sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 17 phần 2

Quốc tế phẫn nộ trước sự việc này và hậu quả là các ngân hàng nước ngoài tạm ngưng mọi khoản cho Philippin vay, lúc này đã nợ hơn 25 tỷ USD và không thể trả lãi đúng hạn. Điều này làm Marcos khốn đốn. Ông cử Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp, Bobby Ongpin, đến yêu cầu tôi khoản vay 300–500 triệu đôla Mỹ để thanh toán món tiền lãi. Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta và nói: “Chúng tôi sẽ không bao giờ thấy số tiền đó trở lại”. Hơn nữa, tôi nói thêm rằng mọi người đều biết Marcos lâm trọng bệnh và phải chịu sự điều trị liên tục cho căn bệnh gây hao mòn sức khỏe. Điều cần thiết lúc này là có một nhà lãnh đạo khỏe mạnh chứ không phải thêm tiền vay.

Sau đó không lâu, vào tháng 2/1984, Marcos gặp tôi ở Brunei trong lễ kỷ niệm mừng độc lập của Vương quốc Hồi giáo. Ông đã thay đổi lớn về thể chất. Dẫu ít húp híp hơn khi xuất hiện trên tivi, nước da ông đen như thể phơi nắng nhiều. Ông thở khó khăn khi nói, giọng yếu, ánh mắt mệt mỏi, tóc thưa. Trông ông yếu nhất từ trước tới nay. Một chiếc cứu thương với mọi dụng cụ cần thiết, một đội bác sĩ người Philippin túc trực bên ngoài nhà khách của ông. Marcos dành phần lớn thời gian kể cho tôi một câu chuyện hầu như không thực xung quanh việc Aquino bị bắn như thế nào.

Ngay khi tất cả các trợ lý rời khỏi, tôi vào thẳng vấn đề, rằng không một ngân hàng nào định cho ông ấy mượn tiền. Họ muốn biết ai sẽ kế nhiệm ông nếu có chuyện gì đó xảy đến với ông ấy, mọi chủ ngân hàng đều có thể thấy ông không còn khỏe nữa. Những ngân hàng Singapore đã cho vay 8 tỷ trong số 25 tỷ tiền nợ đó. Sự thật rành rành là họ không thể nhận lại số tiền hoàn trả trong 20 năm. Ông ta phản đối lại rằng chỉ cần 8 năm. Tôi nói các chủ ngân hàng muốn thấy một người lãnh đạo mạnh khỏe trong cộng đồng Philippin, người có thể khôi phục sự ổn định, và người Mỹ hy vọng cuộc bầu cử vào tháng 5 sẽ đưa ra được một người như thế. Tôi hỏi ông sẽ chỉ định ai ứng cử. Ông nói đó là Thủ tướng Cesar Virata. Tôi thẳng thừng. Virata là người không có cơ hội thắng cử, là nhà quản lý cấp cao nhưng không thể là nhà lãnh đạo chính trị, hơn nữa, người đồng nghiệp đầy mánh khóe chính trị của ông ta, Bộ trưởng Quốc phòng Juan Enrile không được tín nhiệm. Marcos im lặng, sau đó thú nhận rằng sự kế nhiệm là trọng tâm của vấn đề. Nếu ông có thể tìm được người kế nhiệm thì mọi việc sẽ được giải quyết. Khi tôi chia tay, ông bảo: “Ông là người bạn thật sự”. Tôi đã không hiểu ông ta. Đó là một cuộc gặp kỳ lạ.

Với sự chăm sóc thuốc thang, Marcos ráng lê tiếp nhiệm kỳ. Cesar Virata gặp tôi ở Singapore tháng 1 năm sau. Ông ta là một nhà chính trị non nớt, hoàn toàn ngây thơ. Ông ta nói bà Imelda có thể được đề cử cho danh hiệu ứng cử viên chức tổng thống. Tôi hỏi làm sao điều đó có thể xảy ra khi có rất nhiều ứng cử viên nặng ký khác, bao gồm Juan Enrile và Blas Ople, Bộ trưởng Lao động. Ông trả lời điều đó thực hiện với “dòng chảy của đồng tiền”, bà sẽ dùng nhiều tiền hơn các ứng viên khác để mua các phiếu ủng hộ cần thiết trong đảng và thắng cử. Ông thêm rằng, nếu bà ứng cử, phe đối lập sẽ đề cử Cory Aquino để đánh vào tâm lý người dân. Ông cho rằng kinh tế xuống dốc do không ổn định về chính trị.

Màn kết diễn ra vào tháng 2/1986 khi Marcos tổ chức cuộc bầu cử tổng thống và công bố rằng ông đã thắng cử. Cory Aquino, ứng cử viên phe đối lập, tranh cãi về vấn đề này và phát động chiến dịch bất tuân trong toàn dân. Bộ trưởng Quốc phòng Juan Envile rút lui và thú nhận có sự gian lận trong bầu cử, và người đứng đầu Sở cảnh sát, Trung tướng Fidel Ramos, theo gót ông ta. Một cuộc trình diễn lớn về “sức mạnh quần chúng” trên các đường phố Manila dẫn tới cuộc lật đổ ngoạn mục chế độ độc tài. Sự sỉ nhục cuối cùng là vào ngày 25/2/1986 khi Marcos và vợ chuồn khỏi lâu đài Malacanang trên trực thăng không lực Mỹ đến căn cứ không quân Clark rồi bay tới Hawaii. Sự kiện đầy kịch tính theo kiểu Hollywood này chỉ có thể xảy ra ở Philippin.

Bà Aquino tuyên thệ nhậm chức Tổng thống trong sự hân hoan. Tôi hy vọng rằng người đàn bà trung thực và ngoan đạo này sẽ giúp lấy lại niềm tin nơi dân chúng Philippin và đưa đất nước trở lại đúng đường. Tôi đến thăm bà vào tháng 6 năm đó, ba tháng sau sự kiện. Bà là người Thiên chúa sùng đạo, chân thành, muốn làm hết sức mình cho tổ quốc bằng cách thực hiện những gì mà bà tin rằng chồng bà sẽ làm nếu ông còn sống, đó là phục hồi nền dân chủ cho Philippin. Dân chủ sẽ giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội của họ. Tại bữa tối, bà Aquino xếp Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp – bà Chánh án Cecilia Munoz–Palma ngồi kế tôi. Tôi đã hỏi người đàn bà có học thức này rằng, những bài học nào mà hội đồng của bà học được từ kinh nghiệm suốt 40 năm qua kể từ lúc độc lập năm 1946 và sẽ chỉ dẫn bà trong việc phác thảo hiến pháp. Bà ta trả lời không chút lưỡng lự: “Chúng tôi sẽ không có bất cứ hạn chế hay giới hạn nào trong nền dân chủ của chúng tôi. Chúng tôi phải chắc rằng không một kẻ độc tài nào có thể xuất hiện lật đổ hiến pháp”. Có hay không sự xung khắc giữa sự phân chia quyền lực kiểu Mỹ với phong tục và tập quán của người Philippin gây ra vấn đề trong các đời tổng thống trước Marcos? Rõ ràng là không.

Những toan tính đảo chính không ngừng đã tăng thêm các vấn đề của bà Aquino. Quân đội và cảnh sát đã dính líu vào chính trị. Trước cuộc họp thượng đỉnh các nước Asean tháng 12/1987, một cuộc đảo chính được báo trước. Không có sự hỗ trợ cứng rắn của tổng thống Suharto, hội nghị ắt hẳn bị hoãn lại và lòng tin vào chính phủ Aquino bị xói mòn. Chính quyền Philippin đồng ý rằng trách nhiệm giữ an ninh nên được chia sẻ với các chính quyền thuộc Asean, đặc biệt là Indonesia. Tướng Benny Moerdani, trợ lý tin cậy của Suharto, lãnh nhiệm vụ. Ông điều một tàu chiến Indonesia vào giữa vịnh Manila, với trực thăng và đội biệt kích sẵn sàng ứng cứu những nguyên thủ quốc gia khối Asean nếu xảy ra đảo chính trong lúc diễn ra hội nghị thượng đỉnh. Tôi cũng được tính đến trong kế hoạch ứng cứu này. Tôi tự hỏi không biết một kế hoạch ứng cứu như vậy có hoạt động được hay không nhưng vẫn quyết định theo sự sắp xếp của họ, hy vọng rằng cuộc diễn tập của lực lượng sẽ xua tan ý định các thủ lĩnh đảo chính. Tất cả chúng tôi bị giữ trong khách sạn Philippin Plaza trên vùng bờ biển hướng thẳng ra vịnh Manila, từ đó chúng tôi có thể nhìn thấy chiến thuyền Indonesia đang neo đậu. Khách sạn bị phong tỏa hoàn toàn và được bảo vệ. Hội nghị kết thúc không có bất cứ rủi ro nào. Chúng tôi đều hy vọng rằng hình thức liên minh hỗ trợ chính quyền bà Aquino, vào thời điểm có rất nhiều mưu toan làm mất ổn định, sẽ làm dịu tình hình.

Điều đó chẳng mang lại kết quả gì. Những mưu toan đảo chính xuất hiện nhiều hơn, ngăn cản sự đầu tư thật sự cần thiết để tạo công ăn việc làm. Đây là điều đáng tiếc vì họ có rất nhiều người có khả năng, được đào tạo tại Philippin và ở Mỹ. Công nhân biết tiếng Anh, ít ra là ở Manila. Không có lý do gì khiến Philippin không thể trở thành một trong những quốc gia Asean thành công hơn. Vào những năm 50 và 60, nó là quốc gia phát triển nhất vì người Mỹ đã hào phóng trong việc phục hồi đất nước này sau chiến tranh. Một cái gì đó như là một chất keo gắn xã hội lại với nhau đang mất đi. Những người ở tầng lớp trên, những người lai tinh hoa có cùng một thái độ tách biệt đối với những người nông dân bản xứ giống như những người lai ở châu Mỹ Latinh đã từng đối xử với những người Lao động ở đồn điền của họ. Họ thuộc hai xã hội khác nhau: Những người trên đỉnh cao sống một cuộc sống xa hoa và tiện nghi cực điểm trong khi những người nông dân làm việc cực nhọc thì chỉ đủ ăn, và ở Philippin thì đó là một đời sống khắc nghiệt. Họ không có đất đai, chỉ làm việc trong các đồn điền dừa và các nhà máy đường. Họ có nhiều con vì nhà thờ ngăn cản các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Kết quả là nghèo đói cứ tăng dần.

Hiển nhiên là Philippin sẽ không bao giờ cất cánh trừ khi có sự viện trợ đáng kể của Mỹ. George Shultz, Ngoại trưởng Mỹ, đã thông cảm và muốn giúp đỡ nhưng nói rõ với tôi rằng Mỹ sẽ làm điều đó tốt hơn nếu Asean thể hiện sự ủng hộ bằng cách đóng góp vào. Mỹ không muốn thực hiện điều đó đơn độc và chấp nhận Philippin như vấn đề đặc biệt của Mỹ. Shultz muốn Asean đóng vai trò nổi bật hơn để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổng thống dành được nhiều phiếu cần thiết trong Quốc hội. Tôi thuyết phục Shultz khởi đầu dự án viện trợ thành công trong năm 1988, trước khi nhiệm kỳ thứ 2 của Tổng thống Reagan kết thúc. Ông đã làm. Có hai hội nghị bàn về trợ giúp đa phương (chương trình giúp đỡ Philippin): hội nghị đầu tiên ở Tokyo năm 1989 cam kết giúp 3,5 tỷ đôla Mỹ và hội nghị thứ hai ở Hong Kong năm 1991 dưới sự quản lý của Anh, cam kết giúp 14 tỷ đôla Mỹ. Nhưng tình hình bất ổn tại Philippin vẫn không giảm bớt. Điều này làm những nhà viện trợ do dự và hoãn việc thực thi các dự án.

Người kế nhiệm bà Aquino, Fidel Ramos, người được bà ủng hộ, thực tế hơn và thiết lập sự ổn định rộng lớn hơn. Tháng 11/1992 tôi viếng thăm ông. Trong một bài diễn văn nhân Hội nghị Thương mại Philippin lần thứ 18, tôi phát biểu: “Tôi không tin rằng dân chủ nhất thiết dẫn tới phát triển. Tôi tin rằng cái mà một đất nước cần để phát triển là kỷ luật hơn là dân chủ”.Tổng thống Ramos nói riêng với tôi là ông đồng ý với tôi rằng các thể chế kiểu Nghị viện Anh làm việc tốt hơn bởi đảng đa số trong cơ quan lập pháp cũng là chính phủ. Trước dư luận Ramos phải nói khác đi.

Ông biết rõ những khó khăn của việc cố gắng cai trị với sự chia sẻ nghiêm ngặt quyền lực kiểu Mỹ. Thượng nghị viện đã bác bỏ đề nghị giữ các căn cứ Mỹ của bà Aquino. Philippin có một giới báo chí năng động ồn ào nhưng nó không chặn được tham nhũng. Cá nhân các phóng viên báo chí cũng như nhiều quan tòa có thể bị mua chuộc. Cái gì đó đã hóa ra sai lầm nghiêm trọng. Hàng triệu đàn ông và phụ nữ Philippin phải rời bỏ đất nước để tìm việc ở nước ngoài không xứng với trình độ của họ. Những người Philippin chuyên nghiệp được chúng tôi tuyển dụng làm việc ở Singapore có trình độ tay nghề giỏi như người chúng tôi đào tạo. Thật vậy, kiến trúc sư, nghệ sĩ và nhạc công của họ còn khéo léo và sáng tạo hơn của chúng tôi. Hàng trăm nghìn người rời Philippin đến Hawaii và Mỹ. Đó là một vấn đề mà các phương thức hoạt động của một phiên bản Philippin theo hiến pháp Mỹ không dễ dàng tạo ra được giải pháp.

Sự khác biệt nằm ở nền văn hóa của người Philippin. Đó là một nền văn hóa mềm dẻo, khoan dung. Chỉ có ở Philippin thì mới có thể xem xét quốc tang cho một nhà lãnh đạo như Ferdinand Marcos – kẻ đã cướp bóc đất nước mình hơn 20 năm. Chỉ một phần lượng của cuộc cướp bóc đáng khinh được lấy lại, còn vợ con ông thì được cho phép trở về tham gia hoạt động chính trị. Họ ủng hộ các ứng cử viên Quốc hội và ứng viên tổng thống đang thắng thế với nguồn tài chính lớn lao và xuất hiện lại trên sân khấu chính trị và xã hội sau cuộc bầu cử 1998 – cuộc bầu cử mà đã bầu Tổng thống Joseph Estrada. Tướng Fabian Ver, Tổng tư lệnh của Marcos, người chịu trách nhiệm về an ninh khi Aquino bị ám sát, đã chạy trốn khỏi Philippin cùng Marcos năm 1986. Khi ông chết ở Bangkok, chính quyền Estrada đã đưa đội quân danh dự đến đám tang của ông. Tờ Today, một tờ báo Philippin, ra ngày 22/11/1998 viết: “Vèr,Marcos và những người còn lại của văn phòng tổng thống đã đẩy đất nước vào hai thập niên của dối trá, đau khổ và cướp bóc. Hơn một thập niên sau, đồng đảng và gia đình trực hệ của Marcos lại nhón chân trở lại đất nước này, từng người một – mỗi lần như vậy lại luôn luôn làm cho công chúng phản ứng và chán ghét, mặc dù họ cho thấy không gì mà tiền bạc ám muội và thói mặt dày không đương cự được.” Vài người Philippin viết và nói với sự hăng say. Nếu họ có thể khiến lớp người tinh hoa trí tuệ chia sẻ tình cảm và hành động của họ thì có gì mà họ không đạt được?

BRUNEI

Khi tôi đang hành nghề luật sư và xuất hiện trong các tòa án của họ vào giữa thập niên 50 thì Brunei là một vương quốc Hồi giáo êm ả, thanh bình và giàu dầu mỏ.

Vua Brunei (sultan), ngài Omar Ali Saifuddien mời tôi với tư cách là Thủ tướng cùng vị đứng đầu nhà nước của chúng tôi, Yusof Ishak đến dự lễ sinh nhật của ông vào tháng 8/1960. Ông là một người trầm lặng, nói năng mềm mỏng nhỏ nhẹ với một nụ cười quyến rũ thân thiện. Ông có rất ít bạn bè, bởi hầu như tất cả những ai muốn tiếp xúc với ông đều vì tiền. Tôi gặp ông vài lần ở London khi tôi đang thương thuyết những điều khoản cho Malaysia vào năm 1962 và 1963. Ông không bao giờ thấy thoải mái trước viễn cảnh sẽ trở thành một tiểu bang của Malaysia. Phần lớn các thu nhập từ dầu mỏ của ông sẽ đi thẳng vào chính phủ liên bang, và ông không tin rằng sự quan tâm đặc biệt mà Tunku đang dành cho ông sẽ kéo dài một khi ông ở Malaysia: Ông sẽ chỉ là một trong nhiều sultan của Malaysia. Tôi đưa ra những lý giải tại sao Singapore muốn gia nhập liên bang nhưng để mặc ông tự quyết định. Ông có nhiều cố vấn pháp luật, nhưng ông đã đưa ra một quyết định chính trị là vẫn ở ngoài chứ không gia nhập liên bang. Nhìn lại, đó là một quyết định hợp lý. Người Anh vẫn ở lại từ năm 1963 cho đến tháng 2/1984 thì họ trao trả độc lập cho Brunei.

Trong một chuyến viếng thăm Singapore sau khi chúng tôi tách khỏi Malaysia, ngài Omar cười to với hàng ria mép quắp lên và cặp mắt ánh lên và nói với tôi: “Bây giờ các anh cũng như Brunei. Điều đó tốt cho các anh hơn.” Sự thật, chúng tôi chia sẻ một vài mối quan tâm chung: các nước bé bị các láng giềng lớn bao quanh. Tôi không thèm muốn sự giàu có của ông, không bao giờ mượn tiền ông. Tôi chỉ đưa ra lời khuyên khi ông yêu cầu. Ông tin tưởng tôi.

Vào năm 1967, sau khi Malaysia chấm dứt hệ thống tiền tệ chung thì các thành viên của nó, Malaysia, Brunei và Singapore, đã đồng ý đồng tiền mới của chúng tôi có thể được chuyển đổi ngang giá. Thỏa thuận này kết thúc vào năm 1973, vị quốc vương sultan già quyết định giữ lại những thỏa thuận này với đồng tiền Singapore được chuyển đổi ngang giá. Ông là một sultan thanh đạm nhất, hoàn toàn khác với các sultan khác trong khu vực. Ông đem lại cho Brunei một ý thức kỷ luật tài chính và bắt đầu việc tích góp các tài sản khổng lồ được các nhân viên của quốc vương ở London quản lý.

Khi chính phủ Anh bắt ép ông tiến hành những sửa đổi hiến pháp hướng về nền dân chủ, thì ông trì hoãn và kéo dài thời gian bằng cách thoái vị vào năm 1967 và nhường ngôi cho con trai lớn của ông – Hassanal Bolkiah – khi đó là một chàng trai trẻ được đào tạo ở Sandhurst. Ông mất nhiều thời gian nghĩ cách giữ người Anh ở Brunei làm người bảo hộ. Ông từ chối dính líu về bất cứ điều gì với Indonesia hay Malaysia. Ông nghi ngờ người Indonesia ủng hộ Azahari, thủ lĩnh đảng Nhân Dân Brunei cầm đầu cuộc nổi loạn tháng 12/1962. Ông cảnh giác với người Malaysia vì các sĩ quan Malaysia được phái đến làm việc ở Brunei cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 đã có thái độ kẻ cả với các sĩ quan Brunei, đối xử với họ như đàn em. Tôi đã cẩn thận không để cho bất kỳ quan chức Singapore nào được chuyển công tác đến Brunei trong bất cứ khoảng thời gian nào, và nếu có ai được cử đi, phải bảo đảm rằng anh ta đã được thông báo cặn kẽ để đối xử với người Brunei đúng mực và lịch sự.

Tại cuộc họp riêng vào tháng 3/1979, tôi thuyết phục ngài Omar – cựu Quốc vương hay là Seri Begawan như người ta vẫn gọi ông sau khi thoái vị – gia nhập vào Asean trước khi Brunei độc lập vào năm 1984. Tôi nói rằng cả Tổng thống Suharto của Indonesia và Thủ tướng Hussein Onn của Malaysia đều thân thiện và có thiện ý với Brunei. Ông đồng ý xem xét việc kiếm vị trí quan sát viên cho Brunei trong Asean, nhưng việc này không đi đến kết quả. Tôi giải thích cho ông hiểu thế giới đã thay đổi như thế nào. Ngài Omar vẫn giữ sự tin tưởng tuyệt đối vào người Anh, rằng họ sẽ luôn luôn ở lại để hậu thuẫn cho ông. Ông không muốn nhìn nhận tình hình chuyển biến của nước Anh, rằng không có lực lượng đặc nhiệm không quân hay hải quân Anh đến cứu giúp Brunei.

Sau khi Thatcher trở thành Thủ tướng, các Bộ trưởng Anh đến thăm thường đưa vấn đề Brunei ra bàn với tôi. Chính phủ của bà muốn chấm dứt việc bảo hộ bằng cách thuyết phục quốc vương tổ chức bầu cử, trở thành một nước quân chủ hiện đại hơn và độc lập. Tôi cố gắng hết sức để thúc giục Seri Begawan, ngài Omar và Quốc vương xúc tiến nhanh nhưng họ không để bị thuyết phục. Chính phủ Anh cuối cùng kết luận rằng bất chấp Brunei có chính quyền đại diện hay không, nó sẽ phải chịu trách nhiệm về tương lai của chính nó. Nước Anh sẽ tiếp tục ủng hộ chống lại sự đe dọa từ bên ngoài bằng cách giữ một quân đoàn Gurkha mà Brunei phải trả chi phí hoạt động. Tôi cũng thuyết phục Đức ông Carrington vào năm 1979, ngay sau khi ông trở thành Ngoại trưởng hãy cứng rắn với các quan chức Anh muốn kéo dài thời gian lưu trú ở Brunei. Họ đang ngăn cản các quan chức Brunei, hầu hết được giáo dục đào tạo ở Anh thu thập kinh nghiệm cần có để quản lý đất nước. Sau cuộc hội đàm đó, Anh đã có một thay đổi chính sách quan trọng. Đến năm 1984, khi Brunei độc lập, hầu hết các vị trí cao cấp đều do người Brunei bản địa nắm giữ.

Năm 1980 tôi đã nêu một vấn đề về khả năng trở thành thành viên Asean của Brunei khi nó độc lập với Tổng thống Suharto. Suharto nói ông sẽ đón chào Brunei nếu nó muốn gia nhập. Lúc đó tôi thuyết phục Quốc vương nhìn xa hơn quan điểm của cha ông coi Asean không quan trọng; ông nên thăm Tổng thống Suharto và các nhà lãnh đạo khác của Asean. Cuối cùng ông đã thực hiện chuyến thăm vào tháng 4/1981. Suharto chào đón ông nồng nhiệt ở Jakarta. Quốc vương sau đó đi thăm Malaysia và Thái Lan. Khi Brunei gia nhập khối Asean vào năm 1984, tư cách thành viên Asean đã cho quốc gia này một chiếc dù để bảo vệ an ninh và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quốc vương hòa hợp với các láng giềng của ông.

Brunei có được hòa bình và ổn định từ khi có độc lập. Quốc vương đã trưởng thành trong sự tự tin. Hoàng tử Mohamed trở thành Bộ trưởng Ngoại giao có tri thức hiểu biết và các quan chức Brunei cao cấp có được nhiều dịp tiếp xúc với các hội nghị quốc tế và quen dần công việc của mình. Vị Seri Begawan, người đã qua đời năm 1986, chắc chắn sẽ hài lòng với các kết quả này.

Tình hữu nghị giữa người cha của Quốc vương và tôi vẫn được kế tục bởi vị Quốc vương hiện nay, anh em ông và các Bộ trưởng với Thủ tướng Goh và các đồng nghiệp của Goh. Đó là mối quan hệ của sự tin tưởng và trung thành cực kỳ tốt đẹp.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx