sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 34 phần 2

Tháng 4/1994, Tổng thống Lý cho phép Ryotaro Shiba, một phóng viên nổi tiếng người Nhật, phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn đó đã được phát hành trên một tạp chí của Nhật và không bao giờ bị phủ nhận. Trong lần trả lời phỏng vấn đó, ông ta nói Quốc Dân Đảng là một đảng của người ngoài (ý nói người đại lục – ND), nhân dân Đài Loan đã chịu nhiều đau khổ dưới ách chiếm giữ của người ngoài trong đó có chính phủ Quốc Dân Đảng và rằng: “Khó khăn sẽ còn nằm phía trước Moses[43] và nhân dân của ông ta… Cuộc ra đi có thể là một hình thức kết thúc thích hợp”. Là Tổng thống Đài Loan mà ông ta nói về việc Moses dẫn dắt dân mình đi về miền Đất Hứa là một tuyên bố mà Trung Quốc không thể bỏ qua.

[43] Moses là một nhân vật trong Cựu ước, được Chúa chỉ định dẫn dắt dân Do Thái thoát khỏi Ai Cập để đi về Miền Đất Hứa. (ND)

Trong lòng những người Đài Loan bản xứ chất chứa những nỗi bất bình đối với những người đại lục vì sự kiện “28 tháng 2”. Vào ngày 28/2/1947 hàng nghìn người Đài Loan bị quân đội Quốc dân đảng giết hại vì đã bày tỏ sự phẫn uất về việc những người đại lục đã không hành động như những người giải phóng mà như những lãnh chúa. Mọi dư luận về thảm kịch này đã bị đàn áp nhưng nó vẫn sống trong ký ức của người dân địa phương và bùng nổ trở lại khi có một người Đài Loan trở thành Tổng thống. Nhờ uy tín của mình, Tổng thống Lý đã ngăn chặn được những mưu toan trả thù đòi thanh toán những món nợ trong quá khứ.

Những cuộc bầu cử rộng rãi có khuynh hướng khơi lại những vết thương cũ và làm trầm trọng thêm sự chia rẽ giữa người Đài Loan bản xứ và người đại lục. Để lôi kéo cái đa số 90 % này, các nhà chính trị đang nhấn mạnh bản sắc địa phương của mình. Họ vận động bằng phương ngữ Min–nan và chế nhạo những đối thủ người đại lục vì những người này không nói được phương ngữ này. Một vài người còn đặt vấn đề nghi ngờ lòng trung thành của những người đại lục với Đài Loan.

Những cuộc tấn công mang đậm màu sắc chia rẽ này khiến các vị lãnh đạo người đại lục thuộc thế hệ già hơn cảm thấy bị xúc phạm. Các học giả người đại lục đã góp phần xây dựng các trường đại học và đã đào tạo nên nhiều người Đài Loan bản xứ có tài năng. Những nhà lãnh đạo xuất chúng người đại lục như các thủ tướng Y.S. Sun và Vũ Quốc Hoa và Bộ trưởng Tài chính K.T. Li đã khôn khéo thực thi những chính sách giúp biến đổi Đài Loan từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp. Họ đã đặt nền móng cho những thành tựu đáng kể của Đài Loan.

Một hậu quả đáng buồn hơn của chiến dịch bầu cử là nó góp phần thúc đẩy sự tham gia ngày càng tăng của các hội Tam hoàng (mafia Trung Quốc hay các hội kín). Các mối quan hệ của Quốc Dân Đảng với hội Tam hoàng xuất hiện từ những ngày trước chiến tranh ở Thượng Hải, khi tướng Tưởng Giới Thạch dùng họ để chống phá cộng sản. Bọn họ theo ông ta ra Đài Loan. Một mafia Đài Loan đã ra đời và bám rễ. Chừng nào những cuộc bầu cử chưa dẫn tới một quyền lực thật sự thì chính phủ còn kiểm soát được họ.

Khi hệ thống chính trị được mở toang vào cuối những năm 80 và những cuộc bầu cử trở thành những cuộc đua tranh giành quyền lực thật sự, thì chẳng bao lâu các hội Tam hoàng đã phát hiện rằng họ có thể thao túng để được bầu vào những cương vị chính quyền. Đến năm 1996, khi 10 % thành viên hội đồng lập pháp toàn quốc và 30 % thành viên các hội đồng lập pháp địa phương là người của các hội kín thì họ đã trở thành một lực lượng chính trị. Tham nhũng và việc mua phiếu bầu đã trở nên thâm căn cố đế. Một khi đã vào được nhiệm sở, họ phải tìm cách bù đắp những chi phí đã bỏ ra.

Tự do báo chí không thể ngăn cản được tham nhũng (“vàng đen” mà!) hoặc đè bẹp được các hội Tam hoàng là các hội kín mà nay có thể sánh với mafia đảo Sicile của Ý. Họ trở nên quá mạnh đến nỗi khi một thủ lĩnh khét tiếng của băng nhóm bí mật này bị một băng nhóm đối địch giết chết năm 1996, Quốc vụ khanh văn phòng chính phủ của Tổng thống Lý Đăng Huy phải tỏ lòng tôn kính công khai bằng cách gửi một bài vị tang lễ theo truyền thống để tranh thủ những người theo băng đảng. Phó chủ tịch quốc hội và các nghị sĩ nổi tiếng đều có mặt tại lễ tang; một số các vị lãnh tụ đối lập cũng có mặt. Mafia đã thâm nhập vào công nghiệp xây dựng, các hợp tác xã nông nghiệp và thậm chí cả liên đoàn bóng chày. Chúng đã đột nhập vào những cuộc họp tổng kết hàng năm của các công ty có niêm yết tên trên thị trường chứng khoán và những hội đồng nhà chùa nhiều tiền; thậm chí chúng đã bắt đầu tuyển mộ hội viên ở các trường học.

Vào tháng 6/2000, hai tuần sau khi được bổ nhiệm, Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên không phải là đảng viên Quốc Dân Đảng, ông Trình Định Nam – phát biểu rằng: “Trong khu vực Đông Á, Đài Loan là nước có những vụ tham nhũng tồi tệ nhất, và 50 năm qua không hề làm gì để giải quyết vấn nạn này. Lý Đăng Huy là nguồn gốc của nền chính trị vàng đen ở Đài Loan. Ông ta biết nó ở đâu nhưng bàn nhiều về sự cần thiết chống tham nhũng mà làm thì ít. Đó là lý do tại sao những Bộ trưởng Tư pháp trước kia đã buộc phải ra đi bởi vì họ thành tâm nghe theo những lời ông Lý nói và đã cố dọn sạch tham nhũng. Nào là bầu không khí, nền văn hóa và con người, tất cả đều ô nhiễm vì nó có thể tác động các quan tòa, cảnh sát và ngay cả các quan chức làm luật. Chúng ta cần họ nhận lấy trách nhiệm này.”

Tôi đã tiếp Tổng thống Lý ở Singapore năm 1989. Đó là chuyến thăm đầu tiên của một Tổng thống Đài Loan đến Đông Nam Á. Tôi dành cho ông ta mọi sự ân cần cá nhân dành cho khách thăm là nguyên thủ quốc gia. Nhưng mặc dù lúc đó chúng tôi chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tôi vẫn quyết định không đón tiếp ông ta theo nghi thức ngoại giao dành cho nguyên thủ quốc gia. Không có cờ, không có đội danh dự, không có trang trí theo nghi lễ dành cho một chuyến thăm ở cấp quốc gia. Trong tất cả các tuyên bố công khai, chúng tôi đều nhắc đến ông ta là Tổng thống Lý “từ Đài Loan” chứ không phải nói “của Đài Loan”. Mặc dù vậy chuyến đi ấy đã nâng cao hình ảnh chính trị của ông ta trong khu vực.

Bởi vì tôi đã hành động như chiếc cầu liên lạc giữa hai bên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Đài Loan đã chọn Singapore là địa điểm cho cuộc đàm phán đầu tiên của họ vào tháng 4/1993. Người Trung Quốc đặt tên cho nó là “Cuộc đàm phán Wang – Ku”, lấy theo họ của các nhà lãnh đạo đại diện chính thức cho những tổ chức “không chính thức” của cả hai bên. Tôi đã gặp riêng cả hai trưởng đoàn và biết rằng họ được các vị tổng thống của mình giao phó làm việc theo những chương trình nghị sự khác nhau. Koo Chen–fu, đại diện Đài Loan, muốn chỉ giải quyết những vấn đề kỹ thuật như tính xác thực của các tài liệu và xác minh những lá thư bảo đảm bị thất lạc; tổng thống của ông ta không muốn có một cuộc thảo luận nào về việc nới lỏng thương mại nói chi đến thống nhất đất nước. Wang Daohan thì lại muốn những cuộc gặp sơ bộ này sẽ dẫn đến những cuộc thảo luận có thực chất về thống nhất đất nước. Như người ta chờ đợi, các cuộc đàm phán này đã không cải thiện được các mối quan hệ.

Tổng thống Lý là người mê đọc sách và có khả năng tiếp thu thông tin rất cao. Ông ta được học tại các trường Nhật ở Đài Loan, hồi nó còn mang tên Mả Tổ, một thuộc địa của Nhật. Trong thời còn chiến tranh, ông ta là một trong số rất ít người Đài Loan được chọn đi du học ở các trường đại học tại Nhật và trong trường hợp ông ta là trường Đại học Kyoto Imperial, một trường có uy tín thứ hai, chỉ sau trường Đại học Tokyo Imperial mà thôi. Ông ta trở lại Đài Loan sau chiến tranh để hoàn tất chương trình đại học ở Đài Bắc. Sau đó, ông ta tiếp tục sang Mỹ để hoàn tất hai phần việc, trong đó phần việc thứ hai là lấy bằng tiến sĩ kinh tế nông nghiệp tại Cornell.

Về sở thích ưu tiên, ông ta tự hào nói với tôi rằng mỗi ngày ông ta đọc bốn tờ báo tiếng Nhật hàng đầu và xem chương trình tivi NHK qua vệ tinh từ Tokyo. Ngay cả sách, ông ta cũng thích đọc những bản dịch bằng tiếng Nhật hơn là nguyên bản tiếng Anh bởi vì ông ta thấy chúng dễ đọc hơn. Do thấm nhuần nền văn hóa và lịch sử Nhật nên ông ta không nghĩ nhiều về đại lục, cả về lịch sử và văn hóa, và các nhà lãnh đạo cộng sản hiện tại của nó. Ông ta nhìn họ bằng cặp mắt của một người thuộc tầng lớp ưu tú của xã hội được đào tạo theo kiểu Nhật, ông ta coi khinh những người cộng sản, và công khai gọi họ nào là những “cái đầu bã đậu”, “ngu xuẩn”, “những bộ óc bị làm hỏng”. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chẳng bao giờ đếm xỉa tới những lời này, nhưng tôi cầm chắc rằng có người ở Bắc Kinh đã tận tụy ghi chép đầy đủ.

Tôi nhận thấy ông ta rất tự tin, uyên bác và nắm vững từng vấn đề mà ông ta quan tâm. Nhưng Đài Loan bị cô lập, ông ta không thể hiểu vì sao các nhà lãnh đạo thế giới lại không thông cảm với Đài Loan như người Nhật. Ông ta coi sự thông cảm và ủng hộ của Nhật giành cho Đài Loan là rất quan trọng. Ông ta cũng tin rằng nếu như ông ta tuân theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự do Hoa Kỳ và Quốc hội Mỹ về nền dân chủ và nhân quyền thì Mỹ sẽ bảo vệ ông ta chống lại một Trung Quốc cộng sản.

Tôi không thể hiểu lập trường của Tổng thống Lý. Một người bạn cũ của ông ta giải thích rằng cách đào tạo của người Nhật đã làm cho ông ta thấm nhuần tinh thần võ sĩ đạo của những chiến binh Nhật. Và ông ta cho rằng ông ta có sứ mạng dẫn dắt nhân dân Đài Loan đến “miền Đất Hứa”. Người bạn này còn nói thêm rằng, Lý cũng là một tín đồ Kitô giáo sùng đạo, lại được nung nấu bởi tinh thần võ sĩ đạo nên ông ta làm theo ý Chúa với bất kỳ giá nào.

Tháng 6/1995, sau một cuộc vận động hành lang mạnh mẽ, Tổng thống Lý khiến cho Quốc hội Mỹ thông qua một nghị quyết nhất trí cho phép cấp thị thực nhập cảnh cho ông ta sang thăm Cornell, trường học cũ của ông ta. Chuyến viếng thăm đó và bài diễn văn ông ta đọc tại Cornell đã gây tác động nghiêm trọng hơn nhiều chứ không như Quốc hội Mỹ trông đợi. Tôi đã sợ sẽ có phản ứng nhưng không nhận ra chiều sâu của mối nghi ngờ mà Trung Quốc dành cho Tổng thống Lý và những ẩn ý mà họ suy ra từ quyết định của Tổng thống Mỹ cho phép thực hiện chuyến đi này. Cuối năm đó, vào tháng 10, tôi hỏi Thủ tướng Lý Bằng tại sao ông ta rất tin là Lý Đăng Huy muốn Đài Loan độc lập. Lý Bằng nói rằng họ đã xem toàn bộ cuốn băng video ghi lại bài diễn văn của Lý Đăng Huy tại Cornell. Lý Đăng Huy đã không hề đề cập tới “một nước Trung Quốc” nhưng lại nhấn mạnh về Đài Loan và gọi là Cộng hòa Trung Hoa khi đề cập đến Đài Loan. Sự kết tội này đã dẫn đến một cuộc đụng độ nghiêm trọng nhất kể từ cuộc khủng hoảng năm 1958 ở Quemoy vào tháng 3/1996 giữa hai bên. Phía Trung Quốc đã dàn quân và thực hiện những cuộc tập trận ở tỉnh Phúc Kiến đối diện với Đài Loan và đã bắn cho tên lửa rơi xuống vùng biển gần những cảng biển quan trọng dọc bờ biển phía Tây Đài Loan.

Để làm dịu tình hình, ngày 3/3/1996, tôi đã khẩn thiết giãi bày. ”Các vị lãnh đạo Trung Quốc đã nói tới tôi như một người bạn cũ. Với Đài Loan tôi là người bạn cũ hơn. Nếu một trong hai bên bị thiệt hại, thì sẽ là mất mát đối với Singapore. Nếu cả hai cùng bị thiệt hại, thì mất mát của Singapore sẽ gấp bội. Singapore sẽ có lợi khi cả hai đều thịnh vượng, khi cả hai cùng hợp tác và giúp nhau thịnh vượng”. Tại một cuộc họp báo, Phó Thủ tướng Tiền Kỳ Thâm kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc nói rằng đây là vấn đề nội bộ, và dù tôi biết rõ về Đài Loan hơn phần lớn những người ngoài, đây không phải là vấn đề dính líu tới những người bên ngoài. Lời đáp nhẹ nhàng này không làm tôi ngạc nhiên một chút nào vì nó nằm trong lập trường cơ bản của họ: đây là vấn đề nội bộ của “Trung Hoa” và sẽ phải được giải quyết trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo của hai phía.

Trong khi đó, Tổng thống Lý bắt đầu bớt nhấn mạnh tính chất Trung Hoa của Đài Loan. Từ cuối cuộc chiến trong năm 1945 cho đến khi Tưởng Kinh Quốc qua đời năm 1988, các trường trung tiểu học và đại học của họ đều sử dụng quốc ngữ (tiếng Quan thoại). Sinh viên, học sinh học lịch sử và địa lý của đại lục, theo đó Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc. Còn bây giờ thì các trường dạy lịch sử và địa lý của Đài Loan nhiều hơn còn lịch sử và địa lý của Trung Quốc thì ít đi. Vào đầu năm 1989, chẳng bao lâu sau khi Tưởng Kinh Quốc qua đời, tôi đã cảm nhận được sự bối rối của Thủ tướng Vũ Quốc Hoa, một người đại lục khi ông ta tháp tùng tôi trong chuyến thăm Đài Trung, khu an dưỡng, chữa bệnh bằng nước khoáng trước kia của Nhật. Sau bữa ăn tối, trong lúc hát karaoke, các vị bộ trưởng người Đài Loan bản địa đã hát những bài hát bằng tiếng Min–nan mà Yu không hiểu.

Trong 12 năm làm Tổng thống, Lý đã nói lên tâm trạng muốn phân lập mà lâu nay vẫn âm ỉ tại Đài Loan. Ông ta đã đánh giá thấp ý chí của các vị lãnh đạo và nhân dân Trung Hoa đại lục kiên quyết giữ Đài Loan trong vòng kiểm soát của mình. Các chính sách của Lý chỉ có thể thắng thế khi có sự ủng hộ của Mỹ. Bằng những hành động tạo cảm giác bất cứ lúc nào cũng có thể nhận được một sự ủng hộ như vậy, ông ta đã dẫn nhân dân Đài Loan đến chỗ tin rằng họ chẳng cần phải đàm phán nghiêm túc với các vị lãnh đạo Trung Quốc về tương lai của Đài Loan. Cống hiến của ông ta đối với tương lai của Đài Loan là ở chỗ đã biến vấn đề thống nhất thành mục quan trọng nhất trong chương trình nghị sự quốc gia của Bắc Kinh.

Các vị lãnh đạo Trung Quốc đã theo dõi sát sao chiến dịch tranh cử cho nhiệm kỳ tổng thống sắp tới vào tháng 3/2000. Họ lo ngại trước sự ủng hộ ngày càng tăng đối với Trần Thủy Biển, ứng cử viên của đảng Tiến bộ Dân chủ. Những người Đài Loan bản địa theo chủ nghĩa dân tộc, sáng lập viên của Đảng này, đã từ lâu đấu tranh cho nền độc lập của Đài Loan và đã bị chính phủ Quốc Dân Đảng dưới thời Tổng thống Tưởng Giới Thạch và con trai ông ta là Tổng thống Tưởng Kinh Quốc cầm tù và trừng trị. Ngày 22/2/2000, báo chí Bắc Kinh đã phát hành sách trắng của Hội đồng Nhà nước cảnh báo rằng nếu Đài Loan từ chối thảo luận vấn đề thống nhất vô hạn định thì Trung Quốc sẽ phải dùng vũ lực. Điều đó nhắm vào Trần. Ngày 15/3, ba ngày trước bầu cử, Thủ tướng Chu Dung Cơ tại một cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp đã cảnh cáo Đài Loan rằng Trung Quốc sẽ đổ máu để bảo vệ lãnh thổ của mình.

Trần Thủy Biển đắc cử với chưa đầy 40 % phiếu bầu trong khi ứng cử viên độc lập James Soong được 36 %. Ứng cử viên Quốc Dân Đảng Liên Chiến, Phó Tổng thống đương nhiệm bị thất bại thảm hại. Người ta nhận thấy bằng một bài diễn văn tranh cử chiếu lệ dành để ủng hộ Liên, Tổng thống Lý Đăng Huy đã bỏ rơi Liên Chiến. Mấy người bạn thân nhất của Lý đã tán thành Trần. Điều này càng làm tăng thêm sự hoài nghi của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đối với Trần. Bắc Kinh nói rằng họ sẽ chờ xem, lắng nghe những gì Trần sẽ nói và nhìn xem những gì ông ta sẽ làm. Sau khi được đắc cử, Trần đã có những lời mang tính hòa giải nhưng chẳng có lời nào cam kết là rốt cuộc sẽ thống nhất. Chủ tịch Giang Trạch Dân nói các cuộc đàm phán có thể được nối lại theo nguyên tắc “Một nước Trung Quốc”. Trần lại nói “Một nước Trung Quốc” có thể là một tiết mục để thảo luận. Tại lễ nhậm chức của ông ta vào ngày 20/5, Trần tuyên bố: “Cả hai phía đã có đủ khôn ngoan và sáng tạo để cùng nhau giải quyết vấn đề ‘Một nước Trung Quốc’ trong tương lai.” Ông ta không tạo lý do cho bất kỳ một hành động nông nổi nào chống lại Đài Loan nhưng cũng không tuyên bố gì đủ để lung lạc niềm tin của các nhà lãnh đạo đại lục cho rằng ông ta sẽ tiếp tục “kỷ nguyên Lý Đăng Huy không có Lý Đăng Huy”. Hai giờ đồng hồ sau khi ông ta đọc bài diễn văn này, đại lục tuyên bố rằng ông ta thiếu thành ý. Chắc rằng Bắc Kinh sẽ chờ cho đến khi họ biết được vào tháng 11/2000, ai sẽ là Tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ sắp tới, rồi mới quyết định hướng hành động. Tình thế có thể đã sẵn sàng cho một sự xoay chuyển mạnh mẽ. Nếu như tổng thống mới nói mập mờ và không đồng ý chấp nhận rằng Đài Loan và đại lục là các phần lãnh thổ của một nước Trung Quốc, cho dù định nghĩa cách nào đi nữa, thì tình hình sẽ trở nên biến động. Không một nhà lãnh đạo Trung Quốc nào có thể tồn tại nếu người ta thấy ông ta “làm mất Đài Loan”.

Tổng thống mới có hai lựa chọn: tiếp tục thực hiện những gì Lý Đăng Huy đã ngưng bỏ, nghĩa là xung đột, hoặc là đóng lại chương sử đó và mở ra một chương sử mới trên một cơ sở thực tế. Đài Loan đã bị tách khỏi đại lục hơn một trăm năm kể từ năm 1895. Không một người Trung Hoa nào ở Đài Loan thích được tái hòa nhập vào khối dân khổng lồ 1,2 tỷ này. Họ thích một cung cách quản lý đất nước và nếp sống riêng, khác với đại lục và một mức sống cao hơn mà họ đã tích cực đấu tranh để đạt được. Ngay cả những người đại lục đã sống ở Đài Loan từ năm 1949 và ủng hộ thống nhất đất nước cũng không muốn thống nhất trong tương lai gần.

Mỹ có thể đủ sức ngăn chặn Trung Quốc dùng vũ lực trong vòng 20 đến 30 năm nữa. Trong thời hạn đó, có khả năng Trung Quốc sẽ phát triển được khả năng quân sự đủ để kiểm soát eo biển giữa đại lục và Đài Loan. Khôn ngoan hơn là, trước lúc cán cân quân sự nghiêng về phía đại lục, nên thương lượng những điều kiện cho việc thống nhất đất nước trong tương lai chứ không phải trước mắt.

Giả sử rằng tình hình xấu nhất xảy ra, đại lục sử dụng vũ lực, khiến Mỹ phải phản ứng và kiên quyết đánh bại quân đội giải phóng nhân dân (của Trung Quốc – ND) bằng kỹ thuật tiên tiến. “Phải chăng câu chuyện đến đây đã kết thúc?” Chẳng bao lâu sau cuộc bầu cử ở Đài Loan, tôi có hỏi ba cố vấn chiến lược cao cấp của Mỹ như vậy. Một người trả lời rằng: “Đó là khởi đầu của câu chuyện”. Ông ta đã suy nghĩ xuyên thấu vấn đề. Nếu nền công nghệ siêu việt của Mỹ cản trở họ đạt mục đích của mình, thì không khó gì hình dung 1,2 tỷ người Trung Quốc sẽ xốc lên bởi một động lực mạnh mẽ là cho người Mỹ thấy rằng họ không phải là những kẻ hèn nhát, kém cỏi.

Đối với Tổng thống Trần Thủy Biển thì tiếp tục chính sách của Lý Đăng Huy là tạo ra một bản sắc dân tộc riêng biệt, nổi bật của Đài Loan sẽ xác nhận việc Bắc Kinh nghi là ông ta đã xác định tiến trình độc lập của Đài Loan. Điều này sẽ làm tăng nguy cơ của một giải pháp vội vã cho vấn đề thống nhất đất nước. Nếu Đài Loan trở thành một quốc gia độc lập, Lý Đăng Huy sẽ đi vào lịch sử Đài Loan như một anh hùng dân tộc. Nếu Đài Loan được tái thống nhất với đại lục bằng bạo lực, lịch sử sẽ không kiêng nể gì một con người đã mang đến cho người Trung Quốc ở Đài Loan những nỗi đau và mất mát không cần thiết.

Người dân Trung Quốc ở cả hai phía eo biển có thể làm giảm mức độ trầm trọng của vấn đề bằng cách tạo lập những mối quan hệ dễ chịu hơn qua nhiều năm tháng. Nếu là thống nhất đất nước trong hòa bình, thì phải làm lu mờ dần những khác biệt hiện đang chia rẽ và tách biệt hai xã hội chứ không phải nhấn mạnh những khác biệt đó. Cả hai cần thời gian để làm việc và thu hẹp những cách biệt xã hội, kinh tế và chính trị. Trong dân chúng ở Đài Loan, cảm giác mình thuộc dân tộc Trung Hoa không mạnh như ở Hong Kong. Đại lục có thế và lực để chấp nhận điều này và chọn thực thi một quan điểm cởi mở, cao thượng nhằm thúc đẩy quá trình hòa giải này. Thống nhất bằng vũ lực sẽ để lại những vết sẹo không thể tẩy xóa. Mặt khác các nhà lãnh đạo Đài Loan có trách nhiệm không hành động theo hướng tiến tới độc lập hoặc cố tình khuếch trương những khác biệt giữa hai xã hội.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx