sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu nữ - Chương 60 - 61 - 62

CHƯƠNG SÁU MƯƠI

Phòng Hội đồng nằm chính giữa Kim tự tháp Thái Dương, chiếm trọn tầng thứ 314, ngay tâm điểm của công trình. Từng hàng ghế bậc thang xếp thành những ô vuông thấp dần xuống một vòng tròn giữa phòng. Gian phòng hoàn hảo về mặt âm thanh: những lời phát biểu ở phía bên kia phòng, thậm chí ở vị trí xa nhất, cách hơn ba trăm mét, cũng có thể nghe được rất rõ, như thể phát ra ngay bên cạnh mình.

Gian phòng này, cũng như những phần khác của kim tự tháp, hấp thu tất cả mọi năng lượng của luồng điện.

Khi các Elder Vĩ đại tạo ra công trình nguyên thủy thậm chí còn bề thế hơn cả Kim tự tháp Thái Dương, họ đã nhận ra rằng phải cần một không gian an ninh để điều khiển công việc. Một nơi mà không Elder nào có thể gây ảnh hưởng đến người khác bằng luồng điện của bản thân. Một sự kết hợp giữa toán học với pha lê cùng những tấm vàng, tấm bạc lát trên tường nuốt chửng bất kì luồng điện nào. Bất cứ năng lượng nào rò rỉ khỏi hệ thống an ninh duy nhất này đều được chuyển thành ánh sáng cho những gian phòng rộng bao la. Bên trong Kim tự tháp Thái Dương, tất cả các Elder Vĩ đại mạnh mẽ vô song và các Elder thời sau đều ngang bằng như nhau.

Và hầu hết các Elder hiện đại đang thống trị khắp hòn đảo đế chế nếu có căm ghét khối kim tự tháp này thì chính xác chỉ vì lí do đó.

“Nhìn họ kìa,” Bastet rít lên.

“Ai ạ?” Anubis vừa hỏi, vừa dõi khắp phòng xem ánh mắt mẹ hắn dừng lại chỗ nào.

“Isis và Osiris, còn ai nữa!”

Bastet và Anubis đang đứng trên một trong những bậc cao nhất của gian phòng. Là những Elder lỗi lạc xuất chúng, lúc nào hai mẹ con cũng chiếm lấy vị trí hàng đầu trong ô có ghế mạ vàng phía trước vòng tròn. Nhưng lần này Bastet cứ khăng khăng bảo rằng phải ở trên đây để có thể nhìn xuống khắp đám đông khổng lồ đang dần dần lấp kín chỗ.

Phần lớn các vóc dáng vẫn còn mơ hồ chút gì là người, nhưng số còn lại hóa ra gớm guốc vì tuổi già và việc sử dụng dồn dập luồng điện đã hủy hoại họ. Những cái đầu và chi của loài thú có lông là chuyện bình thường, vài sinh vật còn có cánh. Số khác bắt đầu có khuynh hướng hóa nên các sinh vật bằng đá hoặc gỗ, trong khi số khác nữa lại biến thành quái thú có xúc tu.

“Chỉ một số ít vắng mặt,” Anubis lưu ý. “Con không nhìn thấy Chronos.”

“Tốt.”

“Annis Đen cũng đâu mất.”

“Tội nghiệp, bà ta là đồng minh được đấy,” Bastet lơ đãng vừa nói, vừa chồm tới theo dõi Isis và Osiris đang rẽ giữa đám đông. Họ rất dễ theo dõi, cao ráo, mặc bộ giáp nghi thức trắng tinh. Mụ quan sát họ gật đầu và mỉm cười. “Lần này họ sẽ chẳng làm gì đâu. Họ đã tạo ra sự phấn khích này và hứa hẹn tất cả sẽ tiết lộ rất nhanh thôi.”

“Sao mẹ biết?” Anubis hỏi mẹ.

“Nếu là ta thì ta cũng làm vậy.” Mụ liếc nhanh sang con trai. “Bọn trẻ sao, chết cả chưa?”

Hắn gật đầu tự tin. “Con đã sai ba tên quỷ ám đi rồi.” Hắn cười toe.

“Ba tên cho hai đứa nhỏ. Thế là tàn sát quá tay rồi, con có nghĩ thế không?”

Anubis nhún vai. “Con muốn chắc ăn.”

Bastet gật đầu hài lòng. “Tốt. Cứ suy nghĩ như thế thì con sẽ là một nhà cai trị vĩ đại. Còn Aten?”

“Trên đường tới. Ard Greimne nói có giống người bên ngoài nhà tù. Y cần quét sạch bọn ấy trước cái đã.”

“Ta thích y. Tàn bạo và hiệu quả,” Bastet nói. “Chắc chắn chúng ta sẽ sắm được cho y một vai trong những ngày sắp tới.”

Anubis để ý thấy mụ dùng từ chúng ta nhưng không nói gì. Hắn có kế hoạch cai trị Danu Talis theo cách của mình và các kế hoạch đó không có tên mẹ hắn.

Janus Nhỏ sải bước đến giữa vòng tròn. Quá trình Biến đổi đã chuyển hóa Elder này một cách khủng khiếp, bây giờ ông có đến bốn khuôn mặt khác nhau hoàn toàn, mỗi khuôn mặt có thể cử động và nói chuyện độc lập với các khuôn mặt kia. Thường thường ông che chúng dưới một chiếc nón bảo hiểm bằng kính đen thui, và mỗi lúc chỉ để hở một gương mặt ra trước thiên hạ, nhưng hôm nay ông ta gỡ bỏ không che đậy gì hết. Tuy rất kinh khiếp không ai dám nhìn, nhưng Quá trình Biến đổi riêng biệt ấy lại cho thấy rằng ông ta có thể cùng một lúc trực diện với cả bốn phía của gian phòng. Ông giơ cao một hình tam giác bằng bạc nhỏ xíu, dùng cây búa vàng đánh vào đó. Âm thanh thuần khiết vang khắp gian phòng, ngay lập tức làm nín bặt mọi câu chuyện đang dang dở.

“Hỡi các Elder của Danu Talis,” ông ta công bố. “Xin vui lòng an tọa chuẩn bị cho phiên họp quan trọng đầu tiên sau nhiều năm nay.”

Mọi người ai nấy bắt đầu đi vào hàng ghế của mình, tiếng di chuyển lao xao. Ở vài vị trí, ghế ngồi đã được gỡ ra để tạo tiện nghi cho những hình dạng đã biến đổi của các Elder.

Janus đánh vào hình tam giác kia một lần nữa. “Đây là một ngày vĩ đại và kinh khủng. Một ngày chúng ta đến để chọn ra nhà cai trị kế tiếp của thành phố này, một ngày chúng ta đứng ra xét xử một người trong chúng ta.”

Các Elder tiếp tục rồng rắn len qua các lối đi, để vào chỗ. Anubis theo sau Bastet băng xuống các hàng ghế, vừa đi vừa gật đầu và mỉm cười. Hắn có nhiều bạn bè ở đây, à mà không nhiều bạn lắm, thật ra thì giống đồng minh hơn. Trọn cả gian phòng này, gần như chắc chắn chỉ một nhúm nhỏ ủng hộ Aten và giống người, nhưng họ là các Elder đầy quyền lực và chẳng dễ gì bị loại bỏ.

Janus đánh vào hình tam giác kia lần thứ ba. “Tuy nhiên, tôi tin có lẽ đây là ngày vĩ đại nhất trong lịch sử Danu Talis.”

Bastet ngoái nhìn con trai, đầu mụ vặn theo một góc độ không tự nhiên. “Ta cược Isis và Osiris đã trả tiền để lão nói thế.” Mụ mỉm cười kinh tởm Elder bốn mặt kia và chuồi vào chỗ ngồi trong hàng ghế đầu.

Anubis vào ghế kế bên mụ. Hắn lấy khuỷu tay thúc mẹ. Hai ghế đối diện thuộc về Isis và Osiris, nhưng chỉ có Isis ngồi đó. “Osiris đâu ạ?” hắn hỏi, hoàn toàn quên mất tiếng nói mình vang rõ khắp gian phòng.

“Ông ấy đi mang cặp song sinh huyền thoại về cho chúng tôi,” Isis đáp lớn, giọng bà ngân nga vang khắp.

Tất cả mọi Elder tụ tập ngồi phía trước đều nghe rõ lời bà nói, cả gian phòng mênh mông rơi vào im lặng chết người.

“Vâng, cặp song sinh đang ở đây. Các nhà cai trị hợp pháp của Danu Talis đã về nhà.” Isis định quay mặt ra cửa thì bất chợt các cánh cửa mở bung ra và Osiris xuất hiện với đôi mắt mở lớn hoang dại. “Chúng đi mất rồi!” ông ta la lớn, giọng vang như sấm rền. “Máu khắp nơi!”

“Ồ, xấu hổ chưa,” Bastet nói nghe rừ rừ.

“Buồn thật,” Anubis tán thành. “Một mất mát quá bi thảm.”

“Có ba tên quỷ ám chết trong viện bảo tàng cũ.”

Bastet siết chặt cánh tay con trai một lần nữa, móng tay mụ cắm thấu xương, trong khi cả phòng vang lên những tiếng la ó, nhao nhao thắc mắc.

Một tên anpu đầy thẹo rên ư ử chạy qua cánh cửa đang để mở, vượt qua mặt Osiris. Cả phòng rơi vào im lặng chết người. Không một ai trong số bọn quái thú và lai tạp được phép vào bên trong phòng Hội đồng. Mà tên này còn chạm trúng một Elder.

“Xin ông hãy tự bảo vệ,” tên anpu nói như sủa. “Chúng ta đang bị tấn công! Giống người ở trên trời đáp xuống.”

Lúc cả phòng ùa lên hỗn loạn, Bastet quay sang Anubis. “Ta không biết chúng nói được như thế,” mụ nói.

“Con cũng vậy,” hắn làu bàu. “Chúng chưa bao giờ nói chuyện với con.”

Sau đó, toàn bộ khối kim tự tháp bắt đầu rung lên bần bật.

“Động đất,” Bastet lào thào. “Ồ, ngày hôm nay còn gì tệ hơn nữa không nhỉ?”

Từ bên kia gian phòng, Isis và Osiris cả hai đều quay lại nhìn mụ, nụ cười của hai người giống hệt nhau. “Ồ, vâng,” họ thầm thì. “Tệ hơn nhiều ấy chứ.”

CHƯƠNG SÁU MƯƠI MỐT

Trên một hòn đảo nhỏ xíu bốn bề dung nham sôi sục, Aten, Chúa tể Danu Talis, ngồi trong chuồng, chờ giờ tuyên án.

Ông ta kiệt sức, phỏng rộp, sẹo đầy mình do dung nham văng trúng, tấm áo chùng của ông lấm tấm những lỗ cháy sém. Ông cũng ý thức rằng dung nham đang dâng cao, bọt lớn hơn và thường xuyên hơn. Bầu khí vốn đã dày đặc lưu huỳnh, lúc này lại càng khó thở hơn. Nếu người ta không sớm đến giết chết ông, thì họ cũng sẽ tìm thấy ông chết vì ngạt thở mất thôi. Ông đoán chừng cả mẹ và em trai đều không ai hài lòng vì việc đó.

Ở bên kia ao dung nham, một ánh sáng trắng hình chữ nhật xuất hiện khi cánh cửa ra vào bật mở. Ba tên anpu đẩy cây cầu vào đúng chỗ, và rồi Dagon, tên cai tù, vội vã tiến đến, cặp kính bảo hộ đang đeo khiến mặt hắn thậm chí trông còn giống loài cá hơn. Hai tên lính canh khổng lồ đi cùng hắn, trong khi tên thứ ba ở lại canh cửa. Cho dù tù nhân có chế ngự được hai tên lính canh thì kẻ đó cũng không bao giờ kịp trở lại cây cầu trước khi tên lính gác trượt qua cửa và khóa cứng bên ngoài.

Dagon tránh không nhìn vào mắt ông ta trong lúc nghịch vớ vẩn cái ổ khóa số. “Đã đến lúc rồi, Chúa tể Aten.”

“Tôi biết.”

“Lính canh đã được lệnh phải giết chết ông nếu ông cố trốn thoát.”

“Không đâu, Dagon. Trốn rồi sẽ đi chỗ nào? Trốn rồi sẽ làm gì? Tôi đang ở nơi mình phải ở mà.”

Tên cai tù lục sục một tràng cười tàn nhẫn. “Chúa tể Aten, tại sao bất kì ai cũng nghĩ rằng ông tự cho phép mình bị bắt.” Hắn bất chợt nhìn lên. “Ồ,” hắn thì thầm khi nhận ra ánh bình minh. Dagon bước gần đến hàng chắn và hạ giọng. “Giống người đòi ông đấy, Chúa tể Aten. Họ đang phản đối bên ngoài nhà tù. Khắp thành phố náo loạn cả lên.” Hắn hạ giọng xuống đến mức chỉ còn là tiếng thở lào thào. “Có nhiều tin đồn cho rằng lúc này thậm chí cả một đạo quân lớn đang lên đường giải cứu ông.”

“Đạo quân của ai?” Elder hỏi nhỏ nhẹ.

“Nữ thần Ba mặt sai Huitzilopochtli đến cứu ông.”

“Anh nghe ở đâu thế?”

“Từ chính Ard Greimne đấy. Ông biết ông ta có gián điệp khắp nơi còn gì.”

Aten cúi đầu như chìm vào suy nghĩ, nhưng hai bên, cả ông và Dagon, đều biết rằng cử chỉ ấy hàm ý cám ơn tên cai tù vì thông tin vừa rồi.

Ard Greimne điều hành nhà tù khổng lồ này và chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự trong thành phố cùng vùng đất phía bên kia. Elder cổ xưa kiểm soát một lực lượng cảnh vệ anpu và Asterion, cũng như một số loài lai tạp mới lợn đực, gấu và mèo đến từ các phòng thí nghiệm của Anubis. Một trong những niềm kiêu hãnh đáng tự hào nhất là không một giống người nào được bước đi trên đường phố Danu Talis và không một ai được đặt chân lên những phiến đá lát mạ vàng của những vòng tròn nội bộ xung quanh nhà cửa của các Elder.

Cửa xà lim lích kích mở, Aten bước ra.

“Hãy theo tôi,” Dagon nói. “Cẩn thận, mấy thanh gỗ trên cầu bị gãy đấy. Tôi đã định thay chúng, nhưng chưa có thời gian.”

Aten bắt nhịp bước đằng sau Dagon. “Tôi sắp sửa bị quăng vào miệng núi lửa, một chút cháy bỏng thế có là gì.”

Dagon không rõ Aten có mỉa mai hắn không nữa. “Ard Greimne muốn gặp ông trước khi ông rời khỏi đây.”

“Ồ, tôi chắc là ông ấy muốn hả hê đấy thôi.” Giọng Aten vẫn nhẹ nhàng. “Ông ta chẳng bao giờ ưa tôi cả, cảm giác này hoàn toàn có qua có lại. Chẳng giấu giếm gì, tôi đang kiếm người thay thế ông ta đấy.”

Dagon dẫn nhà cai trị qua cầu, rồi đứng bên cạnh ông ta chờ đợi trong lúc bọn anpu nhấc cây cầu lên khỏi dòng dung nham cháy rực. Nếu cây cầu ở một chỗ quá lâu, nó sẽ bị cháy.

Tên lính canh mở cửa, Aten theo Dagon đi qua, lóa mắt khi bước vào vùng ánh sáng, hai con ngươi trong đôi mắt vàng phẳng bẹt của ông chuyển thành hai đường nằm ngang.

“Có nhiều bậc cầu thang,” Dagon vừa nói như xin lỗi, vừa ngước nhìn lên.

Aten dõi theo ánh mắt gã và thấy hàng trăm bậc cấp thấp chật hẹp mất hút trong vùng tối u ám.

“Nếu đây là chuyến đi cuối cùng, thì tôi sẽ thưởng thức từng bậc một,” Aten trả lời, và hai người một cai ngục, một tù nhân, bắt đầu leo dài từ dưới nhà tù lên đến khu nhà cai tù bên trên.

“Được nửa đường,” chỉ lát sau Dagon nói.

Có vẻ như cuộc leo trèo này không ảnh hưởng gì tới Dagon, nhưng Aten nghe có tiếng tim đập trong lồng ngực hắn. Ông cũng ý thức là có cả tiếng ồn trầm rền rền. Thoạt tiên nghĩ là dung nham, nhưng sau đó ông nhận ra tiếng động xuất phát từ bên trên. “Cái gì thế?” Elder hỏi.

“Đó là giống người đang phản đối ở ngoài kia,” Dagon nói. “Khi tôi vào đây, mỗi lúc số người lại càng phình ra. Hồi nãy có tới cả ngàn người ở đó, bây giờ có lẽ đến tám hoặc thậm chí là mười ngàn. Dân chúng đang đòi ông được thả tự do.”

“Thế Ard Greimne nói gì?” Aten hỏi.

“Ông ta chuẩn bị đưa ra ngoài mọi thứ mình có để nghiền nát họ. Tôi tin ông ta đã ra lệnh cho bọn lính gác phải thật hung ác. Ông ấy nói mình sẽ dạy giống người một bài học nhớ đời.”

“Tôi hiểu.” Aten đã rõ chuyện gì đang xảy ra. “Anh cần phải đưa mấy người chống đối ấy đi khỏi đây để lính gác có thể đưa tôi lên kim tự tháp chứ.”

Gương mặt Dagon cho thấy chẳng có phản ứng gì. Hắn đẩy cặp kính lên đầu, khiến trông như hắn có hai cặp mắt. “Tôi hiểu Bastet và Anubis đang chờ ông lên đó.”

Aten gật gù. “Và tôi chắc họ không muốn tôi chậm trễ trong lễ an táng của chính mình đâu.”

Ard Greimne đang chờ nơi đầu bậc thang.

Ông ta thấp người, mảnh dẻ, trông khá giống người thường, chỉ phải chịu những dấu hiệu rất mơ hồ của Quá trình Biến đổi, tóc trên đầu rụng hết, xương sọ nhọn, dài ra như thể mọi nét mặt của ông ta đều kéo ngược dọc hai bên mặt. Hai sợi râu mép màu đỏ treo dưới mũi, cong cong uốn qua viền môi, cùng với đôi mắt màu xanh lá chói lói. Ông đang mặc, như mọi khi, một chiếc áo thụng hình chữ nhật cổ xưa giăng từ cổ xuống tới bàn chân nhưng để hở hai cánh tay. Một phong cách thời trang đã không còn thịnh hành cách đây hàng thế kỉ.

“Làm thế nào mà người hùng mạnh lại thất bại thế kia,” ông ta vừa nói, vừa nhìn xuống Aten. Ard Greimne thấp người và nhạy cảm về chiều cao của mình không thể tưởng, lúc nào cũng mang giày độn bên trong. Khi thấy Aten không đáp, ông ta nói lại lần nữa. “Tôi đã nói là làm thế nào mà người hùng mạnh…”

“Thật chẳng hài hước hoặc thậm chí chẳng thông minh tí nào khi vừa gặp đầu tiên ông đã nói thế,” Aten nói. “Mà đó cũng đâu phải là nguyên bản.”

Gương mặt xanh xao của người đàn ông nhỏ thó vặn vẹo trông giống một nụ cười. “Những lời can đảm của một người sắp chết cơ đấy.”

“Tôi chưa chết được đâu,” Aten nói.

“Ồ, nhưng sẽ chết thôi.”

Aten lên đến bậc thang trên cùng, bước ngang qua Elder, từ nhà tù Tartarus ló ra mặt sân mênh mông.

Tiếng la hét từ bên ngoài mấy bức tường nhà tù dậy lên như giông bão, vỗ ầm ầm vào mặt đá. “Aten... Aten... Aten...”

“Người của ông đòi ông kìa,” Ard Greimne giễu cợt.

Ngay phía trước Aten, dàn cảnh vệ của Ard Greimne đứng thành bốn hàng dài. Phần lớn là anpu hay Asterion, nhưng cũng có bọn đầu bò và lợn đực giữa hàng ngũ ấy nữa. Tất cả đều mặc giáp đen chạm nổi biểu tượng cá nhân của Ard Greimne, một con mắt mở trừng trừng luôn quan sát. Bọn chúng mang gậy tày và roi, một vài tên có giáo mác. Thậm chí còn có những cung thủ rải rác trong nhóm.

“Tôi biết ông quý trọng giống người này…,” Ard Greimne bắt đầu nói.

“Đúng,” Aten trả lời khi Elder nhỏ thó còn chưa nói dứt câu.

Đôi môi mỏng dính của Ard Greimne cong tớn lên. “Tôi cũng biết ông xem chúng như hậu duệ của các Elder.”

“Đúng.”

“Nếu ông kính trọng chúng nhiều đến thế, tôi muốn ông lên bờ tường bảo chúng hãy giải tán trong hòa bình đi.”

“Tại sao tôi phải làm thế?” Aten hỏi.

“Bởi vì nếu không, tôi sẽ thả cảnh vệ trên chúng đấy. Tôi sẽ đặt một trăm - không, hai trăm cung thủ trên tường và bảo họ bắn thẳng vào đám đông. Sẽ có hoảng loạn. Sau đó tôi mới đưa người của mình ra.”

“Đó sẽ là một cuộc tàn sát,” Aten thì thào.

“Chỉ chết vài trăm thôi mà. Chúng tôi sẽ không giết chết hết đâu. Chúng tôi thật sự muốn một số trở về nhà và loan tin. Lúc nào giết sạch bọn nô lệ cũng ảnh hưởng xấu đến công việc.”

“Ông muốn tôi nói chuyện với dân chúng?” Aten xác nhận.

“Đúng.”

“Tôi sẽ làm thế,” Aten nói không chút chần chừ.

“Tôi tưởng ông sẽ từ chối chứ,” Ard Greimne nói, hết sức ngạc nhiên.

Aten lắc đầu. “Tôi sẽ bảo họ những gì họ phải làm thôi mà.”

CHƯƠNG SÁU MƯƠI HAI

“Giữ chắc!” Prometheus hét toáng.

“Tôi sẽ không bao giờ bước vào chiếc vimana một lần nào nữa hết,” Shakespeare thề. “Nếu nó không đâm sầm vào gì đó thì cũng phát cháy. Tôi có thể hiểu tại sao chúng lỗi thời.”

Chiếc vimana lạch cạch, rầm rầm từ trên trời rơi thẳng xuống Kim tự tháp Thái Dương.

“Chúng ta phải di chuyển rất nhanh trước khi bọn chúng nhận ra chúng ta sắp làm gì,” Prometheus nói. “Vì thế một khi đáp đất, hãy nhảy ra và chiếm lấy các vị trí trên bậc thang. Không ai được lên mái nhà. Rõ chưa? Không một ai.”

“Tại sao cơ chứ?” Joan hỏi.

“Tôi không biết. Nhưng Abraham đã chỉ dẫn rất rõ về chuyện này.”

Joan lấy bàn chân thúc vào chồng. “Cất sách đi. Em nghĩ anh sắp tham gia nghiên cứu thực tế phục vụ cho đoạn kết của tác phẩm âm nhạc này rồi đấy.”

“Loại nghiên cứu gì chứ?” ông ta hỏi.

“Đại loại như tiếng đổ sầm, tiếng kêu thét, em tin là thế,” cô đáp.

“Trận tử chiến cuối cùng,” Saint-Germain vừa nói, vừa lồm cồm đứng dậy, đôi mắt màu xanh lơ nhạt lóe lên phấn khích. “Anh sẽ gọi tác phẩm này là Trận Tử Chiến Cuối Cùng, hoặc có thể là Bài Rock Cuối Cùng! Với một dấu chấm than đấy nhé.”

“Ngay lúc này em không cần ai nhắc nhở điều đó,” Joan dịu dàng nói.

“Không đúng lúc hả?”

Joan chỉ ra cửa sổ, Saint-Germain đi đến nhìn. Ông đứng cạnh cô, chăm chú nhìn khối kim tự tháp đồ sộ phóng thẳng về phía họ. Ông quàng tay quanh người vợ, ôm lấy cô khi con tàu bắt đầu lạch cạch nghiêng qua một bên. Động cơ rung bần bật, âm thanh lớn đến long óc nhức tai, và mọi bề mặt đều rung lên.

Mấy ô cửa sổ bật nảy, gãy vỡ và một dải kim loại dài bong toạc ngay dưới chỗ ngồi của William Shakespeare, khiến hai chân ông lơ lửng giữa không trung. Palamedes chụp lấy ông, kéo mạnh ông trở lại khi chiếc ghế bung ra, bị hút qua lỗ hở.

“Đừng nói gì hết!” Palamedes cảnh báo.

Toàn bộ bảng điều khiển trước mắt Prometheus bắt đầu bể vụn và nổ giòn, rồi tan chảy thành từng hạt chất lỏng.

“Ồn quá!” Will la lớn, bất chợt chỉ còn một âm thanh duy nhất là tiếng không khí quất qua khe hở.

Will buông tay khỏi đầu, nhìn quanh quất. “Thà ồn còn hơn.”

Sau đó chiếc vimana đụng vào đỉnh kim tự tháp, kim loại loảng xoảng. Con tàu trượt dài qua bề mặt bằng phảng bóng loáng của công trình kiến trúc ấy, xoay tít mấy vòng.

“Với vận tốc này chúng ta sẽ văng khỏi mép sàn mất,” Saint-Germain điềm tĩnh nói. Ông thò tay qua ô cửa sổ rách bươm, nhúc nhích ngón tay. “Mồi lửa,” ông thì thào, bầu không khí thoáng mùi lá cháy trong khi bầy bươm bướm xoáy hình trôn ốc cuộn bay ra khỏi ống tay áo.

Ngọn lửa trắng nóng chói gắt tràn qua mặt kim tự tháp, làm tan chảy bề mặt bằng vàng, biến nó thành lầy nhầy, lính dính. Chiếc vimana đang trượt xoay tròn ngay lập tức chậm lại, những giọt vàng bắn như mưa. Saint-Germain bật tanh tách ngón tay và một lần nữa vàng cứng lại, bắt con tàu dừng lại cót két giật rùng rùng, cách mép mái nhà chưa đầy một thước.

Will Shakespeare phá vỡ sự im lặng theo sau. “Rất ấn tượng, Nhạc sĩ,” ông nói giọng run run. “Tôi chắc chắn sẽ cám ơn anh trong vở kịch kế tiếp của mình.Thực ra, thậm chí tôi còn phải viết về anh trong đó nữa mới được.”

Saint-Germain cười toe. “Một anh hùng hả?”

“Anh không nghĩ một kẻ côn đồ thì thú vị hơn nhiều à?” Will hỏi. “Tất cả sẽ là những dòng hay nhất.”

Prometheus và Palamedes đạp vào hông tàu, lấy thế nhảy ra. Hiệp sĩ Saracen chìa tay giúp Joan ra, theo sau là Shakespeare và cuối cùng là Saint-Germain. Prometheus kê vai vào chiếc vimana tan nát, cố nhấc lên. Nó kháng lại một chút, rồi sau đó giật từng khúc vàng đã khô đặc tróc ra khỏi kim tự tháp, rơi qua bên hông. Con tàu bay vèo thành một hình cung cong cong, đụng vào mấy bậc thang nổ tan tành nào là gỗ, kim loại, với kính.

“Mấy người dưới đó sẽ ngạc nhiên lắm,” Joan vừa nói, vừa săm soi nhìn theo. Bậc thang trải dài không biết bao giờ mới hết, người ta bên dưới nhỏ xíu như những hạt lấm tấm.

“Tôi nghi ngờ không biết sẽ còn lại gì ngay lúc nó đụng dưới đáy kia.” Saint-Germain mỉm cười. “Bụi, có lẽ.”

Phía dưới họ, những chiếc vimana và xe bay đang tách khỏi bầu trời lao xuống quảng trường, âm thanh đầu tiên của trận chiến xuất hiện yếu ớt - rất, rất yếu ớt.

“Hãy xuống vài bậc và vào vị trí,” Prometheus chỉ dẫn. “Không để ai lên mái. Will và Palamedes, hai người giữ sườn phía bắc. Saint-Germain, anh có thể giữ sườn phía tây được không? Joan, phía đông là của cô. Còn tôi sẽ trụ phía nam.”

“Tại sao ông lại chọn bên sườn nguy hiểm thế?” Saint- Germain hỏi.

Elder cao lớn mỉm cười. “Tất cả đều nguy hiểm cả mà.”

Nhóm nhỏ nhanh nhẹn ôm lấy nhau. Dù không ai bảo ai, nhưng họ đều biết đây có thể là lần cuối cùng gặp lại nhau.

Saint-Germain hôn Joan trước khi họ rời ra. “Anh yêu em,” ông nói rất đỗi dịu dàng.

Cô gật đầu, đôi mắt xám màu đá lung linh sau màn nước mắt.

“Khi nào mọi chuyện này kết thúc, anh đề nghị tụi mình tiếp tục một tuần trăng mật thứ hai,” ông nói.

“Em thích thế,” Joan mỉm cười. “Hawaii luôn xinh đẹp trong thời gian này của năm, và anh biết là em thích ở đó lắm.”

Saint-Germain lắc đầu. “Chúng ta sẽ không đến nơi nào có núi lửa nữa.”

“Em yêu anh,” cô thì thào, và quay người đi trước khi họ bắt gặp nhau đang khóc.

“Tôi có xuất hiện trong vở kịch mới của ông không?” Palamedes hỏi Shakespeare khi hai người bắt đầu đi xuống những bậc thang bên sườn phía bắc kim tự tháp.

“Tất nhiên. Tôi sẽ làm cho anh thành anh hùng đấy.”

“Tôi tưởng ông bảo bọn côn đồ có nhiều dòng hay hơn kia mà,” chàng hiệp sĩ phàn nàn.

“Đúng là thế.” Shakespeare nháy mắt. “Nhưng các vị anh hùng thường có bài phát biểu dài nhất.”

“Ông có tựa sách chưa?”

“Ác mộng giữa trưa hè.”

Palamedes bật cười. “Vậy thì chẳng phải hài kịch đâu nhỉ?”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx