Đem quân đến Nhật Xuất Nguyên, chính là một nước cờ quân sự cực kỳ mạo hiểm của Thác Bạt Khuê.
Ngay lúc Mộ Dung Thùy biết rằng hắn đóng quân ở Nguyệt Khâu, thì cũng đoán ra Long Thành quân đoàn của mình hung đa cát thiểu. Bởi vì hắn đã biết Mộ Dung Thùy giấu quân ở Liệp Lĩnh, tự nhiên sẽ thăm dò được nơi Long Thành quân đoàn đóng quân. Mà phương pháp duy nhất để Mộ Dung Thùy xoay chuyển cục diện, chính là nhân tin tức bại trận của Long Thành quân đoàn chưa truyền về, quân tâm còn chưa bị ảnh hưởng, mặt khác nhân lúc Thác Bạt Khuê hắn vẫn còn chưa ổn định trận cước, với binh lực áp đảo, từ Liệp Lĩnh xuất kích, tiêu diệt hắn?
Thác Bạt Khuê đứng sừng sững trên đỉnh cao nhất của Nguyệt Khâu. Bầu trời đầy sao chiếu xuống vùng bình nguyên hoang dã ven sông, toàn bộ mặt đất bị bao phủ bởi một lớp sương mù, khiến khó mà nhìn xa được.
Cuộc chiến lần này là nguy hiểm nhất, không phải do đối phương người đông. Nhân vì quân sĩ bên mình sĩ khí dâng cao, ở vùng đồi núi chiếm ưu thế dĩ dật đãi lao, nên khoảng cách ưu thế về quân lực được san bằng. Nguy hiểm ở chỗ đối thủ là Mộ Dung Thùy.
Từ trước đến nay, Mộ Dung Thùy chính là người mà trong lòng Thác Bạt Khuê úy kỵ nhất. Về binh pháp, Mộ Dung Thùy có tài năng thiên phú, dụng binh như thần, binh lính tướng sĩ đều vì hắn mà liều mạng, có đến hàng chục năm tung hoành Bắc phương, chưa từng có địch thủ.
Bất quá mối nguy hiểm đó là hoàn toàn có giá trị.
Thác Bạt Khuê đã tính toán chính xác, lần này Mộ Dung Thùy vội vã tiến đánh, chuẩn bị không đủ, khó mà kéo dài. Chỉ cần có khả năng chống chọi được nước cờ tấn công mãnh liệt đầu tiên của Mộ Dung Thùy, thế cờ tất suy, cuối cùng chỉ có đường triệt thoái.
Cuộc chiến này nếu may mắn không bị thất bại, thì sẽ loại bỏ được nỗi sợ hãi Mộ Dung Thùy trong lòng quân sĩ bên mình, khiến cho thủ hạ cảm thấy bản thân hắn có tư cách và bản lĩnh đánh bại Mộ Dung Thùy.
Sở Vô Hạ ở bên cạnh thở gấp gáp hỏi: “Chỉ còn nửa canh giờ nữa là bình minh rồi, làm sao vẫn không thấy bóng dáng địch nhân nhỉ?”
Thác Bạt Khuê ung dung đáp: “Mộ Dung Thùy đến rồi!”
Sở Vô Hạ tức thì khẩn trương hẳn lên, ngó phải nhìn trái, hỏi: “Ở chỗ nào cơ?”
Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Vô Hạ khẩn trương rồi hả?”
Sở Vô Hạ chỉ gượng cười không đáp. Đối diện với Mộ Dung Thùy vốn là Bắc phương đệ nhất binh pháp đại gia, ai mà không run rẩy căng thẳng?
Thác Bạt Khuê điềm đạm nói: “Trước đó trong chiến dịch phục kích Hách Liên Bột Bột tại Hồ Thành, ta cũng nghĩ ra kế dụ địch đến tấn công thế này. Hiện tại tình huống đúng như mong muốn trong lòng bọn ta, Vô Hạ phải hưng phấn mới đúng.”
Sở Vô Hạ không hiểu hỏi: “Lẽ nào lúc đó Tộc chủ đã đoán rằng Mộ Dung Thùy sẽ dấy binh đến Liệp Lĩnh hay sao?”
Thác Bạt Khuê thầm nghĩ ta đâu phải thần tiên, đương nhiên không thể nào đoán được Mộ Dung Thùy đến từ phương nào. Bất quá vì có một thám tử thần kỳ là Kỷ Thiên Thiên, làm cho Mộ Dung Thùy không còn thi triển kế dùng kì binh được nữa.
Ngay lúc đó, bốn phương tám hướng đồng thời vang lên tiếng vó ngựa, Mộ Dung Thùy rốt cuộc cũng đến, mà có vẻ như không một chút do dự dốc toàn lực tấn công.
Thác Bạt Khuê quát lớn: “Phóng hỏa tiễn!”
Thủ hạ thổi tù và đang đợi lệnh phía sau, lập tức thổi lên một tiếng dài, phát ra mệnh lệnh của hắn.
Khoảng một trăm mũi hỏa tiễn từ ngoại vi Nguyệt Khâu bắn ra, mục tiêu không phải là địch nhân, mà là khu vực rộng lớn đã bố trí trước ở chu vi bốn phía Nguyệt Khâu, vượt qua hàng trăm ngọn đồi lô nhô giống như những hòn núi nhỏ, nhằm đúng vào những đống củi khô đã tẩm dầu. Tức thì ngọn lửa bốc lên bừng bừng, làm cho một vùng ngoại vi Nguyệt Khâu ánh lên một màu đỏ rực, mà chính Nguyệt Khâu thì lại không đèn không đuốc, không thấy đến nửa điểm ánh sáng.
Ngay lúc đó địch ta đã phân minh, địch nhân đang công tới hoàn toàn bộc lộ dưới ánh lửa, mà có muốn lui cũng không thể nào làm được.
Mặc dù qua một quãng đường dài đến tập kích, người Yên vẫn có quân dung chỉnh tề, chia ra tám mũi đến xâm phạm. Trung quân gồm hai đội tất cả là ba ngàn người, theo hướng chính diện công tới, mục đích chính là muốn kiềm chế bọn họ.
Sát chiêu thực sự của Mộ Dung Thùy là từ phía sau lẻn tới, làm rung chuyển mạnh mẽ tuyến phòng thủ hậu phương và hai bên sườn, đem ưu điểm xung kích của kỵ binh trong chiến tranh phát huy đến tận cùng.
Chỉ xem Mộ Dung Thùy đến vô thanh vô tức, trước khi sự việc xảy ra không có đến nửa điểm báo trước, đột ngột phát động tấn công khí thế ào ào như thế này, cũng biết về mặt tổ chức đột kích Mộ Dung Thùy quả thật xuất sắc như thế nào.
Nếu quả Thác Bạt Khuê không có chuẩn bị từ sớm, thì trận chiến này chỉ có bại mà thôi, lại còn thua một cách thảm hại.
Hiệu lệnh chiến đấu lại nổi lên, hàng loạt hàng loạt kình tiễn nhằm hướng trận địa ngoại vi Nguyệt Khâu mà bắn tới, kỵ binh địch nhân từng lớp từng lớp ngã xuống đất, bụi đất bốc lên mù trời.
Đúng vào thời khắc đó, Thác Bạt Khuê đã biết rất rõ, sau khi vượt qua đêm nay, Mộ Dung Thùy không còn tinh thần chiến đấu mỗi trận mỗi thắng nữa.
Lưu Dụ tiến vào cổng khu trang viện của Tạ gia, đi cùng chỉ có bốn chiến sĩ thân binh, nhân vì gã không muốn để cho Tạ gia có ấn tượng là gã uy nghi mà đến.
Tiếp đãi gã chính là Lương Định Đô, y đã thay thế vị trí của Tống Bi Phong trước đây ở Tạ gia, mà cũng là người hiểu rõ Lưu Dụ. Nhưng với thân phận và địa vị hiện tại của Lưu Dụ, Lương Định Đô thực sự không đủ tư cách và danh vị để đón tiếp.
Lưu Dụ lần này đến thăm Tạ gia là muốn cùng Tạ Hỗn hòa thuận trao đổi, làm giảm mối quan hệ đang căng thẳng giữa bọn họ. Nếu như Tạ Hỗn thức thời, thì phải tự mình ra tiếp đón, mọi chuyện sẽ thật dễ dàng, nhưng tình huống trước mắt hiển nhiên là không được như vậy.
Lương Định Đô đi sau một bước, hạ giọng nói: “Đại tiểu thư đang ở Vong Quan hiên chờ đón đại nhân, bởi vì đại tiểu thư đang có bệnh trong người, nên không thể ra đại môn nghênh đón đại nhân được, thỉnh đại nhân lượng thứ.”
Lưu Dụ hỏi: “Tôn thiếu gia đâu?”
Lương Định Đô cười gượng gạo: “Tôn thiếu gia ra ngoài chưa về.”
Lưu Dụ thở dài một hơi, thầm nghĩ bản thân khẳng định là Tạ Hỗn đang ở nhà, mới đến hẻm Ô Y, tên tiểu tử này đã tuyên bố không muốn gặp mình.
Lương Định Đô lại hạ giọng hơn nữa: “Tôn thiếu gia biết được đại nhân sẽ đến, liền theo cổng sau bỏ ra ngoài.”
Lưu Dụ nghi ngờ nhìn Lương Định Đô chăm chú.
Lương Định Đô tựa như đã hạ quyết tâm, cung kính thưa: “Định Đô hy vọng có thể theo hầu đại nhân.”
Lưu Dụ trong lòng rung động, nghĩ đến câu ”thụ đảo hồ tôn tán”*. Đích xác là đại thế của Tạ gia đã mất, nên người trong phủ sinh ra tâm ý ly khai. Lương Định Đô tiết lộ chuyện Tạ Hỗn, chính là hướng về bản thân mình thể hiện tâm ý trung thành. Trong lòng cảm khái, nhẹ nhàng điềm đạm nói: “Hiện tại chưa phải là lúc nói chuyện, sau này sẽ nói tiếp!”
Lưu Dụ thực không nỡ nhẫn tâm cự tuyệt người có thể xem là một nửa đệ tử của ‘lão bằng hữu’ Tống Bi Phong này.
Lương Định Đô lập tức rối rít tạ ơn, cũng cho thấy là trong lòng y rất cảm kích.
Lúc đó đã đến bên ngoài cửa chính của Vong Quan hiên, nhìn thấy đôi câu đối treo ở hai bên “Cư quan vô quan quan chi sự, Xử sự vô sự sự chi tâm’**, tự nhiên gã có một loại cảm thụ mà trước đây không hề có. Mà đến lúc này gã mới minh bạch tâm cảnh của Tạ An năm đó, cảm thấy mình cũng có cùng cảm nhận. So với sự tiêu sái lỗi lạc của Tạ An, gã tự thẹn là không bằng, căn bản không có tài năng giống như Tạ An.
“Đại nhân!”
Lưu Dụ đang chìm trong suy nghĩ liền bị Lương Định Đô thức tỉnh trở lại. Sau khi phân phó thủ hạ chờ ở bên ngoài, tự mình tiến thẳng vào Vong Quan hiên.
Cảnh trí bên trong vẫn như trước đây, nhưng Lưu Dụ dù sao vẫn cảm thấy có chỗ không giống khi xưa. Có lẽ là do tâm tình gã thay đổi, hoặc là bởi vì gã đã biết rằng hiện tại Tạ gia đang lâm vào tình thế điêu linh thống khổ.
Tạ Đạo Uẩn đang ngồi dựa lưng vào thành giường, trên người phủ tấm chăn mỏng, gương mặt trắng bệch, thấy Lưu Dụ đến, yếu ớt nói: “Xin thứ cho ta không thể ngồi dậy nghênh tiếp đại nhân theo đúng lễ tiết, mời đại nhân đến bên cạnh ta, không cần phải câu nệ lễ nghi thông thường.”
Lưu Dụ sinh ra cảm giác không dám đối mặt với bà, ngầm thở dài một hơi, đi đến bên cạnh bà, ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ đặc biệt mang đến cho gã.
Tiểu tì hầu hạ Tạ Đạo Uẩn thi lễ xin phép đi ra bên ngoài.
Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Đại nhân phải chăng vì tiểu Hỗn mà đến?”
Lưu Dụ vội đáp: “Xin phu nhân cứ gọi ta là tiểu Dụ, ta vĩnh viễn vẫn là một tiểu Dụ như thế trong nhận thức của phu nhân.”
Tạ Đạo Uẩn biểu lộ một dáng vẻ cay đắng, ánh mắt đầy những ưu tư, tựa như phải mất rất nhiều khí lực mới có thể giữ cho luồng suy nghĩ được rõ ràng, nói: “Ta thực không minh bạch tâm ý tiểu Dụ. Tiểu Hỗn vừa mới trở về, thì ngươi đến ngay, chắc là muốn hóa giải tình trạng căng thẳng giữa ngươi và tiểu Hỗn. Ôi! Hiện tại những người trẻ tuổi có suy nghĩ của riêng mình, ta thì thân thể không khỏe...”
Lưu Dụ đau xót đỡ lời: “Xin phu nhân cứ nghỉ ngơi cho khỏe, không nên vì chuyện của lớp tiểu bối mà phiền não, để nhanh chóng bình phục trở lại.”
Tạ Đạo Uẩn bình tĩnh nói: “Bình phục rồi thì sao? Còn chưa kể là cuộc sống đã chịu nhiều đau khổ. Ta có khả năng chịu đựng được đến hôm nay, nhìn thấy mộng ước của Huyền đệ đang được một tay ngươi hoàn thành là đã cảm thấy ông trời đặc biệt khai ân rồi.”
Lời nói và thần thái của bà, làm gợi lên trong gã hồi ức thống khổ lúc Tạ Chung Tú hấp hối, kìm không nổi hai hàng nhiệt lệ, lã chã tuôn rơi.
Tạ Đạo Uẩn mỉm cười: “Tiểu Dụ xác thực vẫn là tiểu Dụ trước đây. Hãy nói cho ta biết! Chuyện cảnh cáo Tạ Hỗn ba lần mắc sai lầm, tịnh không phải là do ngươi nghĩ ra.”
Lưu Dụ dùng tay áo lau những giọt lệ vương trên mặt, đáp: “Đó chính là người khác thay ta nghĩ ra biện pháp, phải chăng ta đã làm sai? Sau đó ta thực sự rất hối hận, cảnh cáo tựa như không có nửa điểm tác dụng đối với tôn thiếu gia.”
Tạ Đạo Uẩn nhẹ nhàng nói: “Chuyện kiểu như vậy, làm sao có thể nói đúng sai? Người ta đều phải chết! Ta thực không muốn nói với y, nhưng phải trách tiểu Diễm, hắn quá ngu xuẩn không khéo léo, không những làm hại bản thân, mà suýt chút nữa còn làm liên lụy đến ngươi, đó là chuyện mà An công đã không dự liệu được. May mà tiểu Dụ ngươi có thuật xoay chuyển trời đất, bằng không tình huống sẽ không thể tưởng tượng được. Tình hình trước mắt đã đến nước khó mà thay đổi, tiểu Dụ ngươi phải khéo mà tận dụng.”
Lưu Dụ thành khẩn đáp: “Tiểu Dụ sẽ kính cẩn ghi nhớ những lời giáo huấn của phu nhân.”
Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Tình huống bên phía Hoàn Huyền thì thế nào?”
Lưu Dụ đáp: “Tiểu Dụ lần này đến bái phỏng phu nhân, chính là muốn chào từ biệt phu nhân. Hiện tại ta đang chờ tin tức từ tiền tuyến, một khi thiệp báo truyền về, ta phải lập tức lên đường trở lại tiền tuyến, chỉ huy chiến sự công đánh Giang Lăng.”
Tạ Đạo Uẩn nói: “Ta biết tiểu Dụ đã là người quan trọng nên rất bận rộn, không thể chờ đợi tiểu Hỗn được nữa, đại khái y sẽ không trở về trước canh một đâu. Ôi! Ta không quản y được nữa.”
Lưu Dụ thầm thở dài trong lòng, Tạ Hỗn đã bỏ qua cơ hội cuối cùng để hóa giải hiềm khích với gã, mà Tạ Đạo Uẩn cũng không còn nhiều thời gian. Khi Tạ Đạo Uẩn nhắm mắt xuôi tay, giữa gã và Tạ Hỗn sẽ không còn hòa hoãn nữa, tình huống phát triển, không ai có thể khống chế được.
Tạ Đạo Uẩn sức tàn lực kiệt mệt mỏi nhắm mắt lại.
Lưu Dụ nói nhỏ: “Phu nhân hãy nghỉ ngơi cho khỏe, chờ sau khi ta tru diệt Hoàn Huyền, sẽ lại đến vấn an phu nhân.”
Tiếp đó lùi lại ba bước, ‘vụt’ một tiếng quỳ xuống, cung cung kính kính đập đầu ba lần, nuốt lệ bỏ đi.
Đồng thời trong lòng gã có một dự cảm bất tường, đây có lẽ là lần cuối cùng gã gặp mặt Tạ Đạo Uẩn.
Vào lúc hoàng hôn, Yến Phi và Hướng Vũ Điền lao nhanh về Nhật Xuất Nguyên, nhìn về phía Nguyệt Khâu vẫn thấy tinh kỳ của Thác Bạt Khuê bay phấp phới, mới trút được nỗi lo canh cánh trong lòng.
Hiển nhiên là đêm qua đã xảy ra một trận chiến đấu kịch liệt, gần nơi hoang dã vẫn còn không ít thây người xác ngựa, trong công sự binh lính đang thu dọn tàn cục, đào huyệt ngay tại chỗ để mai táng.
Công sự phòng ngự bên ngoài thấy chiêng trống nằm la liệt trên mặt đất. Thu hút ánh mắt là tuyến phía đông của Nguyệt Khâu, một con đường dài đến hai dặm được đào dọc theo sườn núi, sâu đến hàng trượng, rộng nửa trượng hướng ra phía trước đột ngột mở ra một căn hầm hình bán nguyệt, bùn đất được đào lên chất đống thành bờ hướng vào bên trong, bản thân đống đất cao đến nửa trượng, tăng cường sức phòng ngự của đường hầm.
Hai người chạy thẳng đến doanh địa, các chiến sĩ nhận ra Yến Phi, lập tức gây nên náo động, tiếng hô vang trời, lan ra toàn bộ khu vực đồi núi.
Thúc Tôn Phổ Lạc đang trực tại khu vực đó nghe tiếng liền chạy lại, từ xa trông thấy Yến Phi, kêu to lên: “Phải chăng Yến gia mang tin tốt lành đến?”
Yến Phi dùng tiếng Tiên Ti trả lời: “May mà không nhục mạng! Long Thành quân đoàn không còn tồn tại nữa.”
Lời nói của chàng nhất thời gây nên một trận hò reo vui mừng vang trời, các chiến sĩ vội chạy đi để báo tin.
Thúc Tôn Phổ Lạc cũng vui sướng như điên, nhảy xuống ngựa đi tới, dẫn hai người chạy như bay đến Soái trướng đặt trên đỉnh Ngyệt Khâu.
Trên đường Hướng Vũ Điền lưu tâm quan sát sự phân bố doanh trướng, không kìm được thầm tán thưởng trong lòng. So với cách bố trí doanh trại của cha con Mộ Dung Thùy và Mộ Dung Long, Thác Bạt Khuê không hề có một chút thua kém, theo hoàn cảnh đặc thù của Nguyệt Khâu, làm ra trong trại có trại, các trại tương hỗ, thuận tiện linh hoạt, liên hệ lẫn nhau, có khả năng ứng phó công kích từ bất cứ hướng nào.
Vào thời Tam quốc, Thục vương Lưu Bị dùng hết lực lượng cả nước tiến đánh Tôn Quyền nước Ngô, đem doanh trướng bố trí thành một dải dài bảy trăm dặm, bị đại tướng bên Ngô là Lục Tốn nhìn ra nhược điểm, sai thủ hạ dùng hỏa công, tấn công mãnh liệt vào một điểm, quân Thục bị tan rã, trở thành cố sự lưu truyền thiên cổ ‘Hỏa thiêu doanh trại liên tục tám trăm dặm’. Từ đó cho thấy tính chất trọng yếu của việc kiến lập doanh trại, thậm chí quan hệ đến thành bại của chiến tranh.
Lên đến chỗ bằng phẳng trên đỉnh Nguyệt Khâu, thấy trước mặt xuất hiện một Soái trướng đặc biệt lớn, nằm ở chính giữa điểm cao, chiều dài cũng gần ba trăm bộ, còn rộng cũng hơn trăm bộ, xung quanh cắm lên các loại cờ xí, cho thấy đây không phải là quân đoàn đồng nhất. Bất luận từ bất kỳ hướng nào nhìn lên đỉnh núi, đều có thể thấy tinh kỳ bay phấp phới trong gió.
Thác Bạt Khuê đang ngồi bên ngoài cửa trướng, Sở Vô Hạ thì đang giúp hắn băng bó vết thương bên tay trái, ngồi một bên là Trưởng Tôn Tung, tựa như mới báo cáo cho hắn tình hình trong quân.
Thân binh phòng thủ bốn phía của Soái trướng.
Ánh mắt Thác Bạt Khuê tựa như hai mũi tên hướng bọn họ xạ tới, tiếp đó biểu lộ gương mặt tươi cười rạng rỡ, làm cho người ta thấy hắn đem cảm giác từ trong lòng biểu lộ ra nụ cười.
Bóng tịch dương vẫn chưa khuất vào dãy núi phía tây, tỏa ra hàng vạn màu sắc, chiếu xuống bên dưới làm cho Bình Thành trở thành một chấm đen nhỏ, càng làm cho soái trướng ở nơi này lộ ra một khí tượng ngút trời. Thác Bạt Khuê đúng là có một khí thế trấn nhiếp thiên hạ không có ai hơn.
Thác Bạt Khuê đột ngột đứng dậy, lắc đầu than: “Các ngươi cuối cùng cũng đến rồi! Ta mong các ngươi dài cả cổ!”
Trưởng Tôn Tung cùng Sở Vô Hạ vội vàng đứng dậy theo. Sở Vô Hạ có điểm thẹn thùng hướng về bọn họ thi lễ.
Hướng Vũ Điền đứng lại, ngầm đẩy Yến Phi ra trước.
Lúc này Thác Bạt Khuê cất bước đi về phía bọn họ, mắt chiếu ra ánh kỳ dị, đến bên cạnh nói: “Tiểu Phi biết rõ hơn bất cứ người nào khác, ta từ khi hiểu chuyện đến nay, luôn luôn tận lực chờ cho đến thời khắc này, cuối cùng thì thỏa lòng rồi.”
Yến Phi cũng chạy nhanh lên phía trước, cười nói: “Ta trên đường đến đây, lúc nào cũng lo lắng liệu vẫn có thể thấy Soái kỳ của ngươi tung bay phấp phới trên Nhật Xuất Nguyên hay không, hiện tại thì yên tâm rồi.”
Hai người đồng thanh reo hò, ôm chặt lấy nhau.
Hướng Vũ Điền dẫn đầu hô to, chúng nhân đồng thanh hưởng ứng, lập tức gây nên một trận la hét reo hò từ trên đỉnh núi xuống bốn phương tám hướng bên dưới.
Thác Bạt Khuê tách ra đứng sát bên Yến Phi, ánh mắt sắc bén sáng lấp lánh hỏi: “Tiểu Phi ngươi hãy nói cho ta biết, Long Thành quân đoàn phải chăng đã không còn?”
Yến Phi cười đáp: “Nếu không như vậy, ngươi làm sao còn nhìn thấy bọn ta?”
Các thân binh lại reo hò ầm ĩ một lần nữa.
Thác Bạt Khuê tâm tình thỏa mãn rời khỏi Yến Phi, rồi quay sang Hướng Vũ Điền đang đứng bên cạnh bọn họ vòng tay ôm lấy y, hân hoan nói: “Ngươi đã là huynh đệ của tiểu Phi, thì cũng là huynh đệ của Thác Bạt Khuê ta, một ngày là huynh đệ, vĩnh viễn là huynh đệ.”
Hướng Vũ Điền hỏi: “Phải chăng đêm qua Mộ Dung Thùy đã phải chịu thiệt thòi lớn?”
Thác Bạt Khuê buông Hướng Vũ Điền ra, mỉm cười: “Cũng có thế nói như vậy. Đêm qua vào lúc trời sắp sáng, Mộ Dung Thùy đem quân đến tấn công, ta tuy đã sớm chuẩn bị, nhưng cũng phải ứng phó cật lực. Nói thực tình, Mộ Dung Thùy quả không hổ danh Bắc phương đệ nhất binh pháp đại gia, phương pháp chiến đấu của hắn khiến người ta phải ngả mũ kính phục, tựa như những ngọn sóng dữ dội đợt này nối tiếp đợt kia, trong nhiều canh giờ không ngừng công kích doanh địa của bọn ta, hết tiến lại thoái, làm cho bọn ta thậm chí không kịp thở. Từng có những thời khắc ta còn cho là không thể đứng thẳng người được nữa, nguy hiểm nhất là Mộ Dung Thùy tự mình dẫn quân, đột phá cánh phải của bọn ta, công nhập trận địa, may mà cuối cùng bị ta miễn cưỡng đuổi ra, vết thương bên tay trái của ta, chính là do Bắc Bá Thương của hắn ban tặng.”
Yến Phi và Hướng Vũ Điền kinh ngạc nhìn nhau, đều không tưởng tượng được cuộc chiến đêm qua, lại kịch liệt và hung hiểm như vậy.
Yến Phi hỏi: “Tình hình thương vong thế nào?”
Thác Bạt Khuê đáp: “Bên ta có tám trăm người chết, hai ngàn người bị thương, bất quá phía Mộ Dung Thùy còn thảm hại hơn nhiều, vừa chết vừa bị thương đến năm ngàn người. Ta dám khẳng định trong vài ngày tới, bọn ta không cần lo lắng đến hắn nữa.”
Nói xong nắm tay hai người, đi về hướng Soái trướng, trước tiên giới thiệu Trưởng Tôn Tung và Sở Vô Hạ với Hướng Vũ Điền, tiếp đó nói: “Vô Hạ hãy nhanh chóng bồi tội với tiểu Phi. Vị huynh đệ này của ta là người có tấm lòng quảng đại, chắc là không tính toán chuyện cũ với nàng.”
Sở Vô Hạ khom người thi lễ nói: “Yến gia đại nhân đại lượng, xin hãy thứ cho Vô Hạ tội bất kính trước đây.”
Yến Phi còn có lời gì để nói, chỉ còn cách hồi lễ với nàng.
Hướng Vũ Điền đột nhiên mệt mỏi vặn người, nói: “Ta muốn tìm một chỗ nào nghỉ ngơi cho lại sức, Tộc chủ cùng Yến huynh chắc còn nhiều chuyện phải nói, cho bõ tình cảm lúc cách xa.”
Yến Phi lập tức lạnh cả người, biết rằng Hướng Vũ Điền ngầm nhắc nhở chàng uốn sắt khi hãy còn nóng, đưa ra yêu cầu với Thác Bạt Khuê.
Thác Bạt Khuê tựa như cảm nhận được tâm ý của Hướng Vũ Điền, ngạc nhiên quay sang phía Yến Phi, hỏi: “Phải chăng tiểu Phi có điều muốn nói với ta?”
Yến Phi cười nhăn nhó: “Đúng là như vậy!”
Thác Bạt Khuê vui vẻ nói: “Xin Hướng huynh vào trong tệ trướng nghỉ ngơi.”
Lại quay sang Sở Vô Hạ phân phó: “Nàng phụ trách chăm sóc Hướng huynh nhé.”
Hướng Vũ Điền không một chút khách khí, vỗ vỗ vào vai Yến Phi, theo sau Sở Vô Hạ đi vào Soái trướng.
Thác Bạt Khuê cười: “Bên cạnh Tang Can hà có một nơi được mệnh danh là ‘Tiên nhân thạch’, cảnh trí cực kỳ mỹ lệ, bọn ta hãy ra đó nói chuyện được không?”
Yến Phi gật đầu đồng ý.
Thác Bạt Khuê ngẩng đầu nhìn trời, thở dài: “Đêm nay chắc sẽ là một đêm sao sáng đầy trời. Mang ngựa tới!”
Thân binh theo lệnh mang đến hai thớt chiến mã.
Thác Bạt Khuê nói: “Các ngươi không cần đi theo, có huynh đệ Yến Phi của ta ở đây, bất kỳ tình huống nào bọn ta vẫn có thể nhẹ nhàng ứng phó.”
Nói rồi cùng Yến Phi nhảy lên mình ngựa, theo sườn núi phía bắc giục ngựa phi xuống, đến chỗ nào, cũng làm dậy lên những tiếng reo hò ầm ĩ.
Chú thích:
* Thụ đảo hồ tôn tán: Cây đổ thì khỉ trên cây cũng bỏ đi. Ý thành ngữ này nói khi một thế mạnh sụp đổ thì những người dựa vào nó cũng sẽ bỏ đi. Tạm dịch: “Còn rượu còn tiền còn đệ tử. Hết cơm hết rượu hết ông tôi”.
** Tạm dịch: Nơi quan ở không có việc quan, trong công việc không có việc riêng.
@by txiuqw4