sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 1 - Chương 05 phần 2

Năm 1984, SIMEX bắt đầu kinh doanh các hợp đồng kỳ hạn lãi suất đồng đôla châu Âu và không lâu sau đó là đồng yên châu Âu. Vào năm 1998, SIMEX đã có trong danh sách một loạt hợp đồng trong khu vực bao gồm hợp đồng kỳ hạn về chỉ số chứng khoán của Nhật, Đài Loan, Singapore, Thái Lan và Hong Kong. Thời báo Tài chính Quốc tế (International Financing Review) tại London trao giải thưởng Sở Hối đoái Quốc tế trong năm 1998 cho SIMEX. Đây là Sở Hối đoái châu Á duy nhất từng đoạt danh hiệu này và cũng là lần thứ tư SIMEX đoạt giải thưởng này.

Khi khoản dự trù tài chính của chúng tôi tăng lên cùng với tiền tiết kiệm (chế độ hưu bổng của Singapore) trong Quỹ Dự phòng Trung ương (Central Provident Fund – CPF) và thặng dư khu vực quốc doanh hằng năm, MAS không thấy đầu tư dài hạn những khoản này với lãi suất cao. Tôi yêu cầu Keng Swee xem xét việc này. Tháng 5/1981, Keng Swee thành lập Cơ quan Hợp tác Đầu tư Singapore (Singapore Investment Corporation – GIC) với tôi là chủ tịch, Keng Swee làm phó chủ tịch, Sui Sen và nhiều bộ trưởng khác làm thành viên hội đồng. Thông qua mối quan hệ giữa Keng Swee với David Rothschild, chúng tôi tiến cử Công ty N.M. Rothschild & Sons làm cố vấn. Họ gửi một viên chức dày dạn kinh nghiệm đến làm việc với chúng tôi trong vài tháng nhằm thiết lập tổ chức GIC. Chúng tôi cũng thuê những nhà quản lý đầu tư người Anh và Mỹ để giúp chúng tôi phát triển các hệ thống cho nhiều dạng đầu tư khác nhau. Để lãnh đạo đội ngũ quản lý, chúng tôi bổ nhiệm Yong Pung How làm giám đốc điều hành thứ nhất của GIC. Anh ta đề cử James Wolfensohn làm cố vấn chiến lược đầu tư, người này sau làm chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Dần dần, họ xây dựng được một lực lượng nòng cốt các chuyên viên người Singapore do Ng Koh Song và Teh Kok Peng, những người đến từ MAS, lãnh đạo. Vào cuối những năm 80, họ và đội ngũ nhân viên của họ đã nắm được những trọng trách đầu tư và quản lý chính yếu.

Ban đầu, GIC chỉ quản lý những khoản dự trữ tài chính của chính phủ. Đến năm 1987, nó còn có thể quản lý những khoản dự trữ của Hội đồng Tham tán Tiền tệ Singapore cũng như các tài sản dài hạn của MAS. Năm 1997, GIC đang quản lý số tài sản trị giá hơn 120 tỷ đôla Singapore. Trách nhiệm quan trọng nhất của GIC là phân bổ đầu tư giữa vốn cổ phiếu thường, trái phiếu (chủ yếu là trái phiếu do chính phủ các quốc gia phát triển phát hành) và tiền mặt. Có một số sách giải thích những nguyên tắc mà những thị trường này hoạt động theo, song chúng không đưa ra chỉ dẫn nhất định để dự đoán những biến động giá cả tương lai, cũng như kiếm được những khoản lời đảm bảo. Trong thế giới đầy biến chuyển của những năm 1997–1998, GIC có thể kiếm lời hoặc lỗ vài tỷ đôla chỉ nhờ vào đồng yên Nhật mất giá hay đồng mác Đức lên giá một cách đột ngột so với đồng đôla Mỹ. Đầu tư là công việc kinh doanh mạo hiểm. Mục đích chủ yếu của tôi không nhằm tăng tối đa mức lợi mà nhằm bảo vệ giá trị tiền tiết kiệm của chúng tôi và đạt được một khoản lợi tức vừa phải dựa trên số vốn. Trong vòng 15 năm kể từ năm 1985, GIC đã làm tốt hơn cả các mốc chuẩn đầu tư toàn cầu thích đáng, và vượt xa việc đơn thuần gìn giữ giá trị tài sản của chúng tôi.

Tuy nhiên, trung tâm tài chính của Singapore được đánh giá là bị kiểm soát quá mức so với trung tâm tài chính của Hong Kong. Những người chỉ trích viết rằng: “Ở Hong Kong, những gì không bị cấm là được phép; còn ở Singapore, những gì không cho phép là bị cấm”. Họ quên rằng lá cờ Anh và Ngân hàng Anh hậu thuẫn cho Hong Kong. Còn Singapore, không có được lưới bảo hiểm đó, nên không thể gượng dậy từ cùng một thất bại đầy kịch tính một cách dễ dàng tương tự. Singapore trước hết phải tự thiết lập danh tiếng của bản thân. Các chủ ngân hàng nước ngoài đến thăm từng nói với tôi rằng thị trường tài chính Singapore sẽ phát triển nhanh hơn khi chúng tôi cho phép họ giới thiệu những sản phẩm tài chính mới mà không phải đợi chờ cho đến khi chúng được thử nghiệm ở nơi khác. Tôi đã lắng nghe chăm chú nhưng không can thiệp vào bởi lẽ tôi tin rằng chúng tôi cần có nhiều thời gian hơn để thiết lập vị trí và uy tín của chúng tôi.

Sau khi tôi từ chức Thủ tướng vào năm 1990, tôi có nhiều thời gian hơn để đi sâu vào lĩnh vực ngân hàng và có những bữa ăn trưa bàn công việc với các chủ ngân hàng Singapore. Một trong số họ là Lim Ho Kee, một nhà môi giới ngoại hối sắc sảo và thành công, người đang điều hành một ngân hàng nước ngoài lớn ở Singapore. Anh ta thuyết phục tôi xem xét lại những chính sách của chúng tôi mà anh ta cho là quá thận trọng và cản trở trung tâm tài chính mở rộng và bắt kịp các hoạt động của những trung tâm tài chính phát triển hơn. Khoảng giữa năm 1994, tôi cũng có vài phiên họp tự do thảo luận với những nhà quản lý hàng đầu người Singapore của các cơ quan tài chính nước ngoài. Họ thuyết phục tôi rằng, chúng tôi có quá nhiều tiền tiết kiệm quốc gia được cất giữ trong Quỹ Dự phòng Trung ương và ràng Ủy ban lập pháp của chúng tôi và các công ty liên kết với nhà nước quá Bảo thủ, thích đưa các khoản thặng dư của họ gởi vào ngân hàng. Họ có thể đạt doanh lợi cao hơn khi đầu tư qua những nhà quản lý quỹ đầu tư quốc tế có kinh nghiệm và tài giỏiở Singapore. Điều này sẽ mở rộng kỹ nghệ quản lý vốn và thu hút nhiều nhà quản lý quỹ đầu tư hơn, đến lượt những người này sẽ thu hút vốn nước ngoài đầu tư vào khu vực.

Những quan điểm về môi trường điều tiết và hoạt động ngân hàng của tôi bắt đầu thay đổi sau năm 1992 khi cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ George Shultz, với tư cách chủ tịch Hội đồng Tư vấn quốc tế của JP Morgan, một ngân hàng huân chương băng xanh[8] của Hoa Kỳ mời tôi làm thành viên hội đồng này. Thông qua các bản tóm tắt chi tiết và sự tiếp xúc qua lại với các chủ ngân hàng JP Morgan tại các cuộc gặp gỡ hai lần một năm, tôi có được sự nhận thức đúng về bản chất việc làm của họ và quan sát cách họ chuẩn bị cho công cuộc toàn cầu hóa ngành ngân hàng. Tài năng của các thành viên ủy ban kể cả các chủ tịch ngân hàng đã gây cho tôi một ấn tượng mạnh. Có những Tổng giám đốc điều hành có năng lực và thành đạt cũng như những cựu lãnh tụ chính trị từ từng khu vực kinh tế lớn trên thế giới mang đến những nguồn tri thức khác nhau. Tôi có ích cho họ vì những hiểu biết của cá nhân tôi về khu vực. Những thành viên khác thì đem lại kiến thức sâu rộng về khu vực hoặc chuyên môn của họ. Tôi thấy được họ đánh giá Đông Nam Á như thế nào so với các thị trường khác như: châu Mỹ La tinh, Nga, các thành viên khác của Liên bang Xô Viết và các quốc gia Đông Âu. Tôi bị ấn tượng bởi cách họ chuẩn bị và đón nhận những đổi mới và thay đổi của ngành ngân hàng, cụ thể là những phát triển trong công nghệ thông tin (IT). Tôi kết luận rằng Singapore đi sau họ rất xa.

[8] Blue-ribbon: giải thưởng cao nhất.

Là chủ tịch của GIC, tôi đã có những cuộc thảo luận với các Tổng giám đốc điều hành của những ngân hàng lớn của Mỹ, châu Âu và Nhật về các vấn đề của ngành ngân hàng, và tìm hiểu cách họ nhìn về tương lai của ngành ngân hàng toàn cầu. Khi so sánh, các ngân hàng Singapore đều có khuynh hướng hướng nội. Các ban giám đốc cũng như những viên chức cấp cao trong ngành ngân hàng chủ yếu là người Singapore. Tôi bày tỏ những mối quan tâm của mình với chủ tịch của ba ngân hàng lớn của chúng tôi, đó là Oversea–Chinese Banking Corporation, United Overseas Bank và Overseas Union Bank[9]. Qua phản hồi của họ, tôi kết luận rằng họ không ý thức được những rủi ro của sự thuần chủng và thiếu cái nhìn hướng ngoại và hướng đến tương lai trong một thời đại toàn cầu hóa nhanh chóng. Họ đang làm việc có hiệu quả và tránh được sự cạnh tranh. Họ muốn chính phủ tiếp tục hạn chế các ngân hàng nước ngoài mở thêm chi nhánh hoặc thậm chí cả những ATM (máy thu ngân tự động) nữa. Tôi cảnh báo họ rằng vì những hiệp ước song phương với Hoa Kỳ hay những hiệp ước của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), sớm muộn gì Singapore cũng phải mở rộng ngành ngân hàng và xóa bỏ chế độ bảo vệ các ngân hàng địa phương.

[9] Tập đoàn ngân hàng Hoa Kiều, Ngân hàng liên hiệp nước ngoài và Ngân hàng liên hợp hải ngoại.

Năm 1997, tôi quyết định phá bỏ khuôn phép cổ hủ này. Các ngân hàng Singapore cần một đội ngũ nhân tài nước ngoài và một nguồn tri thức khác. Nếu ba ngân hàng lớn này không đổi mới thì Ngân hàng DBS, mà chính phủ có cổ phần trong đó, sẽ đi đầu trong việc đổi mới. Sau sách lược chiêu mộ người tài vào năm 1998, Ngân hàng DBS đã thuê John Olds, một nhà điều hành dày dạn kinh nghiệm sắp rời khỏi JP Morgan. Ông ta đảm nhận chức phó chủ tịch và là Tổng giám đốc điều hành để đưa ngân hàng này trở thành một ngân hàng châu Á lớn mạnh. Không lâu sau, tập đoàn Oversea–Chinese Banking Corporation bổ nhiệm Alex Au, một chủ ngân hàng Hong Kong, làm Tổng giám đốc điều hành.

Trong hơn ba thập niên qua, tôi đã ủng hộ Koh Beng Seng về việc hạn chế quyền thâm nhập vào thị trường nội địa của các ngân hàng nước ngoài. Bây giờ, tôi tin rằng đây là thời điểm thích hợp để cọ xát với các ngân hàng quốc tế nhằm buộc Big Four của chúng tôi nâng cấp các dịch vụ của họ, nếu không họ sẽ mất thị phần. Có một nguy cơ thực sự là họ có thể không cạnh tranh được, trong trường hợp này chúng tôi sẽ đi đến kết cục là không có được các ngân hàng do Singapore quản lý và sở hữu để dựa vào trong một cuộc khủng hoảng kinh tế.

Dần dà, tôi kết luận rằng Koh, phó giám đốc quản lý nhóm các cơ quan tài chính và ngân hàng trong MAS đã không theo kịp những biến đổi lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến ngành ngân hàng trên toàn thế giới. Anh ta quá bảo vệ những nhà đầu tư của chúng tôi. Tôi tìm đến cựu chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York (Federal Reserve Bank of New York), Gerald Corrigan, và cựu chủ tịch Ngân hàng London (Bank of London), Brian Quinn để xin lời khuyên. Họ đều khuyên tôi rằng Singapore có thể thay đổi kiểu và phương thức giám sát các ngân hàng mà không để mất đi bất kỳ tính nghiêm ngặt nào, cũng như không để tăng mức rủi ro thất bại lan tràn. Các trung tâm tài chính lớn như New York, London tập trung bảo vệ không chỉ những nhà kinh doanh thị trường khác hay những nhà đầu tư cá nhân mà còn bảo vệ cả chính hệ thống của nó nữa. Corrigan và Quinn thuyết phục chúng tôi rằng những cơ quan lớn mạnh hơn và được quản lý tốt hơn nên được dành cho nhiều quyền tự do xoay xở chấp nhận rủi ro hơn.

Đầu năm 1997, vì không muốn tự mình đổi mới MAS, với sự cho phép của Thủ tướng, tôi đã lôi kéo Loong (Lý Hiển Long) vào cuộc. Loong bắt đầu gặp gỡ các chủ ngân hàng và những nhà quản lý quỹ, cũng như nắm vững những công việc trong khu tài chính của chúng tôi. Vào ngày 1/1/1998, khi Thủ tướng bổ nhiệm nó làm chủ tịch MAS, nó sẵn sàng hành động. Với sự giúp đỡ của một vài quan chức chủ chốt, nó tái tổ chức và điều chỉnh lại MAS để thực thi đường lối mới cho công cuộc điều tiết và phát triển khu vực tài chính.

Loong và đội ngũ của nó đã thay đổi đường lối giám sát tài chính của MAS; họ thực thi nó với phong thái nhẹ nhàng và cởi mở hơn với những ý kiến và đề xuất có tính chất nghề nghiệp. Với những lời khuyên từ các nhà tư vấn quản lý và các ủy ban ngành nghề, họ thực thi những thay đổi về chính sách có ảnh hưởng đến tất cả các thành phần trong khu vực tài chính. Họ tiến hành từng bước để đẩy mạnh ngành quản lý tài sản và chỉnh sửa các điều luật quốc tế hóa đồng đôla Singapore, để đẩy mạnh mức tăng trưởng thị trường vốn. MAS khuyến khích SES (SởGiao dịch Chứng khoán) và SIMEX (thị trường mua bán kỳ hạn) sáp nhập, thả nổi mức hoa hồng và quyền tiếp cận các sở giao dịch này.

MAS tự do hóa việc thâm nhập vào khu vực ngân hàng nội địa bằng cách cho phép các ngân hàng 100 % vốn nước ngoài mở thêm chi nhánh và các ATM. Nó tháo bỏ các hạn chế quyền sở hữu của nước ngoài về các cổ phần ngân hàng nội địa, trong khi yêu cầu các ngân hàng thành lập các ủy ban trong hội đồng quản trị, rập khuôn những cách tổ chức tương tự ở nhiều ngân hàng Hoa Kỳ. Các ủy ban này xem xét việc đề cử vào hội đồng quản trị và những chức vụ quản lý chủ chốt được bổ nhiệm để đảm bảo những người được bổ nhiệm là có năng lực để trông coi quyền lợi của tất cả các cổ đông, chứ không phải chỉ của các cổ đông đang nắm quyền kiểm soát.

Các ngân hàng tin rằng sự nới tay trong việc giám sát của MAS sẽ khiến họ đổi mới hơn nữa trong việc đưa vào hoạt động những sản phẩm tài chính mới. Lẽ ra, chúng tôi nên thực hiện những thay đổi này sớm hơn. Tuy nhiên, chỉ sau khi MAS chứng tỏ hết sức mạnh của hệ thống của nó để khắc phục khủng hoảng tài chính năm 1987 và 1997 – 1998, tôi mới có đủ niềm tin để đến gần hơn tới trạng thái mà “những gì không bị cấm là cho phép”. Đường lối thận trọng đã giúp chúng tôi khắc phục được khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 – 1998. Các ngân hàng của chúng tôi vững mạnh và không bành trướng quá mức. Không có sự thổi phồng trong thị trường chứng khoán của chúng tôi. Chúng tôi phải mất 30 năm kể từ lúc mở thị trường đồng đôla châu Á đầu tiên vào năm 1968 để thiết lập uy tín là một trung tâm tài chính quốc tế được quản lý một cách đúng đắn.

Tháng 7/1997, khi khủng hoảng tài chính bùng nổ ở Đông Á với sự rớt giá của đồng baht Thái, những thảm họa đã phá hủy tiền tệ, thị trường chứng khoán và các nền kinh tế khu vực, song không có ngân hàng nào ở Singapore bị ảnh hưởng. Các nhà đầu tư vội vàng rút khỏi những thị trường mới nổi mà Singapore cũng là một trong số những thị trường như thế. Khi những người quản lý quỹ đầu tư lo sợ có những bẫy ngầm thì việc giấu nhẹm thông tin không phải là một cách phản hồi khôn ngoan. Chúng tôi quyết định công khai tối đa thông tin. Để nhà đầu tư có thể đánh giá trị giá tài sản của chúng tôi, chúng tôi thuyết phục các ngân hàng của chúng tôi từ bỏ thông lệ về việc duy trì những dự trữ ngầm và không công khai những khoản vay không hiệu quả. Các ngân hàng của chúng tôi công khai những rủi ro cho vay trong khu vực. Họ chuẩn bị những dự phòng chung bổ sung quan trọng cho những khoản vay trong khu vực của họ, giải quyết những khó khăn tiềm tàng trước thay vì đợi các khoản vay chuyển hướng thành nợ khó đòi. Nhờ vào những bước đi quyết định này, MAS đã vượt qua được khủng hoảng và Singapore trở nên vững mạnh với vai trò trung tâm tài chính.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx