“Sâu tai và bọ chét đấy,” Machiavelli nói kèm theo một nụ cười. “Lúc nào tôi cũng thấy chúng là loài côn trùng hết sức bị xem thường. Đặc biệt khi len vào tai.”

“Ông đưa sâu tai vào tai nó ư,” Billy vừa nói vừa rùng mình. “Gớm ghiếc thật.”

“Anh nói đúng quá đấy. Có lẽ anh sẽ thích hơn nếu tôi để con quái thú ấy cắn anh một phát.”

Billy chưa kịp trả lời, hai con satyr đã bước vào ngưỡng cửa để trống cuối hành lang. Chúng có thân trên của con người còi cọc nhưng sừng và chân là của dê. Cả hai đều được trang bị những chiếc cung ngắn bằng xương. Chúng kêu be be đầy thích thú trong lúc tra mũi tên đầu đen vào và kéo căng dây cung.

Machiavelli lấy bàn tay khoát nửa vòng tròn trên không, ngón tay mở ra khép lại thành hình tia chớp.

Tiếng kêu be be của hai con satyr liền biến thành tiếng thét hoảng hốt khi sợi dây cung của chúng biến thành những con rắn quằn quại, cuộn vòng lên cánh tay. Chúng ném bừa cây cung xuống đất, phóng thẳng vào màn đêm.

“Ảo giác,” Machiavelli nói. “Luôn là chuyên môn của tôi.”

“Ông đúng là toàn những điều ngạc nhiên,” Billy nói, hết sức ấn tượng.

Người Ý nhướng chân mày. “Anh chưa biết đâu.”

Nhóm Elder và người bất tử lao xuống dãy hành lang, qua ngưỡng cửa hẹp. Phía sau là một dãy phòng tường bằng kính dẫn ra màn sương mù hôi hám bên ngoài. Bọn người dê đã biến mất, nhưng vùng bóng tối xôn xao những âm thanh, và không âm thanh nào nghe vui vẻ cả. Những hình dáng gớm guốc di chuyển trong bóng tối u ám, Mars và Odin quật bừa vào bất cứ thứ gì tiến đến quá gần.

“Chờ chút.” Machiavelli dừng lại nơi ngưỡng cửa, cố định hướng. “Chúng ta cần phải xác định được mình đang ở đâu trên hòn đảo.”

“Chúng ta chỉ vừa mới ra khỏi Tòa nhà Hành chánh,” Diều Hâu Đen nói ngay.

“Sao ông biết?” người Ý hỏi vặn.

Anh chàng người Mỹ bất tử nắm cánh tay Machiavelli, nhè nhẹ xoay người y. Ngay dưới cánh cửa họ vừa thoát ra là hình con đại bàng được chạm khắc công phu, cánh xòe rộng, phía trên thấy rõ một hàng chữ bong tróc TÒA NHÀ HÀNH CHÍNH.

“Ngọn hải đăng gần như ở ngay trên đầu chúng ta,” Diều Hâu Đen vừa nói, vừa chỉ xuyên màn sương.

“Nhưng Areop Enap ở đâu mới được?” Mars hỏi. “Flamel đã dùng con vẹt để nói cho chúng ta biết rằng Lão Nhện đang ở trên hòn đảo này.”

Màn sương kết tụ lại và bóng ma của Juan Manuel de Ayala hiện ra trong làn không khí ẩm ướt. Mọi người, kể cả Mars, đều nhảy dựng vì hoảng hồn.

“Ông suýt làm tôi đứng tim,” Hel lầm bầm.

Billy cười toe. “Tôi không biết bà có bệnh tim đấy.”

“Bên trái các người,” bóng ma thì thầm, giọng đầy những âm thanh bong bóng lốp bốp, “là tàn tích đổ nát của khu Nhà Cai tù. Areop Enap ở bên trong đó.”

“Đi thôi,” Billy vừa nói, vừa quay đi.

“Billy, chờ đã!” Machiavelli và Diều Hâu Đen cùng gọi với theo.

Anh chàng người Mỹ phớt lờ. Khi thận trọng xuyên màn sương, gã bắt đầu nhận ra cây cột cao của ngọn hải đăng phía bên phải, rồi đường viền nhòe nhòe của bức tường xám xịt cùng những ô cửa sổ bên tay trái. Bất thình lình gã nhìn thấy một hình dáng cao, méo mó chẳng ra hình thù gì, lẩn khuất trong màn sương, chuyển động ngang qua những khoảng trống. Billy thoáng nhìn thấy sinh vật ấy và nghĩ mình nhìn thấy một cái bờm trắng rũ xuống sau lưng nó. Là con centaur hay một con satyr khác nữa vậy cà? Gã chăm chú quan sát nó dừng lại, quay sang gã, gương mặt hình bầu dục trắng toát săm soi nhìn gã. Mấy ngón tay đầu có vuốt ló ra hai bên hông, chỉ vào gã, hai bàn tay Billy lập tức hạ xuống ngang eo rút hai đầu giáo khỏi thắt lưng, phóng vèo xuyên không khí...

... vừa đúng lúc Perenelle Flamel, mái tóc trắng lấp lánh trong làn hơi ẩm, bước tới, bàn tay giơ lên chào.

CHƯƠNG NĂM MƯƠI BỐN

Trên bờ biển hoang vu phía đông bắc Danu Talis, ngọn tháp pha lê nhô lên khỏi mặt nước ùng oàng bắt đầu chớp sáng từng nhịp theo ánh đèn vàng nhợt nhạt. Sau đó tháp bắt đầu rung lên, một hiện tượng nhiễu loạn dưới âm tốc rùng rùng sâu tận bên trong lòng đất, khuấy mặt nước nổi bọt trắng xóa.

“Tôi đây,” Tsagaglalal nói. Bà đang mặc bộ giáp bằng sứ trắng chồng tặng cho, thanh kopesh tương xứng nằm trong vỏ vắt ngang lưng.

Pháp sư Abraham đứng cao ráo mảnh khảnh trong căn phòng tối trên đỉnh Tor Ri. Ông ẩn mình trong vùng tối, ngoảnh mặt chỗ khác, vì thế bà không nhìn thấy Quá trình Biến đổi gần như đã hoàn toàn chiếm trọn da thịt ông, biến tất cả thành vàng.

“Hãy để tôi nhìn ông xem nào,” bà vừa thì thào, vừa xoay ông ra ánh sáng. “Hãy để tôi ngắm ông, và nhớ lại giây phút này.”

“Tôi thà bà nhớ tôi của ngày xưa còn hơn.”

“Tôi luôn mang hình ảnh ấy trong mình,” bà nói. Bà ấn lòng bàn tay vào ngực ông. “Nhưng đây cũng là ông, và tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh này. Tôi sẽ không bao giờ quên ông, Abraham.”

Bà ôm ông, nép sát vào da thịt ông, nghe lớp kim loại chạm vào da mình, và khóc trên vai ông. Bà ngước lên nhìn vào mặt ông, thấy duy nhất một giọt nước mắt, một hạt vàng đặc, lăn xuống má ông. Kiễng chân nhón gót, bà hôn vào giọt nước mắt đang chảy trên mặt ông, nuốt lấy. Tsagaglalal áp bàn tay lên vùng dạ dày mình. “Tôi sẽ luôn mang nó trong mình.”

“Bà sắp bắt đầu một hành trình kéo dài mười ngàn năm, Tsagaglalal.” Lúc này mọi hơi thở của Abraham đều là nỗ lực khó khăn. “Tôi đã nhìn thấy tương lai của bà, tôi biết cái gì đón chờ bà ở phía trước.”

“Đừng nói với tôi,” bà nói nhanh. “Tôi không muốn biết đâu.”

Abraham tiếp tục. “Cũng như bất kì cuộc sống nào, trong đó đều có cả tiếc xót lẫn niềm vui. Hết thảy các bộ lạc và quốc gia sẽ tôn vinh và kính trọng bà. Bà sẽ được biết đến bởi hàng ngàn tên gọi, và nhiều bài ca sẽ được cất lên cũng như những câu chuyện được kể về bà. Huyền thoại về bà sẽ còn kéo dài.”

Bây giờ ngọn tháp rung lắc dữ dội hơn, đỉnh tháp đu đưa từ bên này sang bên kia, những đường nứt nẻ nhỏ xíu như da rạn xuất hiện trên mặt pha lê.

“Nếu tôi có một lời cầu chúc cho bà, thì đó là mong bà có được một người bạn đồng hành, một người chia sẻ cuộc đời với bà,” ông nói tiếp. “Tôi không muốn bà sống cô đơn. Nhưng trong tất cả năm tháng sắp đến của đời hà, tôi không thấy bà với bất kì ai.”

“Sẽ không bao giờ có bất kì ai,” bà nói chắc nịch. “Đúng ra, đáng lẽ chúng ta không nên gặp nhau. Tôi là một bức tượng bằng đất bùn, được làm cho sống dậy nhờ luồng điện của Prometheus. Còn ông là một Elder của Danu Talis. Song ngay giây phút gặp ông, tôi đã biết với sự xác tín hoàn toàn rằng chúng ta sẽ ở bên nhau cho đến mọi ngày trong đời mình. Bây giờ tôi có thể nói, cũng bằng sự xác tín y như thế, rằng sẽ không bao giờ có một người nào khác.”

Abraham hít vào một hơi rùng mình. “Bà không có chút tiếc nuối nào chứ?” ông hỏi.

“Hẳn là tôi thích có con cái,” bà nói.

“Trong những năm sắp tới của đời bà, Tsagaglalal, bà sẽ là mẹ của nhiều đứa trẻ. Bà sẽ nhận và nuôi nấng hàng ngàn con người. Số trẻ con gọi bà là mẹ, là cô dì, là bà nội ngoại nhiều không kể xiết, chúng sẽ yêu quý bà y như thể chúng là của riêng bà. Và tiếp đến cuối cùng, trong quãng thời gian mười ngàn năm nữa, khi bà canh giữ cặp song sinh ấy, bảo vệ và hướng dẫn chúng, sẽ có rất nhiều niềm vui. Đây là điều tôi đã nhìn thấy. Mặc dù bà sẽ bực bội và thường tức điên lên với chúng, nhưng chúng yêu mến bà với cả trái tim, bởi vì bằng bản năng chúng hiểu bà yêu thương chúng vô điều kiện.”

“Mười ngàn năm,” bà lào thào. “Thực sự tôi phải sống lâu đến thế ư?”

“Đúng. Sẽ phải thế,” ông nói khò khè. “Không có vai diễn nào không quan trọng trong kế hoạch đặc biệt mà tôi và Marethyu đã xây dựng. Mọi người, Elder, Thế hệ Kế tiếp, và loài người đều phải đóng trọn vai của mình. Nhưng Tsagaglalal này, vai trò của bà là then chốt nhất trong hết thảy đấy. Không có bà, mọi thứ đều tách rời nhau hết.”

“Mà nếu tôi thất bại?” bà thầm thì, loạng choạng khi ngọn tháp lay động. Từng đợt rung chuyển ngày càng mạnh hơn.

“Bà sẽ không thất bại. Bà là Tsagaglalal, bà canh giữ kia mà. Bà biết mình phải làm gì.”

“Tôi biết. Tôi không thích thế,” Tsagaglalal nói rất mãnh liệt, “nhưng tôi biết.”

“Được rồi. Vậy thì cứ làm đi,” ông nói rất khó khăn. “Bà có cuốn sách rồi chứ?”

“Vâng.”

“Thế thì đi đi,” Elder nói, hơi thở ông chỉ còn là tiếng thì thào nhỏ nhất. “Hãy đếm một trăm ba mươi hai bậc rồi đợi ở đó.”

Ngọn tháp lắc lư và thình lình một khối pha lê cổ xưa vỡ tan thành mảnh vụn. Mặt biển bên dưới bắt đầu sôi sục, bọt tung trắng xóa.

“Tôi yêu quý bà, Tsagaglalal,” Abraham thở dài. “Giây phút bà bước vào đời tôi, tôi nhận ra rằng mình không muốn gì nữa cả.”

“Tôi đã yêu thương mình và tôi sẽ còn yêu thương mình hết mọi ngày đời tôi,” bà nói, rồi quay người chạy đi.

“Tôi biết mà,” ông nói rất khẽ.

Abraham lắng nghe tiếng vợ chạy xuống cầu thang, gót giày kim loại của bà nện trên mặt pha lê. Ông đếm bước chân bà.

Ngọn tháp rền rĩ và chao đảo, kính vỡ, từng phiến đá khổng lồ bể nát bắn xuống mặt biển xa tít tắp bên dưới.

Năm mươi bậc...

Abraham đảo mắt đến chân trời. Ngay lúc này, với cái chết, cái chết thật sự, chỉ còn cách trong gang tấc, ông mới thấy mình vẫn ham muốn tìm biết. Ông có thể gần như nhận ra đường mờ nhạt nhất của chỏm băng địa cực, và đỉnh lởm chởm của Dãy núi Điên Rồ. Ông đã luôn lên kế hoạch trèo lên thám hiểm nơi đó, nhưng không bao giờ có thời gian. Thậm chí ông còn nói với Marethyu về đam mê của mình đối với vùng trắng nơi bắc cực. Người đàn ông đeo móc câu ấy đã nói ông ta từng ở đó và nhìn thấy những cảnh tượng tuyệt vời.

Một trăm bậc...

Abraham đã sống có lẽ đến mười ngàn năm, và vẫn còn quá nhiều điều ông muốn thực hiện.

Một trăm mười...

Điều ông muốn nhìn thấy còn nhiều hơn. Ông sắp bỏ lỡ niềm vui khám phá.

Một trăm hai mươi....

Nhưng vượt trên bất kì điều gì khác...

Một trăm ba mươi...

... ông sắp mất Tsagaglalal.

Một trăm ba mươi hai.

Bước chân dừng lại.

“Tôi yêu bà,” ông nói như thở.

Tsagaglalal đứng trên bậc thang, chờ đợi. Abraham luôn dặn bà không bao giờ được lần lữa trên những bậc thang này. Có ít nhất mười hai cổng tuyến tỏa ra từ dãy cầu thang, và chúng cắt giao với ít nhất chừng đó Vương quốc Bóng Tối nữa.

Bà cảm thấy ngọn tháp rung bần bật và một luồng hơi nóng bất chợt chạy khắp cơ thể bà. Bà nhìn xuống và thấy một hoa văn trên bậc thang bà đang đứng, có gì đó trước giờ bà chưa bao giờ để ý: một hình mặt trời và mặt trăng được kết từ hàng ngàn viên gạch bằng vàng và bạc.

Luồng điện Tsagaglalal lóe lên và bầu không khí tràn ngập mùi hương hoa lài.

Núi lửa phun trào ngay bên dưới nền Tor Ri. Ngọn tháp bị xé toạc, đồng thời bị nuốt chửng vào dòng dung nham sôi sùng sục. Chỉ trong quãng thời gian của mười hai nhịp tim đập, ngọn tháp pha lê và tất cả mọi thứ nó chứa trong đó vụt tan biến sạch.

CHƯƠNG NĂM MƯƠI LĂM

Một trăm người theo Virginia Dare ra khỏi khu chợ. Vào lúc cô ả đến được quảng trường bên ngoài nhà tù, đám đông đã phình ra gấp mười lần con số trước đó, và cứ mỗi phút số người đến càng đông hơn. Cái tên Aten được hô vang, ầm ầm rung chuyển khắp mặt đá.

“À, thử nghiệm lớn lao đầu tiên của cô cơ đấy,” Tiến sĩ John Dee nói, gần như vui sướng hân hoan. “Trong vài phút nữa những cánh cổng nhà tù sẽ bật mở, bọn anpu và Asterion sẽ xuất hiện. Nếu người của cô tản ra thì cô sẽ thua. Mà tin tôi đi, Virginia, ngay khi nhìn thấy máu, họ sẽ bỏ chạy liền. Họ đang làm chủ sinh mạng của họ mà.”

“Cám ơn ông vì những lời động viên ấy,” Virginia làu bàu. Nhưng sâu tận trong lòng mình, ả biết tay Pháp sư này nói đúng. Khi đạo quân chiến binh trang bị vũ khí hạng nặng lao vào đám đông, lòng can đảm vừa mới tìm thấy sẽ ngay lập tức tan thành mây khói.

“Đây là các nông dân, những người bán hàng, và nô lệ mà,” Dee nói. “Họ biết gì về chiến tranh kia chứ?”

“Vài người trong số họ đang mang vũ khí đấy thôi,” Virginia lưu ý.

Quảng trường trước nhà tù đầy nghẹt người, và những người mới đến quả thật có mang vũ khí tự chế: cuốc xẻng, mai thuổng, gậy gộc. Cô ả nhìn thấy một anh thợ làm bánh còn mang cả cái thùng tròn tròn, và nhiều người khác cầm những ngọn đuốc đang cháy phừng phừng.

“Ồ vâng, và tôi có thể nhìn thấy các ‘vũ khí’ này rất hiệu quả trong việc chống trả với kiếm gươm, giáo mác, và cung tên nữa đấy.” Dee đứng bên cạnh ả, ngước nhìn lên mấy bức tường nhà tù trên cao. Bây giờ khắp nơi đều có lính canh, hắn có thể nghe rõ tiếng cười nhạo báng từ trên cao đó vọng xuống. “Cô chưa suy nghĩ kĩ vụ này, đúng không? Marethyu nói với cô và bất chợt cô xách động một cuộc cách mạng thôi.”

“Chưa,” ả thừa nhận. “Mọi thứ diễn ra nhanh quá.”

“Cô có tiếc không đấy?” hắn hỏi.

“Hoàn toàn không!” ả gắt. “Khi người Anh, người Pháp, và người Tây Ban Nha xâm chiếm đất nước tôi, hẳn tôi có thể, đúng ra là tôi nên vùng lên chống lại họ mới đúng. Nhưng tôi đã không làm. Lẽ ra tôi phải làm khác đi.”

Dee cau mày. “Chúng ta đang nói về chuyện gì thế? Cô là người Anh kia mà.”

“Tôi là người Mỹ đấy chứ,” ả nói với vẻ đầy tự hào. “Tôi là người châu Âu đầu tiên sinh ra trên đất Mỹ.” Mái tóc Virginia bắt đầu dựng đứng lên thành một phiến tóc kêu lắc rắc khi cơn giận kêu o o tràn khắp người. “Nhìn xung quanh ông đi, Tiến sĩ, ông thấy gì hử?”

Hắn nhún vai. “Cư dân Danu Talis. Cư dân nguyên thủy,” hắn nói thêm.

“Ai bị Elder bắt làm nô lệ, ai dùng lũ quỷ sứ áp đặt luật lệ. Trước đây tôi đã từng nhìn thấy thế này, trên thế giới này và nhiều thế giới khác, nhưng không phải hết thảy bọn quỷ sứ đều khoác hình hài quái thú. Tôi đã quan sát điều này xảy ra trên quê nhà mình. Tôi sẽ không cho phép nó xảy ra một lần nữa,” ả nói dữ tợn.

“Cô có thể chết tại đây cho xem,” hắn nói khẽ.

“Đúng.”

“Vì những con người cô không hề quen biết...”

“Tôi quen biết họ chứ. Tôi đã từng nhìn thấy những người thế này suốt cả cuộc đời dài dằng dặc của mình kia mà. Và giờ đây số phận lại mang tôi tới đây.”

“Ừm, thật ra thì, tôi đã mang đấy. Mặc dù người đàn ông có bàn tay móc câu kia liên quan khá nhiều.”

Tiếng rền rĩ lan khắp đám đông khi cánh cổng nhà tù cọt kẹt mở và các đạo quân bắt đầu túa ra xếp thành những hàng dài thẳng tắp. Ánh mặt trời buổi chiều chiếu màu đỏ như máu trên bộ giáp và vũ khí của bọn chúng.

“Và tôi phải tin rằng mình ở đây để làm nên những điều khác biệt.” Ả chọc vào ngực tay Pháp sư, mạnh đủ để hắn phải loạng choạng. “Thế thì ông ở đây vì cái gì, Tiến sĩ Dee?”

Ả đặt ra cho hắn một câu hỏi đã khiến hắn lo nghĩ suốt kể từ giây phút được Marethyu hồi phục sức khỏe, nếu không nói đó là sức trẻ. Tại sao hắn có mặt ở đây? Ngày hôm nay là sự pha trộn giữa rất nhiều cảm xúc hết sức đặc biệt. Hắn đã đi từ đắc thắng đến đại bại chỉ trong phút chốc, hắn đang hấp hối, rồi đột nhiên hồi tỉnh. Mà vì cái gì? Cuộc đời dài đằng đẵng đã trang bị cho hắn những kĩ năng đặc biệt. Hắn nên sử dụng các kĩ năng ấy như thế nào?

Lão già vừa thở dài vừa nhìn quanh quất. Đám đông trong quảng trường đã tăng gấp đôi, đến cả hai ngàn người. Họ la hét, hô vang tên Aten, nhưng không một ai dám tiến tới quá gần mấy bức tường xiên xiên của nhà tù. Trong tích tắc nữa thôi, lũ quỷ sứ đầu thú sẽ tấn công, và Dee chắc chắn sẽ có những tràng cười khủng khiếp trong quảng trường này. Từng có thời, việc ấy chẳng hề khiến hắn bận tâm. Nhưng rồi hắn đã thành người bất tử, hơn hẳn người thường. Và bây giờ việc trở lại làm một con người bình thường mang cho hắn cái nhìn rất khác.

“Được rồi,” cuối cùng Dee nói. “Chính xác tôi đã trải qua một phần rất lớn trong cuộc đời bất tử của mình với vai trò làm cố vấn cho vị nữ hoàng vĩ đại nhất nước Anh. Tôi đã giúp đánh bại Armada người Tây Ban Nha. Vì thế có vẻ như vào cuối đời, tôi quay trở lại, một vòng tròn khép kín, với vai trò nguyên thủy của mình: cố vấn cho nữ hoàng.”

Virginia chớp mắt ngạc nhiên. “Tôi đâu phải nữ hoàng.”

“Ồ, cô sẽ là nữ hoàng đấy,” hắn nói hết sức tự tin. “Vậy thì sau đây là những gì tôi đề xuất.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx