sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 1 - Chương 06 phần 2

Ý thức sâu sắc về khủng hoảng đang thịnh hành giúp tôi thay đổi hoàn toàn quan điểm nghiệp đoàn trong vài năm. Nguy cơ của một sự sụp đổ kinh tế do lực lượng Anh sắp sửa rút khỏi Singapore đã làm thay đổi tâm trạng và quan điểm của dân chúng. Họ nhận ra rằng trừ phi chúng tôi thực hiện một sự đảo ngược sách lược thoát khỏi những cuộc đình công và bạo động, hướng đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế, chúng tôi sẽ tiêu vong.

Tôi nhờ giới quản lý đảm nhiệm vai trò mới của họ trong việc giành lấy sự hợp tác của công nhân, nếu không có sự hợp tác này, năng suất không thể tăng lên. Luật pháp nghiêm minh và biện pháp cứng rắn từ một phía hẳn không thể đạt được điều này. Chính sách bao trùm của chúng tôi là thuyết phục các công nhân và các nhà lãnh đạo nghiệp đoàn hỗ trợ cho mục tiêu chính của chúng tôi: kiến lập niềm tin từ quốc tế vào Singapore và thu hút đầu tư cũng như tạo công ăn việc làm. Song, cuối cùng thì qua những năm dài liên kết, tôi đã có được sự tín nhiệm và niềm tin nơi họ, giúp biến đổi những mối quan hệ Lao động từ một mối quan hệ đấu tranh và đối đầu thành sự hợp tác và cộng tác.

Năm 1969, theo lời yêu cầu của tôi, Devan Nair từ Kuala Lumpur quay về Singapore để lãnh đạo lại NTUC. Ông ta đã ởlại Kuala Lumpur sau khi được bầu vào nghị viện Malaysia năm 1964. Tôi cần ông ta ở Singapore để đóng vai trò chính trong việc duy trì hòa giải Lao động và thuyết phục công nhân của chúng tôi tăng năng suất cũng như hiệu quả công việc. Việc có Devan làm tổng thư ký NTUC là một ưu thế lớn cho tôi. Ông ta phối hợp, điều chỉnh các chính sách của tôi và khắc sâu thái độ làm việc tích cực ở các nghiệp đoàn. Là người lãnh đạo NTUC từ năm 1970 đến 1981, ông ta được nghị viện bầu làm Tổng thống Singapore, ông ta đã dẫn dắt các lãnh đạo nghiệp đoàn đương đầu với sự thách thức cạnh tranh trong thị trường thế giới. Mỗi lần Winseminus đến thăm Singapore, ông ta cùng với tùy phái viên Ngiam Tong Dow báo cáo cho Devan tường tận về tình hình Lao động và kinh tế. Devan giáo dục các nhà lãnh đạo nghiệp đoàn những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế và giúp hội đồng ba bên NWC thành công.

Một vấn đề mà ông ta phải đương đầu là việc giảm số lượng hội viên nghiệp đoàn, do sự giảm bớt tính chiến đấu của nghiệp đoàn. Để chống lại khuynh hướng này, vào tháng 11/1969, Devan tổ chức một cuộc hội thảo về công cuộc hiện đại hóa và làm cho các đại biểu nghiệp đoàn nhận thấy được nhu cầu hiện đại hóa những nhiệm vụ của họ nhằm đáp ứng môi trường đã thay đổi. Họ thành lập nhiều xí nghiệp hợp tác của nghiệp đoàn. Vào năm 1970, NTUC thành lập một hợp tác xã taxi gọi là NTUC Comfort nhằm dẹp bỏ mánh lới làm ăn lậu (không xin phép) của taxi vốn hoành hành trong những năm 60. Hợp tác xã taxi này bắt đầu bằng 200 chiếc taxi hiệu Morris Oxford và 200 chiếc xe buýt mini hiệu British Austin đuợc thanh toán bằng những khoản vay trong số tiền viện trợ của Anh. Cho đến năm 1994, với 10.000 taxi và 200 xe buýt đưa rước học sinh, hợp tác xã này đã được tập đoàn hóa và được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán của Singapore với cái tên là Comfort Group Limited. Để giảm bớt chi phí sinh hoạt cho các hội viên của mình, vào năm 1973, NTUC thành lập một hợp tác xã tiêu thụ gọi là NTUC Welcome để điều hành các cửa hiệu, cửa hàng và siêu thị. Sau đó dưới cái tên NTUC Fairprice, nó trở thành một chuỗi siêu thị thành công, giữ cho giá cả những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu xấp xỉ giá bán sỉ. NTUC Income vốn là một hợp tác xã bảo hiểm, thành lập vào năm 1970 với hoạt động bảo hiểm nhân thọ, khi đó tiếp tục đi vào bảo hiểm xe cộ và các lãnh vực khác. NTUC thuê các chuyên viên nhà nghề và những nhà quản lý có kinh nghiệm. Các nhà lãnh đạo nghiệp đoàn trong các ban quản trị giám sát những nhà quản lý chuyên nghiệp của các doanh nghiệp này và sớm hiểu ra rằng việc quản lý tốt là yếu tố quyết định cho sự thành công.

Việc thay mới bộ phận lãnh đạo của NTUC đã làm cho họ thích hợp đối với một thế hệ công nhân trẻ hơn. Khi Devan từ chức vào năm 1981 để trở thành tổng thống Singapore, Lim Chee Onn, thư ký chính trị 37 tuổi đảm nhiệm chức tổng thư ký. Anh ta đã làm việc dưới quyền Devan sau khi trở thành thành viên nghị viện vào năm 1977. Là một người tốt nghiệp ngành kiến trúc hải quân hạng ưu của Đại học Glasgow, anh ta đưa ra những phương pháp quản lý hợp lý cho công việc nghiệp đoàn của mình. Tuy nhiên, kỹ năng giao tế của anh ta không giỏi bằng Devan, và đã nảy sinh việc hiểu lầm giữa anh ta và những người lãnh đạo nghiệp đoàn lớn tuổi, họ than phiền rằng họ nhận thấy anh ta có vẻ gì đó khó gần.

Đây là vấn đề mà tôi phải đương đầu mỗi khi có sự thay đổi thế hệ giữa những nhà lãnh đạo. Chee Onn trẻ hơn Devan 20 tuổi. Các lãnh đạo nghiệp đoàn thuộc thế hệ Devan đã quen với cách làm việc của Devan và không chịu theo phong cách làm việc khác lạ của Chee Onn. Vấn đề cơ bản là các lãnh đạo lớn tuổi không hoan nghênh một sự trẻ hóa ngay lập tức. Theo đề nghị của tôi, Chee Onn đưa vào NTUC nhiều người trẻ tuổi có trình độ để giúp đỡ anh ta. Việc làm này càng làm tăng thêm sự khó chịu của các lãnh đạo nghiệp đoàn lớn tuổi. Tôi kết luận rằng anh ta sẽ rất khó khăn khi tiếp tục làm việc với các nhà lãnh đạo lớn tuổi. Chee Onn lại hiểu đây là sự thất bại cá nhân và rút khỏi hoạt động chính trị vào năm 1982. Anh ta đi vào khu vực tư nhân và gia nhập Công ty Keppel, một trong những công ty lớn nhất liên kết với chính phủ. Anh ta thành công trong vai trò lãnh đạo công ty, là pháo đài vững chắc của Sim Kee Boon, người đã từ chức Trưởng ban Dân chính để trở thành Chủ tịch Công ty này.

Tôi và Devan nhất trí với nhau rằng Ong Teng Cheong, Bộ trưởng Thông tin kiêm Bộ trưởng Lao động sẽ làm việc ăn ý với các lãnh đạo nghiệp đoàn lớn tuổi. Ông ta đang ở lứa tuổi 40, lớn hơn Chee Onn 9 tuổi, tôi tin sẽ có ít sự khác biệt về mặt thế hệ. Tôi thuyết phục Teng Cheong làm việc với các nghiệp đoàn, ông ta đồng ý và cho đến năm 1983 ông ta được bầu làm tổng thư ký NTUC. Ông ta vẫn ở lại nội các và điều này tất có lợi vì các nghiệp đoàn nói lên được những quyền lợi của họ và chính phủ có thể tiếp nhận những ý kiến của họ để xem xét khi bàn thảo các chính sách. Teng Cheong là kiến trúc sư được đào tạoở Đại học Adelaide, ông ta thông thạo tiếng Anh. Do được học hành bằng tiếng Hoa nên ông ta còn thông thạo tiếng Quan Thoại và tiếng Phúc Kiến là tiếng mẹ đẻ. Ông ta làm việc rất tốt với cả các lãnh đạo nghiệp đoàn lẫn công nhân thường. Ông ta đã đưa NTUC đi vào những lãnh vực mới, tạo điều kiện các hội viên giải trí và vui chơi tốt hơn. Tôi động viên ông ta về điểm này, song ông ta không cần ủng hộ nhiều. Những gì ông ta cần là nguồn tài chính và sự hỗ trợ về mặt chính trị mà tôi có thể đem lại cho ông ta.

NTUC mở rộng sang các dịch vụ y tế, chăm sóc trẻ, đài phát thanh, khách sạn nghỉ mát ở bãi biển dành cho công nhân gọi là Pasir Ris Resort và câu lạc bộ đồng quê Orchid, có sân gôn bên cạnh hồ nước nhân tạo Seletar. NTUC còn phát triển các chung cư có chất lượng mà các hội viên của nó có thể mua được. Những hợp tác xã mới này đem lại cho các nhà lãnh đạo nghiệp đoàn nhiều kinh nghiệm thực hành hơn trong việc điều hành xí nghiệp. Những nhà lãnh đạo mới thuộc những thế hệ kế tiếp học hỏi về việc quản lý giỏi. Các câu lạc bộ, khách sạn bãi biển và các tiện nghi khác đem lại cho công nhân những sinh hoạt mà trước đây chỉ dành cho những người giàu có. Tôi tin những tiện nghi này sẽ làm giảm đi suy nghĩ cho rằng các công nhân thuộc vào tầng lớp thấp hơn của xã hội, bị loại trừ khỏi những kiểu sống mà chỉ những người thành đạt mới được hưởng thụ. Để các công nhân có được những thứ này, chính phủ bán đất công với giá không đáng kể.

Trong nhiều năm, tôi đã khuyến khích NTUC thành lập một trường cao đẳng về Lao động. Vào năm 1990, với sự giúp đỡ của hiệu trưởng trường Cao đẳng Ruskin, Teng Cheong thành lập Học viện Nghiên cứu Lao động để giảng dạy những mối quan hệ Lao động và phát triển khả năng lãnh đạo.

Khi Teng Cheong được bầu làm tổng thống Singapore năm 1993, Lim Boon Heng, khi đó là Thứ trưởng Thương mại và Công nghiệp, trẻ hơn Teng 12 tuổi đảm nhận chức Tổng thư ký NTUC. Anh ta tốt nghiệp ngành kiến trúc hải quân ở Đại học Newcastle–upon–Tyne và đã làm việc với nghiệp đoàn từ năm 1981, nơi mà kỹ năng giao tiếp giỏi của anh ta trở thành một tài sản lớn. Anh ta đưa vào NTUC những thanh niên có trình độ và tài giỏi ở những lứa tuổi 20 và 30, họ là những người đỗ đạt ởcác trường đại học nước ngoài và có những ý tưởng mới lạ. Đầu vào đầy nhiệt huyết mới này đã làm trẻ hóa suy nghĩ, những quan điểm của những người lãnh đạo nghiệp đoàn và gặt hái được nhiều thắng lợi cho nghiệp đoàn. Giống như Teng Cheong, Boon Heng vẫn làm Bộ trưởng, chính thức hóa một kiểu mẫu hợp tác giữa các nghiệp đoàn và nhà nước đã phục vụ Singapore tốt hơn.

Tôi phát động phong trào “tăng năng suất” vào đầu những năm 80 bởi vì tôi bị ấn tượng bởi những nhà thực hành người Nhật. Tôi khuyến khích các lãnh đạo NTUC làm việc với giới quản lý nhằm giới thiệu những dây chuyền kiểm tra chất lượng sản phẩm (Quality Control Circles – QCCs), khuyến khích các tập thể công nhân cùng nhau đề xuất những cách cải tiến công việc, tiết kiệm thời gian và chi phí, và đạt độ hư hỏng ở mức zero. Sự tiến triển đến chậm. Đi theo thực tiễn của các công ty Nhật, những kiểu đề xuất QCC nào đạt kết quả trong việc tiết kiệm hay cải tiến sẽ được trưng bày và được trao những phần thưởng nhỏ. Trung tâm Năng suất Nhật Bản đã trợ giúp bằng cách cung cấp chuyên viên, các học bổng thực tập, các phần mềm, thiết bị và tài liệu đào tạo. Thỉnh thoảng, tôi phát biểu tại những buổi lễ trao thưởng và trao tặng những giải thưởng năng suất hàng năm.

Một dịp nọ, vào năm 1987, sau khi trao phần thưởng cho viên giám đốc điều hành một công ty Nhật, tôi hỏi ông ta tại sao công nhân địa phương làm việc kém năng suất hơn công nhân Nhật Bản mặc dù họ dùng những máy móc như nhau. Câu trả lời thành thật của ông ta là công nhân Nhật có tay nghề cao hơn, đa năng hơn, linh hoạt hơn và dễ thích nghi hơn, cộng với việc ít vắng mặt mà không có lý do chính đáng và ít thay đổi chỗ làm hơn. Các kỹ thuật viên, các trưởng nhóm và các giám sát viên người Singapore không sẵn lòng đảm nhận những công việc làm bẩn tay họ. Ngược lại, các nhân viên tương nhiệm người Nhật không tự xem họ là Lao động trí óc hay Lao động chân tay; họ sẵn sàng giúp vận hành và bảo trì máy móc, nhờ vậy họ hiểu được những khó khăn của công nhân hơn.

Devan bị ấn tượng bởi những thành tựu của các nghiệp đoàn Nhật, ông ta lấy hai nghiệp đoàn chung nhiều nhánh tổ chức lại thành chín nghiệp đoàn ngành. Năm 1982, tổng thư ký NTUC lúc bấy giờ là Chee Onn bắt đầu công cuộc thay đổi từ nghiệp đoàn ngành sang nghiệp đoàn xí nghiệp. Việc làm này đem lại sự kết nối thông tin tốt hơn giữa lãnh đạo nghiệp đoàn và công nhân, và các lãnh đạo nghiệp đoàn có thể tập trung vào những vấn đề và khó khăn riêng của chính công ty họ trong quản lý. Năm 1984, bị thuyết phục bởi những lợi ích, NTUC đã chấp nhận quyết định ủng hộ các nghiệp đoàn xí nghiệp.

Trong hầu hết các trường hợp, các nghiệp đoàn xí nghiệp làm tăng số hội viên nghiệp đoàn. Chúng khuyến khích thái độ thẳng thắn và tin cậy có lợi cho những quan hệ giữa người Lao động với giới quản lý. Tuy nhiên, trong những năm 90, Boon Heng đã nhận ra rằng các nghiệp đoàn xí nghiệp đã không làm tốt nhiệm vụ như ở Nhật. Các công ty ở Singapore quá nhỏ, đa phần ít hơn một nghìn công nhân so với hàng chục nghìn công nhân trong các công ty Nhật. Hơn nữa, không giống như Singapore, ởNhật những nhà điều hành, những người tốt nghiệp đại học và những người có chuyên môn khác có thể gia nhập nghiệp đoàn. Các nghiệp đoàn xí nghiệp Singapore không có đủ những hội viên có trình độ cho các vị trí lãnh đạo. Khi đàm phán với giớichủ sử dụng Lao động, họ phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của NTUC. Chúng tôi phải tìm ra một giải pháp cho vấn đề này mà không lặp lại những bất lợi của các nghiệp đoàn lớn.

Những thay đổi đối với chính sách nghiệp đoàn ở Singapore được thực hiện với rất ít những cuộc đình công hay những xung đột Lao động. Quá trình trưởng thành của phong trào công đoàn và của các lãnh đạo của nó được nhiều viên chức tận tụy và có năng lực giúp đỡ, đây là những người mà tôi đề bạt từ ủy ban hành chính nhà nước đến Cục nghiên cứu Lao động của NTUC vào năm 1962; sau khi các nghiệp đoàn cộng sản rút khỏi Hiệp hội Công đoàn Singapore vào năm 1961 để thành lập liên đoàn của riêng họ, bỏ lại những nghiệp đoàn phi cộng sản không có những người thương thuyết đủ khôn khéo. Một trong những viên chức được tôi cử là S.R.Nathan, đã từng là nhân viên xã hội. Ông ta có óc phán đoán giỏi và làm việc tốt với các lãnh đạo nghiệp đoàn. Sau này Nathan trở thành Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và là đại sứ của chúng tôi ở Washington. Năm 1999, ông ta trở thành tổng thống Singapore. Một người nữa là Hsu Tse Kwang, một “người hành động” đầy nghị lực và sau này trở thành ủy viên thuế thu nhập của chúng tôi. Họ đã giúp đỡ các lãnh đạo nghiệp đoàn phi cộng sản trong việc thương lượng chung và trình những vụ kiện tụng của họ ra trước Tòa Lao động. Họ giáo dục các lãnh đạo nghiệp đoàn về những thực tiễn của việc sống còn về mặt kinh tế đối với Singapore và qua đó tạo dựng một giới lãnh đạo NTUC thực tế và hữu dụng. Sau này vào những năm 90, tôi khuyến khích những người có học vị đầy triển vọng trở về đảm nhiệm những công việc toàn thời gian trong NTUC nhằm tăng cường tính năng nghiên cứu và khả năng thương lượng của nó. Với nền giáo dục phổ cập và học bổng nhiều, lúc đó mọi học sinh giỏi – nghèo đều được vào đại học. Các lãnh đạo nghiệp đoàn có năng lực đi lên từ những công nhân bình thường trở nên ít hơn.

Để duy trì mối quan hệ cộng sinh giữa chính phủ PAP và NTUC, tôi khuyến khích NTUC nhận một vài nghị sĩ đến làm việc toàn thời gian với các nghiệp đoàn, và chỉ định những nghị sĩ khác làm cố vấn cho nhiều nghiệp đoàn khác nhau. Các nghị sĩ này đưa những vấn đề nghiệp đoàn vào nghị viện. Những bổ sung như vậy vào nhân lực của nghiệp đoàn tạo nên một sự khác biệt về chất lượng. Không có trí thức được rèn luyện và khả năng tiếp cận dễ dàng với cấp bộ trưởng của họ, các vấn đề của nghiệp đoàn sẽ không được đặt ra theo cách thức có thể dành được sự quan tâm và thỉnh thoảng mang lại việc sửa đổi chính sách.

Chúng tôi đưa ra một khuôn khổ hợp lý để quản lý những mối quan hệ Lao động. Những hạn chế về việc vượt quá giới hạn của các công đoàn được điều hòa bởi những thủ tục tư vấn và phân xử thông qua đó các nghiệp đoàn có thể bảo vệ quyền lợi của công nhân. Yếu tố chính đem lại sự bình yên và tính hài hòa trong xã hội là ý thức về một cuộc chơi công bằng, mà trong đó mọi người đều có phần trong thành quả gặt hái được của chúng tôi.

Việc tiếp cận tích cực của NTUC dẫn đến giảm bớt nạn thất nghiệp từ 14 % trong năm 1965 còn 1,8 % trong năm 1997. Trong vòng 25 năm, từ 1973 đến 1997, mức lương thực lãnh trung bình tăng hàng năm chỉ khoảng dưới 5 %. Chúng tôi gặp suy thoái trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997: nạn thất nghiệp tăng đến 3,2 % vào năm 1998. Để lấy lại tính cạnh tranh của chúng tôi, các nghiệp đoàn và chính phủ đã nhất trí và thực thi một loạt những biện pháp làm giảm khoảng 15 % lương và những chi phí khác từ ngày 1 tháng Giêng năm 1999.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx