sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 06 - Phần 1

Chương 6. ALFRED ADLER – TÂM LÝ CÁ NHÂN

CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH

1. Dẫn nhập

Tổng thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt, sinh ra bởi Martha và Roosevelt. Bố ở Manhattan vào 27 tháng 10 năm 1858. Ông được coi là một đứa bé trông rất đẹp và khỏe mạnh, một đứa trẻ không có bất cứ một trở ngại nào đáng kể để lớn lên và thành công trong thế giới này. Bố mẹ cậu là người khỏe mạnh, thông minh, đẹp đôi, khá giả. Đáng lẽ ra sẽ là một tuổi thơ êm đềm cho cậu bé này.

Cậu bé ấy được gọi là Teddy, nhưng lớn lên lại chẳng là một đứa trẻ khỏe mạnh. Ông bị hen suyễn nặng, dễ bị trúng gió và thường ho rũ rượi vì cảm lạnh, rồi còn thêm chứng hay bị ói và đi tả. Cậu bé gầy đét và còi cọc. Giọng nói rin rít khò khè cho đến khi đã trưởng thành. Cậu bé trở nên suy đinh dưỡng và thường ngủ gục trên ghế vì bệnh hen suyễn, vài bận cậu suýt chết vì thiếu khí oxi

Bù lại, Teddy là một đứa trẻ hiếu động – có người nói là em hơi quá hiếu động – một cá tính có phần hơi ảo tưởng. Cậu bé rất hiếu kỳ về thiên nhiên và rất thích được dẫn đầu cuộc thám hiểm với các người anh em họ để săn tìm chuột, sóc, rắn, ếch, nhái, và tất cả những gì có thể mổ xẻ và ướp muối. Những lúc bị lên cơn hen và buộc phải nằm ở nhà, cậu bé quay ra ngấu nghiến đọc sách, một sở thích cậu rất có hứng thú trong suốt cuộc đời của mình. Cậu bé tuy bệnh tật nhưng luôn có một khao khát ham sống.

Sau khi đi du lịch khắp châu Âu với gia đình, sức khỏe cậu bé càng tệ hơn. Tuy có cao hơn nhưng cậu rất gầy. Được sự động viên của một bác sĩ gia đình, Roosevelt bố đã khuyên con trai bây giờ đã lên mười hai tuổi nên tập tạ. Giống như mọi đam mê khác, cậu bé lao vào việc tập tạ một cách rất nhiệt tình. Cậu khỏe mạnh hơn, và lần đầu tiên trong đời cả một tháng cậu không hề lên bất cứ một cơn hen nào.

Khi được mười ba tuổi, cậu bé bắt đầu phát hiện ra một khuyết tật khác. Cậu nhận ra rằng mình không thể bắn trúng bất cứ một cái gì với khẩu súng trường do người cha tặng. Bạn bè phải đọc cho cậu nghe những gì viết trên bảng, vì cậu đã không nhận ra bất cứ những gì viết trên ấy. Thế là người ta phát hiện ra cậu bị cận rất nặng.

Cùng năm đó, cậu được gửi về nước một mình sau một cơn hen nặng. Trên đường về cậu bị phục kích bởi vài đứa trẻ cùng tuổi trên con tàu viễn dương. Cậu bé không chỉ tự bảo vệ được mình mà còn dạy cho bọn nhóc ấy một bài học. Thế là sau đó cậu nói với cha là sẽ học quyền anh. Khi chàng trai Theodore vào Đại học Harvard, cậu không chỉ là một sinh viên khỏe mạnh mà Teddy Roosevelt còn đoạt được vài giải thưởng ở các môn thể thao khác nhau.

Phần còn lại lịch sử sẽ viết tiếp. Chàng trai ấy tiếp tục thành công như một viên chức hành pháp của thành phố New York, một chàng cowboy của tiểu bang Nanh Dakota, một sĩ quan cảnh sát của New York, rồi trở thành phụ tá thư ký của Hải quân, Trung tá của nhóm Rough Riders, Thống đốc Tiểu bang New York, sau đó cậu là tác giá có sách bán chạy nhất. Vào tuổi bốn mươi, sau cái chết của Tổng thống William McKinley vào năm 1901, Thoedore Roosevelt trở thành Tổng thống đầu tiên trẻ nhất của Hoa Kỳ.

Vì sao một đứa trẻ bệnh tật như thế có thể trở thành khỏe mạnh, cường tráng năng động và rất thành công? Tại sao nhiều đứa trẻ, khỏe mạnh cũng như yếu ốm vẫn cứ phát triển và thành công, trong khi nhiều đứa trẻ khác cứ èo uột và héo úa. Phải chăng đấy là khao khát của riêng Rooseyelt hay đấy là tố chất tiềm năng trong mỗi người chúng ta? Những loạt câu hỏi này đã thúc đẩy một thầy thuốc ở Vienna tên Alfred Adler, và sau cùng đã thúc đẩy ông phát triển một học thuyết, được gọi là tâm lý cá nhân.

2. Tiểu sử của Alfred Adler

Alfred Adler sinh ra tại một vùng bán thành thị của Vienna vào ngày 7 tháng 2 năm 1870, là con trai thứ hai của một nhà buôn ngũ cốc gốc Do Thái. Từ khi còn bé, Alfređ đã mắc bệnh còi xương, vì thế ông đã không thể đi lại được cho đến năm ông lên bốn tuổi. Khi lên năm tuổi, ông suýt chết vì bệnh viêm phổi. Và cũng ngay từ lứa tuổi này ông đã có quyết định trở thành một bác sĩ.

Alfred chỉ là một học sinh trung bình và thích được rong ruổi chạy chơi ngoài cánh đồng hơn là phải bị ngồi trong lớp học. Cậu bé rất hoạt bát thường thích đi chơi, rất hào hiệp rộng rãi và được mọi người ưa thích. Cậu luôn hiếu động và được coi có nhiều điểm khá hơn người anh tên Sigmund của mình.

Ông tốt nghiệp học vị bác sĩ y khoa từ trường Đại học Vienna năm 1895. Trong thời gian theo đại học, ông liên hệ với một nhóm sinh viên xã hội, trong số đó ông đã tìm thấy người mà ông muốn đám cưới, Raissa Timofeyewna Epstin. Cô gái rất thông minh và cũng là một người hoạt động xã hội rất nhiệt tình. Cô từ Nga đến Vienna du học. Họ đám cưới năm 1897 và rồi họ có bốn người con, hai trong số này về sau trở thành bác sĩ tâm thần.

Ông bắt đầu sự nghiệp ngành y của mình là một bác sĩ khoa mắt, nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang bác sĩ đa khoa. Ông thiết lập văn phòng của mình tại một khu lao động nghèo của Vienna, đối diện với khu vui chơi giải trí công viên Prater. Bệnh nhân của ông bao gồm cả những nhân viên của một gánh xiếc với sức khỏe và các triệu chứng bệnh lý rất khác thường. Khi xem họ biểu diễn, ông đã phát hiện ra những khiếm khuyết của các bộ phận cơ thể và giúp họ cách khắc phục những khó khăn ở nghề nghiệp này.

Sau đó ông chuyển qua hành nghề bác sĩ tâm thần. Vào năm 1097 ông được mời tham gia vào nhóm của Freud. Sau khi đã viết một số bài tham luận về sự khiếm khuyết của bộ phận cơ thể. Ông trình bày nhiều điểm tương đồng với quan điểm của Freud, trong đó ông đề cập đến bản năng phấn đấu nhưng Freud không hoàn toàn đồng ý. Sau đó ông viết về cảm xúc của trẻ em về tình trạng yếm thế, ông gợi ý rằng những gì Freud viết về mảng tính dục nên được coi là mang tính ẩn dụ nhiều hơn là hiểu theo nghĩa đen.

Mặc dù Freud đã mời Adler làm chủ tịch của tổ chức phân tích tâm lý Vienna và là biên tập viên chung cho nội san của nhóm này, Adler vẫn không ngừng việc chất vấn và chỉ trích Freud. Một cuộc thảo luận giữa những người ủng hộ Adler và người theo Freud được ấn định. Nhưng kết quả xảy ra khi Adler và chín thành viên khác của cơ quan này tách ra để thành lập một nhóm riêng cho những người muốn thực hành chuyên môn phân tích tâm lý tự do vào năm 1911. Tổ chức này về sau trở thành trung tâm cho những ai muốn thực hành Tâm lý cá nhân.

Trong Chiến tranh thế giới lần I, Adler phục vụ như một thầy thuốc trong quân đội Áo. Sau đó ông phục vụ tại một bệnh viện nhi đồng. Ông đã chứng kiến những di hại tàn phá của chiến tranh. Từ đó hứng thú của ông bắt đầu chuyển dần sang mảng xã hội. Ông tin rằng nếu nhân loại muốn phát triển, con người cần phải thay đổi đường lối cũ hiện thời.

Sau chiến tranh, ông tham gia vài công trình khác nhau, trong đó bao gồm cả việc sát nhập bệnh viện vào trường học và huấn luyện giáo viên. Năm 1926, ông đến Hoa Kỳ để thỉnh giảng và sau cùng đã nhận lời thỉnh giảng tại Đại học y khoa Long Island. Năm 1934, gia đình ông rời Vienna vĩnh viễn.

Vào ngày 28 tháng 5 năm 1937, trong chuỗi những bài giảng tại Đại học Aberdeen, ông từ trần sau một cơn đau tim.

3. Học thuyết của Adler

Alfred Adler đã trình bày khái niệm động cơ hay là động lực khuyến khích chi phối tất cả những hành vi kinh nghiệm của chúng ta. Khi học thuyết của ông bắt đầu dần lần định hình, ông gọi động lực khuyến khích ấy là quá trình phấn đấu để hoàn thiện. Đó là những đam mê mà tất cả mỗi chúng ta đều có để khai thác những tiềm năng của mình – một quá trình trạng thái tiến đến càng ngày càng gần hơn với trạng thái lý tưởng của chúng ta. Đây là một cảnh giới rất gần gũi với não thức giác ngộ.

Hoàn thiện và lý tưởng là những cụm từ ngữ chúng ta thường nhắm đến nhưng tương đối khó khăn để đạt được trong thực tế. Tuy nhiên đó là những cụm từ ngữ giúp tạo ra những hướng mục tiêu tích cực. Tất cả mỗi chúng ta đều khát khao trở thành hoàn thiện và lý tưởng, nhưng theo Adler thì đây chỉ là khái niệm đạt gần được nhưng không thể hoàn toàn đạt được. Nhiều người đau khổ dằn vặt vì muốn mình trở thành hoàn thiện và lý tưởng. Khiến Horney và Carl Rogers có bàn về hai vấn đề này, tuy Alfred Adler là người chỉ ra những hình thái tiêu cực của chủ nghĩa lý tưởng.

Phấn đấu để đạt được trạng thái hoàn thiện không phải là lần đầu tiên được Adler đề cập đến như một động lực thúc đẩy. Ban đầu ông nghĩ đến động lực ham muốn, vốn là kết quả của những phản ứng khi các xung lực sinh lý như đói bụng, muốn làm tình, làm cho xong công việc, được yêu thương, hoặc những cảm giác bức xúc. Có người cho rằng đây là những xung lực chủ động, vì thuật ngữ động lực ham muốn có vẻ quá sinh lý và tiêu cực: Và cũng chính khái niệm động lực ham muốn này đã tạo ra những lực ma xát giữa Adler và Freud, khi Freud cho rằng khái niệm động lực ham muốn sẽ lôi kéo hết những ý tưởng tập trung vào dục năng trong thuyết phân tích tâm lý của mình. Dù cho Freud không thích lắm, cuối cùng Freud đã phải đưa bản năng được chết vào học thuyết của mình nhưng vẫn không làm cho tình hình sáng sủa thêm.

Adler còn đưa ra khái niệm bù đắp thiếu hụt (compensation) được sử dụng trong học thuyết của mình, hay ông còn gọi đây là phấn đấu để vượt qua trở ngại (strive to overcome). Theo ông, tất cả mỗi chúng ta đều có những vấn đề, những thiếu sót và cả những khiếm khuyết trong nhiều lĩnh vực đời sống. Ban đầu, ông tin rằng nhân cách con người phụ thuộc vào cách con người có thể làm được gì để thay đổi những điều kiện khiếm khuyết thiếu sót của mình. Tuy nhiên ông không ủng hộ việc liệt kê tên đặt những vấn đề khiếm khuyết vì ông không muốn người khác nhìn vào đó và ngộ nhận đấy là những vấn đề do chính họ tự tạo cho mình.

Giai đoạn đầu tiên trong học thuyết của Adler là khái niệm coi trọng phái nam. Trong nền văn hóa ông đã từng sống, các bé trai được khuyến khích phải có một lòng tự trọng thật cao hơn các bé gái. Các bé nam được khuyến khích phải khỏe mạnh, hùng hổ, thuần kiểm soát – những đặc trưng của nam tính. Các em không được mềm yếu ủy mị, thụ động hay lệ thuộc. Những kỳ vọng này đã tạo nên một cái nhìn lệch lạc là phái nam sẽ tốt hơn phái nữ. Vì thế nam giới được giành cho những quyền lợi như quyền lực, cơ hội giáo dục, và những dịp làm nên những điều tốt đẹp mà phụ nữ không cần làm.

Thỉnh thoảng ta vẫn thấy tư tưởng trọng nam khinh nữ này xuất hiện ở nhiều nền văn hóa, nhất là ở nơi những người lớn tuổi Theo đó họ thường nói: Con trai không được khóc. Các bé gái im lặng nhút nhát được khen là ngoan, nhưng một cậu bé im lặng nhút nhát thường được coi là có những biểu hiện yếu kém và tiêu cực. Vì thế những bé trai hiền lành và những bé gái nghịch ngợm khi lớn lên sẽ có những lo lắng vốn gây ra những ảnh hưởng tác động lâu dài.

Adler không tin rằng những động lực chủ động và những khao khát thành công được cài đặt và nằm sẵn bên trong bản thân cá nhân. Theo ông khả năng đó chính là những phản ánh khi đứa trẻ được người lớn khuyến khích bé. Ví dụ như chúng ta thường cản ngăn một bé gái năng động và nghịch ngợm. Theo ông thì các bé nam hay bé nữ đều có khả năng được coi trọng. Song vì nhiều người đã ngộ nhận chủ thuyết trọng nam nên Adler cuối cùng đã giảm hẳn lại hướng khám phá này.

Giai đoạn cuối cùng, trong học thuyết của mình Adler đã đổi phấn đấu để hoàn thiện sang phấn đấu trở thành siêu đẳng. Sau đó Friederich Nietzsche đã xây dựng một triết lý cho rằng đam mê quyền lực là động cơ căn bản của đời sống con người. Phấn đấu để trở thành siêu đẳng ám chỉ về đam mê được trở nên hoàn thiện hơn, và cũng muốn mình làm tốt hơn người khác, chứ không chỉ phấn đấu với riêng mình. Về sau Adler có xu hướng sử dụng phấn đấu trở thành siêu đẳng để chỉ về quá trình phấn đấu không lành mạnh hoặc những phấn đấu mang tính bệnh lý.

4. Khái niệm lối sống

Đây là một khái niệm đã tách Adler ra khỏi thuyết của Freud khi ông nhấn mạnh đến khái niệm lối sống, và cho rằng đây là một mảng lớn của thuyết nhân cách. Thuyết của Freud được các nhà tâm lý cho rằng theo lối phân tích: Freud đã thử nghiệm cả cuộc đời rồi tìm ra những khái niệm để xây dựng học thuyết của mình ở cấp độ sinh lý. Vào thời gian cuối đời của mình, Freud đã thừa nhận mình không thành công, nhưng sau đó nhiều nhà khoa học vẫn sử dụng sinh lý để giải thích những vận hành của con người. Hơn nữa, Freud có xu hướng tạo khung mẫu để con người có thể áp dụng trùng khít với học thuyết của ông xung động vô thức – cái tôi – và siêu ngã.

Adler chịu ảnh hưởng bởi Jan Smuts, một triết gia Nam Phi và cũng là một nhà lãnh đạo chính trị. Smuts tin rằng để hiểu rõ con người, chúng ta phải hiểu họ sống trong bối cảnh rộng toàn diện thay vì chỉ nhìn vào những mảnh vỡ nho nhỏ. Chúng ta cần hiểu họ trong bối cảnh đời sống của môi trường, cả về mặt vật chất lẫn xã hội. Lối tiếp cận này được gọi là đánh giá tổng thể toàn diện. Adler đã tiếp thu khái niệm này rất nhiệt tình.

Trước hết, chúng ta nên nhìn con người như một tổng thể toàn diện thay vì nhìn họ như là một tập hợp của những chiều kích riêng biệt. Adler đã cho rằng học thuyết tâm lý cá nhân của mình đã đem đến cho tâm lý học một nét mới: không thể chia cắt.

Thứ hai, khi nhìn vào nhân cách một con người, chúng ta thường nhìn vào những não thức truyền thống như những đặc tính nội tại, cấu trúc, động năng, những mâu thuẫn nhân cách… Nhưng Adler muốn nói đến kiểu sống (style of life – sau này đổi thành lối sống), được sử dụng để mô tả về cách sống của một con người, cũng như cách chúng ta tiếp cận và xử lý những mâu thuẫn cá nhân và những vấn đề trong cuộc sống. Ông nói: Lối sống là một thân cây cá nhân, trong đó thân cây cá nhân lớn lên và phải tạo dáng để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thiên nhiên. Theo ông chúng ta chỉ có thể nhận diện ra lối sống của mình so với các tiêu chuẩn ứng xử của đời sống xã hội.

5. Hiện tượng hướng thiện

Điểm sau cùng theo Alder: Lối sống không đơn giản chỉ là một cơ năng phản ứng – đây chính là điểm khác biệt của Adler so với Freud. Theo Freud những ký ức trong qua khứ sẽ có tác động lên con người với hồ sơ lý lịch nhân cách hiện tại. Adler tin rằng động cơ là nguồn năng lượng khiến con ngươi ta tiến về tương lai phía trước, chứ không phải được thúc đẩy bởi cơ năng của quá khứ. Chúng ta có khuynh hướng tiến về phía trước có mục đích, những thành công, điều thiện, điều lý tưởng, và đây là quá trình hướng thiện.

Vận chuyển từ quá khứ sang tương lai có những ảnh hưởng rất lớn đến tâm thức của con người. Vì tương lai chưa bao giờ xảy ra, chính nhờ vào khả năng hướng thiện là một dạng động cơ cần thiết để con người vươn lên. Trong mô hình cơ năng truyền thống có liên hệ nhân quả, con người thường đầu tư cố gắng vì lợi nhuận được hứa hẹn. Ví dụ sự kiện A xuất hiện sẽ kéo theo sự kiện B, và tương tự ta có sự kiện C sẽ xuất hiện sau sự kiện B. Theo Adler, chúng ta không nhất thiết phải đợi một kết quả trong tương lai hay một điều gì đó lý tưởng xảy ra để làm những việc tốt đẹp, vì những kết quả này có thể thay đổi trên hành trình cuộc sống. Hướng thiện động viên chúng ta rằng cuộc đời tuy khó khăn bấp bênh, nhưng bao giờ cũng có những cơ hội thay đổi.

Một ảnh hưởng lớn khác đến Adler là triết gia Hans Vaihinger, tác giả của cuốn sách Triết Lý Về Hiện Tượng "Nếu Như”. Vaihinger tin rằng chân lý tối hậu luôn luôn nằm ngoài tầm tay với của con người vì thế chúng ta phải thiết kế cho mình một chân lý mang tính tương đối. Hứng thú chủ yếu của Vaihinger là khoa học nên ông đã sử dụng mô hình hạt nhân và các điện tích, các bước sóng ánh sáng, sức hút trọng lực trong việc thay đổi quỹ đạo di chuyển của các vật thể làm nền tảng minh họa cho những khái niệm của mình. Nhiều người không trang bị bởi kiến thức khoa học căn bản nên họ không nhìn ra. Song những minh họa vật lý về điện tích, bước sóng, lực hút… là những hiện tượng vật lý tuy không nhìn thấy bằng mắt nhưng lại là những cấu trúc rất cụ thể. Và những nhà khoa học đã sử dụng nếu như trong việc tìm tòi và khám phá – đây chính là những hình thái tiểu thuyết của sự thật tương đối thúc đẩy con người đi từ những “nếu như” này sang “nếu như” khác.

Ví dụ nếu ta tự hỏi:

 (1a) Nếu như tôi đi học thì tôi sẽ…

 (2a) Nếu như tôi tốt nghiệp Đại học…

Hoặc (2b) Nếu như tôi không tốt nghiệp…

 (3a) Nếu như tôi muốn đi làm…

(3b) Nếu như tôi không muốn đi làm…

(3c) Nếu như tôi không xin được việc…

 (4a) Nếu như tôi có việc tốt…

(4b) Nếu như tôi bị tai nạn trong lúc làm việc…

(4c) Nếu như tôi có tích lũy…

(4d) Nếu như tôi quen bạn mới…

(4e) Nếu như tôi chẳng gặp may mắn gì trong công việc…

Vaihinger và Adler đã vạch ra rằng chúng ta đã sử dụng những tiểu thuyết nếu như này trong mọi sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Chúng ta đã vận hành và sinh hoạt như thể chúng ta phỏng đoán về tương lai sẽ xảy ra với chúng ta, gồm cả những điều xấu và điều tốt mà chúng ta đang nhìn thấy. Adler gọi đây là hiện tượng sự đóng khung tiểu thuyết. Một ví dụ thường thấy: nhiều người tin rằng tương lai trước mặt của họ sẽ là thiên đàng, và cũng nhiều người tin rằng họ có thể sẽ sống trong địa ngục. Những viễn cảnh này có giá trị ám ảnh họ về một kết quả cuộc sống khả dĩ sẽ xảy ra. Đây là những dẫn chứng của hình thái tiểu thuyết trong cách nói của Vaihinger và Adler.

Vai trò của tính hướng thiện được cài đặt trong não thức con người đã có tác động tích cực lên hiện tượng đóng khung tin tưởng vào tương lai, từ đó ảnh hưởng lên những ứng xử của chúng ta vào thời điểm hiện tại.

Adler cho rằng tại trung tâm điều khiển lối sống mỗi chúng ta, những tiểu thuyết ấy luôn tồn tại. Tiểu thuyết nào quan trọng nhất sẽ là nguồn chất liệu thiết kế nên nhân cách của mỗi chúng ta và nhân cách ấy sẽ hướng dẫn chúng ta ứng xử trong tương lai.

6. Hứng thú xã hội

Khái niệm quan trọng thứ hai trong mảng phấn đấu trở thành hoàn thiện nơi học thuyết của Adler là ý tưởng hứng thú xã hội hay cảm xúc xã hội. Tên nguyên thủy được ông gọi là cảm xúc cộng đồng. Đây là một nét chủ yếu của khái niệm tổng thể toàn diện. Theo Adler thì chúng ta không phấn đấu để hoàn thiện trong thế giới sa mạc riêng của mình. Ngược lại chúng ta phấn đấu trong bối cảnh liên đới với xã hội. Chính động cơ này đã tạo ra những hứng thú xã hội. Giống như những động vật có tính năng xã hội, chúng ta không thể tồn tại đơn độc. Chúng ta càng không muốn phấn đấu khi không có những thành viên khác. Tuy nhiên đôi lúc ở một thái cực khác, do bối cảnh xã hội hà khắc, chúng ta là những sinh thể cạnh tranh gay gắt với những đồng loại của mình.

Adler tin rằng những quan tâm xã hội không phải chỉ riêng bản năng hoặc chỉ được học tập trong cuộc sống. Quan tâm xã hội là kết của cả hai quá trình đến bản năng và học tập. Theo ông quan tâm xã hội được lập trình sẵn bên trong trong mỗi chúng ta, tuy nhiên những bản năng này cần được chăm sóc nuôi dưỡng để có thể phát huy. Nếu không nuôi dưỡng và phát huy, những quan tâm xã hội này sẽ biến mất dần.

Ta có thể nhận thấy có nhiều em bé rất thảo ăn một cách bẩm sinh mặc dù chẳng được dạy. Hoặc nếu như một em bé trong viện mồ côi khóc thì cả phòng sẽ đồng loạt khóc theo. Hoặc khi ta vừa bước vào một căn phòng đông người đang vui cười, ta bất chợt sẽ mỉm cười theo với họ: Đây là những ví dụ của quan tâm xã hội mang tính bẩm sinh.

Và ta cũng nhìn thấy nhiều em nhỏ đã có vẻ ích kỷ ngay từ khi còn rất nhỏ. Mặc dù chúng ta hiểu rõ về kinh nghiệm đau đớn hay bị chọc tức, tuy thế ta vẫn cứ làm những người khác bị tổn thương hay bị chọc tức. Một xu hướng rất chung khi chọn giữa gây thiệt hại cho người khác hay nhận trách nhiệm về phía mình, bản năng tiềm ẩn sẽ dạy chúng ta nên hại người và tránh né trách nhiệm. Vì thế trong nền văn hóa nào người lớn cũng cố gắng cổ xúy tinh thần sống công bằng hoặc sống vì người khác để cân bằng với bản năng ích kỷ này. Đôi khi quyền lợi chỉ là một phần trong cuộc đời, nhiều người muốn quảng bá tinh thần sống vì người khác, tuy nhiên đây là một khái niệm thật khó thực hiện và duy trì liên tục. Vì thế cách lựa chọn tiện nghi nhất vẫn là sự biện hộ cho sự lãnh đạm thờ ơ của mình, trừ phi có những người khác can thiệp và đánh thức lương tâm chúng ta.

Một nhầm lần chúng ta thường mắc phải mà Adler muốn vạch ra là khái niệm hứng thú xã hội và khái niệm hướng ngoại không phải là một. Nhiều nền văn hóa cho rằng hướng ngoại là một nhân cách cởi mở, thân thiện, và xuề xòa. Nhiều người sử dụng kênh tiếp cận này nhưng hành vi của họ thường là phục vụ nhu cầu riêng của mình. Adler nhấn mạnh đến quan tâm xã hội (social concerns) không có một hình thái đặc trưng nào, song đây là những biểu hiện với ý nghĩa rộng lớn hơn, liên đới với người nhà, với cộng đồng, với xã hội, và với cả nhân loại. Quan tâm xã hội mang ý nghĩa cuộc sống của mình có giá trị ý nghĩa và lợi ích tinh thần đối với người khác.

Khi thiếu quan tâm xã hội, Adler gọi đó là tình trạng không lành mạnh của sức khỏe tâm thần: là mầm mống của tất cả những thất bại, bệnh thần kinh, điên, loạn tâm thần, đời sống tội phạm, say sưa, nghiện ngập, trẻ hư, tự tử, hằn học, ganh ghét, mại dâm… vốn là những thất bại vì thiếu hứng thú xã hội. Vì thế mục tiêu thành công của họ chỉ là những thành đạt muốn cao hơn người khác và vinh quang của họ chỉ có ý nghĩa thực dụng riêng đối với bản thân họ.

7. Trạng thái yếm thế

Rất đông trong chúng ta có khuynh hướng nhìn về phía trước nơi có những cảnh giới của đời sống sung mãn, hoàn hảo, giác ngộ, đắc đạo. Tuy nhiên nhiều cá nhân khác – những người thường cho rằng họ thất bại – luôn cảm thấy họ kết thúc trong sự hụt hẫng, trống trải, không được hoàn thiện như họ muốn, không thể sống nhẹ nhàng. Họ cảm thấy tăm tối, ngột ngạt, không thể đạt được giới cảnh bình an và giác ngộ. Đấy là kết quả của thiếu những quan tâm xã hội và những hứng thú đối với xã hội – một hình thái của ích kỷ và chỉ biết quan tâm đến quyền lợi của bản thân mình.

Adler cho rằng nguồn gốc của hứng thú chú ý đến bản thân là kết quả khi cá nhân bị khuất phục bởi tình trang yếm thế của chính cá nhân họ. Khi một cá nhân có tâm thức lành mạnh, họ hòa nhập vào dòng chảy của cuộc đời. Họ thường thực hiện công việc của mình một cách thuận lợi, cảm thấy mình có năng lực. Từ đó họ sẽ nghĩ tốt về những người khác. Nhưng khi cuộc đời đối xử với họ quá hà khắc họ thường có xu hướng đem hết tất cả những quan tâm quay ngược về chính bản thân họ.

Rất hiển nhiên là những người đau khổ vì sự yếm thế đã phản ứng dưới nhiều hình thái khác nhau. Ban đầu trong công cuộc nghiên cứu của mình, Adler nghĩ về sự khiếm khuyết của những cơ quan trong cơ thể, và bằng chứng là trong cơ thể chúng ta có những cấu trúc bộ phận cơ thể phát triển bình thường (hoặc khỏe hơn) những bộ phận khác. Nhiều trẻ em sinh ra với bệnh van tim bị hở, nhiều em có phổi yếu, hai quả thận không làm việc tốt, gan và tụy có vấn đề, bị rặt, sứt môi, mắt lồi, lãng tai, nói ngọng, hay còi xương… Và đây chỉ là một danh sách đơn cử sơ lược.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx