sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 1 - Chương 11 phần 2

Điều kiện tiên quyết đối với một chính quyền lương thiện là những người ứng cử không phải cần đến số tiền lớn để được đắc cử, nếu không nó sẽ khởi sự một chu trình tham nhũng. Nguyên nhân suy sụp của hầu hết các quốc gia châu Á chính là cái chi phí quá cao của những cuộc bầu cử. Sau khi đã chi một số tiền lớn để được đắc cử, người chiến thắng sẽ phải kiếm chác để bù lại chi phí mà họ đã bỏ ra và còn phải tích lũy những khoản quỹ dành chi cho cuộc bầu cử tới. Hệ thống đó tự bản thân nó là tất yếu của tham nhũng. Để được bầu vào Hội đồng lập pháp của Đài Loan vào những năm 1990, một số ứng cử viên của Quốc Dân Đảng phải chi khoảng từ 10 đến 20 triệu đôla Mỹ. Một khi được đắc cử, họ phải tự bù đắp lại và chuẩn bị cho kỳ tới bằng cách dùng quyền lực của mình đối với các viên chức và Bộ trưởng chính phủ để đạt được các hợp đồng, hoặc để biến đổi phần đất nông nghiệp sang sử dụng cho công nghiệp hay cho việc phát triển đô thị. Ở Thái Lan, một cựu Bộ trưởng đã ví điều này là “nền dân chủ thương mại, sự ủy nhiệm được mua bằng tiền”. Năm 1996, 2.000 ứng cử viên đã chi khoảng 30 tỷ baht (bằng 1,2 tỷ đôla Mỹ). Một vị thủ tướng được gọi là Ngài ATM (Automatic Teller Machine) (máy trả tiền tự động) vì ông ta nổi tiếng trong việc phân phối tiền mặt cho các ứng cử viên và cử tri. Ông còn đáp lại rằng ông không phải là một ATM duy nhất.

Ở Malaysia, những nhà lãnh đạo gọi hiện trạng này là “chính trị tiền bạc”. Trong bài diễn văn trước các đại biểu đảng viên vào tháng 10/1996, Thủ tướng Mahathir Mohamad phát biểu rằng một số ứng cử viên tranh những chức vụ cao đã “đề nghị tặng những khoản đút lót và quà cáp cho các đại biểu” và đổi lại bằng những lá phiếu. Mahathir lấy làm xót xa trước thực trạng của chính trị tiền bạc và rơi nước mắt khi ông kêu gọi các đảng viên đại biểu rằng “không được để cho nạn hối lộ hủy hoại dân tộc, tôn giáo và quốc gia Malay”. Theo các bản tin của Malaysia, ngân hàng Negara đã chi cạn kiệt loại giấy bạc 1.000 RM và 5.000 RM vào thời điểm cao trào của cuộc vận động dẫn đến hội nghị đại biểu đảng UMNO vào năm 1993.

Indonesia là một điển hình của nạn tham nhũng. Phương tiện truyền thông đại chúng Indo hình thành một cụm từ gọi là “KKN” kết hợp những chữ cái đầu của Kolusi (sự thông đồng), Korupsi (sự tham nhũng) và Nepotism (gia đình trị). Con cái, bạn bè và những người thân cận của Tổng thống Suharto là những điển hình biến KKN trở thành một thành phần không thể giản ước được của văn hóa Indo. Phương tiện truyền thông của Mỹ định giá tài sản của gia đình Suharto đáng giá 42 tỷ đôla Mỹ trước khi cuộc khủng hoảng tài chính làm giảm giá trị của chúng. Tham nhũng trở nên trầm trọng hơn dưới thời Tổng thống Habibie. Các Bộ trưởng và viên chức, không chắc có thể giữ vững vị trí của họ sau cuộc bầu cử một tổng thống mới, đã tranh thủ tham nhũng cho hết thời gian còn lại. Các phụ tá của Tổng thống tích lũy một ngân quỹ khổng lồ mua lại số phiếu trong MPR (Hội đồng Tư vấn Nhân dân) để được đắc cử. Giá hiện hành cho mỗi lá phiếu, theo tin đã đưa, là hơn một phần tư triệu đôla Mỹ.

Hệ thống bầu cử tốn kém nhất là hệ thống của Nhật Bản. Bộ trưởng và các nghị sĩ Nhật Bản được hưởng một mức lương và tiền trợ cấp khá khiêm tốn. Một nghị sĩ Nhật cần phải có hơn 1 triệu đôla Mỹ một năm để duy trì đội ngũ ủng hộ ông ta cả ở Tokyo và ở khu vực bầu cử, cũng như để tặng quà cho các cử tri nhân ngày sinh nhật, lễ cưới hay đám tang. Trong năm bầu cử, ứng viên cần trên 5 triệu đôla Mỹ. Ông ta phải dựa vào sự hỗ trợ tiền bạc từ những người lãnh đạo đồng phe. Vì quyền lực của một nhà lãnh đạo phụ thuộc vào số nghị sĩ ủng hộ và dựa dẫm ông, nên ông ta phải tích lũy một số tiền khổng lồ tài trợ cho những người theo về phe mình trong suốt thời gian giữa hai cuộc bầu cử.

Singapore tránh sử dụng tiền cho mục đích thắng cử. Là người lãnh đạo của phe đối lập, năm 1959, tôi thuyết phục Lim Yew Hock thực hiện việc bỏ phiếu bắt buộc và cấm sử dụng xe hơi để đưa cử tri đi bỏ phiếu. Sau khi nắm chính quyền, chúng tôi xóa sạch ảnh hưởng chính trị của Hội Tam Hoàng (một tổ chức bí mật của người Hoa). Địch thủ ghê gớm nhất của chúng tôi là cộng sản đã không dùng đồng tiền để mua chuộc các cử tri. Chi phí dành cho cuộc bầu cử của chúng tôi rất thấp, dưới cả mức tiền mà luật cho phép. Đảng không có nhu cầu phải làm đầy kho bạc sau cuộc bầu cử và cũng không có quà cáp gì cho các cử tri vào thời gian giữa các cuộc bầu cử. Họ bỏ phiếu cho chúng tôi nhiều lần vì chúng tôi đã cung cấp việc làm, xây dựng trường học, bệnh viện, trung tâm cộng đồng và quan trọng hơn hết là những ngôi nhà mà họ sở hữu. Đó là những lợi ích đáng kể làm thay đổi cuộc sống của họ và thuyết phục họ rằng tương lai của con cháu họ đặt trong tay của PAP. Các đảng đối lập cũng không cần đến tiền. Họ đánh bại các ứng viên của chúng tôi vì toàn bộ cử tri cần một nghị sĩ đối lập gây sức ép đối với chính phủ để đạt nhiều sự nhượng bộ hơn.

Những người theo chủ nghĩa tự do phương Tây cho rằng nếu giới báo chí có quyền tự do tuyệt đối, họ sẽ vạch trần tệ tham nhũng và làm cho chính phủ trở nên trong sạch, lương thiện. Vậy mà, báo chí, truyền hình hoạt động tự do và không bị cấm đoán ở Ấn Độ, Philippin, Thái Lan, Đài Loan, Nam Triều Tiên và Nhật Bản vẫn không ngăn chặn được nạn tham nhũng đang lan rộng khắp những đất nước này. Trái lại xuất hiện một điển hình gây ấn tượng mạnh chính là cựu Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi đã sử dụng phương tiện truyền thông tự do làm công cụ thực hiện hành vi tham nhũng, ông làm chủ một mạng lưới truyền thông lớn, song ông bị điều tra, bị buộc tội về những hành vi tham nhũng mà ông đã phạm phải trước khi trở thành thủ tướng.

Mặt khác, Singapore đã chứng minh rằng một hệ thống bầu cử trong sạch, không có ảnh hưởng của đồng tiền sẽ giúp duy trì một chính phủ lương thiện. Tuy nhiên, Singapore chỉ giữ được sự trong sạch và lương thiện khi nào những con người lương thiện và đầy năng lực sẵn sàng tham gia ứng cử và nắm giữ chức vụ. Họ phải được trả một mức lương tương xứng với những gì mà một người có khả năng và liêm chính có thể được hưởng khi điều hành một công ty lớn hay đang làm những công việc có tính chuyên môn khác. Họ phải quản lý được một nền kinh tế Singapore mà trong hai thập niên qua đạt được mức tăng trưởng hằng năm từ 8 % đến 9 %, và mức GDP bình quân đầu người, theo Ngân hàng Thế giới ước tính, đứng thứ chín trong những nước cao nhất trên thế giới.

Với thế hệ những nhà lãnh đạo sáng lập thì lương thiện đã trở thành một tập quán. Các đồng sự của tôi sẽ bác bỏ bất kỳ một toan tính nào muốn mua chuộc họ. Họ đã đặt cuộc sống của mình trong cảnh hiểm nghèo để đạt được quyền lực nhưng không vì mục đích làm giàu cho bản thân mà là để thay đổi xã hội. Tuy nhiên, không thể có bản sao của những con người này vì chúng ta không thể tái tạo những điều kiện lịch sử đã tạo cho họ sự khác biệt đó. Những người nối nghiệp chúng tôi trở thành Bộ trưởng xem tước vị đó như sự lựa chọn một nghề trong nhiều nghề, và đó không phải là nghề hấp dẫn nhất. Nếu chúng tôi trả lương quá thấp cho những người đảm nhận chức vụ Bộ trưởng thì chúng tôi không thể kỳ vọng họ ở lại lâu với chức vụ mà tiền lương chỉ bằng một phần nhỏ những gì họ có thể kiếm được bên ngoài. Với mức tăng trưởng kinh tế cao và tiền lương cao hơn trong khu vực tư nhân, lương của các Bộ trưởng phải tương xứng với mức lương của những người tương đương với họ trong khu vực tư nhân. Chính vì đồng lương thấp mà các bộ trưởng và công chức đã làm sụp đổ nhiều chính quyền tại châu Á. Sự trả công thỏa đáng là nhân tố quan trọng đối với chuẩn mực liêm khiết của hàng ngũ những nhà lãnh đạo chính trị và viên chức cao cấp.

Tháng 3/1985, trong một cuộc tranh luận về vấn đề ngân sách, tôi đã chỉ trích phe đối lập về việc họ phản đối tăng lương cho các Bộ trưởng. Ông J. B. Jeyaretnam thuộc đảng Công nhân đã so sánh sự tương phản giữa mức lương hàng tháng của tôi, 29.000 đôla Singapore, và mức lương của Thủ tướng Malaysia, 10.000 đôla Singapore, song ông ta chỉ nhận có 9.000 đôla Singapore. Tôi liền đưa ra nhiều ví dụ so sánh hơn như mức lương của Tổng thống Philippines, Marcos, là 100.000 pêsô một năm, chỉ trên 1.000 đôla Singapore một tháng, và Tổng thống Indonesia, lãnh đạo của 150 triệu dân với mức lương hàng tháng là 1,2 triệu rupi tương đương với 2.500 đôla Singapore. Vậy mà tất cả bọn họ đều giàu có hơn tôi.

Nhà lãnh đạo Indonesia được giữ lại công thự của ông ta khi về hưu. Thủ tướng Malaysia được cấp cho một ngôi nhà hay phần đất để xây dựng cơ ngơi riêng. Còn công thự của tôi lại thuộc về chính phủ. Tôi không có độc quyền nào, không có xe hơi và tài xế, không có dinh thự Bộ trưởng với người làm vườn, người nấu bếp hay những người hầu khác phục vụ. Thói quen của tôi là gộp các lợi ích thành một số tiền và để cho chính Thủ tướng và các vị Bộ trưởng quyết định xem sẽ sử dụng nó vào việc gì.

Tôi đã tham khảo thang lương của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Mức lương thấp nhất của họ là 18 nhân dân tệ và cao nhất là 560 nhân dân tệ, tỷ lệ là 1:31. Song điều này không phản ánh được sự khác nhau về chất lượng cuộc sống giữa người có mức lương thấp nhất và cao nhất ở địa hạt những người sống phía sau bức tường của Trung Nam Hải gần Tử Cấm Thành. Nó cũng không tính đến việc tiếp cận những chủng loại hàng hóa và thực phẩm khác nhau, với những người đầu bếp, ban nội trợ, dịch vụ y tế đã làm nên một chất lượng cuộc sống khác biệt.

Chủ nghĩa quân bình phô trương là một quan điểm chính trị có hiệu quả. Trong những thập niên khi Trung Quốc nằm dưới sự lãnh đạo của Mao, người dân mặc quần áo jacket Mao cùng kiểu, bề ngoài trông có vẻ như cùng một chất liệu và cùng một kích cỡ. Thực sự, có nhiều loại áo jacket Mao khác nhau. Một nhà lãnh đạo cấp tỉnh phụ trách về du lịch giải thích với một trong những vị Bộ trưởng của tôi rằng có thể chúng trông giống nhau, nhưng chất lượng vải thì khác nhau. Để nhấn mạnh điểm này, ông mở nút áo jacket đang mặc và chỉ cho thấy những đường viền bằng lông thú.

Cần đến sự ủng hộ của công chúng, nên chính phủ – những người được bầu cử vào chức vụ – như một quy luật hiển nhiên, trả mức lương chính thức cho các Bộ trưởng rất thấp. Song, những đặc quyền bán công khai về nhà ở, chi phí, xe hơi, du lịch, học hành của con cái và những khoản trợ cấp khác gộp lại còn nhiều hơn cả tiền lương của họ.

Trong những cuộc tranh luận thành công tại nghị viện những năm 1980 và 1990, tôi chỉ rõ tiền lương cho các Bộ trưởng và những người được bổ nhiệm ở Anh, Mỹ và ở hầu hết những quốc gia phương Tây không sánh kịp với mức tăng trưởng kinh tế của họ. Họ cho rằng những người đã bước chân vào hoạt động chính trị phải là những quý ngài có tài sản riêng. Thực vậy,ở Anh trước chiến tranh, những người không có thu nhập riêng rất hiếm thấy trong nghị viện. Hiện nay đã không còn những trường hợp như thế ở Anh hay ở Mỹ nữa, hầu hết những người thành công đều bận rộn và quá thành đạt chẳng muốn có mặt trong chính phủ.

Ở Mỹ, những người được trả lương cao trong các khu vực tư nhân được tổng thống bổ nhiệm trong thời gian ngắn của một hoặc hai nhiệm kỳ. Sau đó, họ trở về với công việc riêng của họ là một luật sư, chủ tịch công ty hay những người vận động hành lang nghị viện với giá trị được nâng cao vì hiện tại họ dễ dàng tiếp cận với những nhân vật quan trọng trong chính phủ. Tôi nghĩ hệ thống “cánh cửa xoay vòng” này có thể gây rắc rối.

Sau khi độc lập, tôi hạn định lại tiền lương của các Bộ trưởng, giữ cho mức lương ở các cơ quan dân chính tăng ở mức độ thấp để chúng tôi có thể đương đầu với nạn thất nghiệp và sự tụt hậu của nền kinh tế đồng thời nêu lên tấm gương về sự chừng mực. Năm 1970, khi tình trạng thất nghiệp không còn trầm trọng nữa, không khí đã dễ thở hơn, tôi tăng lương cho các Bộ trưởng từ 2.500 đôla Singapore lên 4.500 đôla Singapore một tháng nhưng giữ cố định lương của tôi ở mức 3.500 đôla Singapore để nhắc nhở cơ quan dân chính rằng sự chừng mực vẫn là cần thiết. Cứ vài năm tôi phải tăng lương cho các Bộ trưởng để thu hẹp khoảng cách rộng lớn với mức lương trong lĩnh vực tư nhân.

Năm 1978, Tiến sĩ Tony Tan, tổng giám đốc của Oversea–Chinese Banking Corporation, một ngân hàng địa phương lớn, có thu nhập là 950.000 đôla Singapore một năm. Tôi thuyết phục ông ta từ chức để trở thành quốc vụ khanh, với chức vụ đó, ông được trả chưa tới một phần ba so với số tiền lương trước đó, ngoài việc mất đi bổng lộc, trong đó có giá trị nhất là chiếc xe hơi và một tài xế. Ong Teng Cheong Bộ trưởng Thông tin cũng đã hy sinh sự nghiệp thành công của một kiến trúc sư trong thời kỳ bùng nổ công cuộc xây dựng.

Khi tôi còn là một Bộ trưởng cấp cao, năm 1994 tôi đã đề nghị lên nghị viện rằng chính phủ nên đặt ra một phương án nhằm tự động hóa việc xét duyệt lương các Bộ trưởng, quan tòa và các công chức hàng đầu theo bản báo cáo thuế thu nhập của khu vực tư nhân. Với mức tăng trưởng kinh tế từ 7 % đến 10 % một năm trên hai thập niên qua, tiền lương trong khu vực nhà nước luôn chậm lại sau khu vực tư nhân từ hai đến ba năm. Năm 1995, Thủ tướng Goh quyết định chọn phương thức mà tôi đã đề nghị rằng sẽ gắn lương các Bộ trưởng và viên chức nhà nước cao cấp với mức lương ở vị trí tương ứng trong khu vực tư nhân. Điều này sẽ tự động làm cho thu nhập của họ tăng khi thu nhập trong khu vực tư nhân tăng. Sự thay đổi đối với cách thức cố định ở mức hai phần ba thu nhập của các vị trí tương đương trong khu vực tư nhân thể hiện qua báo cáo thuế thu nhập, đã gây ra một sự xáo trộn lớn, đặc biệt là với những nhà chuyên môn, họ đang cảm thấy rằng điều này hoàn toàn vượt ra khỏi sự cân xứng so với mức lương mà các Bộ trưởng ở các quốc gia tiên tiến được trả.

Người ta đã quen nhìn các công chức nhà nước nhận đồng lương khiêm tốn trong một thời gian dài đến nỗi cái ý tưởng rằng các Bộ trưởng không chỉ có quyền lực mà còn được trả công xứng đáng với tầm quan trọng của công việc đã làm xáo trộn nhận thức của họ. Tôi có thể giúp Thủ tướng giải thích cho sự thay đổi này và bác bỏ những luận điệu cho rằng các Bộ trưởng được bù đắp đầy đủ hơn là do quyền cao chức trọng và quyền lực mà họ nắm trong tay, rằng các cơ quan dân chính sẽ phải hy sinh thu nhập của họ. Cái lý lẽ cao thượng này là hão huyền và là cách chắc chắn nhất chỉ giữ được các Bộ trưởng phụng sự trong một thời gian ngắn. Ngược lại, sự tiếp tục chức vụ và kinh nghiệm đạt được là một thế mạnh và ưu điểm của chính phủ Singapore. Các Bộ trưởng của chúng tôi cung cấp kinh nghiệm và sự phán đoán mà chính phủ thể hiện chúng qua các quyết định, thành quả năng lực của họ trong tư duy và vạch kế hoạch lâu dài.

Trong cuộc tổng tuyển cử 18 tháng sau đó, Thủ tướng thông qua toàn bộ cử tri mặc dù phe đối lập khai thác vấn đề tiền lương của các bộ trưởng. Người dân cần một chính phủ trong sạch, lương thiện và tài giỏi nhằm mang lại những thành quả tốt đẹp. Và đó chính là những gì mà đảng PAP đã đạt được. Hiện tại, không quá khó khăn trong việc tuyển chọn nhân tài từ khu vực tư nhân. Trước khi phương án tiền lương được thực thi, các luật sư giỏi kiếm được 2 triệu đôla Singapore một năm, trong khi thẩm phán thì được trả ít hơn 300.000 đôla Singapore. Nếu không có sự thay đổi này, chúng tôi không bao giờ có thể bổ nhiệm được những luật sư giỏi nhất vào bộ máy tư pháp. Chúng tôi còn kết hợp lương của bác sĩ và những nhà chuyên môn khác trong cơ quan nhà nước với thu nhập của những người tương đương họ trong khu vực tư nhân. Phương án tiền lương này không có nghĩa là gia tăng lương mỗi năm, vì thu nhập trong khu vực tư nhân có thể tăng hoặc giảm. Điển hình là sự kiện năm 1995 khi thu nhập trong khu vực tư nhân giảm xuống, do đó năm 1997 lương các Bộ trưởng và viên chức cao cấp cũng bị giảm theo.

Để đề phòng những người thiếu trung thực và không lương thiện vào bộ máy chính phủ, trong một buổi mít tinh chào mừng Ngày Quốc khánh vào tháng 8/1984, tôi đã đề nghị nên bầu ra một tổng thống để bảo vệ đội ngũ viên chức dự bị của quốc gia. Tổng thống cũng sẽ có những quyền cao hơn cả một thủ tướng, chẳng hạn tổ chức các cuộc điều tra tham nhũng đối với chính thủ tướng và các bộ trưởng của ông ta hoặc các viên chức cao cấp, và có quyền phủ quyết sự bổ nhiệm không thích hợp vào các vị trí cao cấp như chánh án, bộ trưởng quốc phòng, tổng nha cảnh sát. Một tổng thống như thế sẽ cần đến sự ủy thác độc lập từ cử tri. Nhiều người cho rằng tôi đang chuẩn bị một chức vụ cho bản thân sau khi tôi rời khỏi chức vụ thủ tướng. Thực sự, tôi chẳng có chút hứng thú nào đối với chức vụ cao cấp này vì nó quá thụ động so với tính khí của tôi. Kế hoạch đề xuất này và những vấn đề liên quan đến nó được thảo luận tự do tại nghị viện năm 1988. Vài năm sau đó, vào năm 1992, Thủ tướng Goh Chok Tong bổ sung hiến pháp chuẩn bị cho việc bầu cử chức vụ tổng thống. Chúng tôi phải giữ sự thăng bằng giữa quyền lực của tổng thống và quyền lực tự do hợp pháp của thủ tướng cùng với nội các của ông.

Khi các quốc gia Đông Á từ Hàn Quốc đến Indonesia bị tổn thất bởi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, tham nhũng và chủ nghĩa gia đình trị làm tình trạng của họ càng thêm khốn khổ. Singapore khắc phục cuộc khủng hoảng tốt hơn vì không có nạn tham nhũng và không có sự tồn tại của chủ nghĩa gia đình trị, hai yếu tố vốn đã làm cho các quốc gia khác phải tổn thất hàng tỷ bạc.

Chính những tiêu chuẩn mà chúng tôi duy trì là động lực cho Thủ tướng Goh Chok Tong ra lệnh tiến hành cuộc điều tra vào năm 1995 đối với việc mua sắm bất động sản, một do vợ tôi nhân danh tôi và một do con trai tôi, Phó Thủ tướng Lý Hiển Long, cả hai đều được hưởng giảm giá khi mua. Chủ công trình tự nguyện giảm giá từ 5 % đến 7 % cho cuộc mua bán này cũng như ông đã từng giảm giá từ 5 % đến 10 % cho những khách hàng khác trong buổi khai trương nhằm khảo sát thị trường. Ngay lập tức sau cuộc mua bán đó, vào cao điểm bùng nổ mua bán bất động sản, giá bất động sản leo thang nhanh chóng. Những người không có cơ hội mua vào buổi khai trương đã phàn nàn lên Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Singapore (SES) (Chủ công trình là một công ty yết giá công khai). Sau cuộc điều tra, SES xác nhận rằng người chủ công trình đã hành động trong quyền hạn hợp pháp của mình. Do em trai tôi là một giám đốc không điều hành của công ty nên có những lời đồn đại cho rằng tôi và con trai kiếm mối lợi một cách không ngay thẳng khi mua các bất động sản này. Ủy ban tiền tệ Singapore điều tra và báo cáo cho Thủ tướng Goh rằng không có gì bất hợp lí trong các khoản giảm giá dành cho chúng tôi.

Choo rất phẫn nộ đối với sự buộc tội vô lý này. Bà ấy từng là một luật sư chuyên thảo giấy chuyển nhượng tài sản trong 40 năm và biết rằng giảm giá trong việc bán hàng là thông lệ chung của tất cả các chủ công trình. Tôi cũng cảm thấy tức giận và quyết định chấm dứt những nghi ngờ về sự không hợp lí của vụ mua bán này bằng cách công khai vụ mua sắm và các khoản giảm giá tự nguyện. Chúng tôi đã nộp lại giá trị của khoản giảm giá, tổng cộng là một triệu đôla Singapore, cho Bộ trưởng tài chính. Thủ tướng ra lệnh trả số tiền này lại cho chúng tôi vì ông đồng ý rằng không có sự bất hợp lí nào và chính phủ cũng không có quyền gì với số tiền này. Loong và tôi không muốn mang tiếng hưởng lợi từ em trai tôi, giám đốc công ty chủ công trình xây dựng, và quyết định quyên một triệu đôla Singapore cho nhà từ thiện.

Tôi đã yêu cầu Thủ tướng đưa sự việc lên nghị viện để công khai hoàn toàn vấn đề. Trong cuộc tranh luận, các nghị sĩ phe đối lập, trong đó có hai luật sư, một trong hai người là lãnh đạo phe đối lập, nói rằng theo kinh nghiệm của họ thì việc giảm giá là thông lệ kinh doanh và không có gì bất hợp lý trong việc mua sắm của chúng tôi. Sự công khai hoàn toàn của cải lợi ích được xem là không ngay thẳng này đã biến nó không còn là vấn đề bàn tán trong cuộc tổng tuyển cử một năm sau. Như tôi đã nói trước nghị viện, sự việc của tôi được hệ thống do tôi lập ra điều tra và báo cáo trung thực đã chứng minh rằng hệ thống ấy công minh và hiệu quả, không ai ở ngoài lưới pháp luật cả.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx