sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 16 - Phần 1

Chương 16. ABRHAM MASLOW HỌC THUYẾT NHÂN CÁCH NHU CẦU, GIÁC NGỘ

CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH

1. Tiểu sử

Abraham Harold Maslow sinh ngày mùng 1 tháng 4 năm 1908 tại Brooklyn, New York. Ông là con trai đầu lòng của bảy người con, cha mẹ của ông là người Do Thái di cư có ít học thức đến từ Nga. Cha mẹ ông đã hy vọng chan chứa về tương lai của đàn con tại Hoa Kỳ nên đã không ngừng thúc giục các con chăm chỉ học tập để thành công. Không bất ngờ lắm, ông trở thành cậu bé đơn độc và vùi đầu vào sách vở.

Để làm vui lòng cha mẹ, ông học Đại học khoa Luật thành phố New York. Sau ba khóa, ông chuyển sang Đại học Cornell, rồi lại trở về New York. Ông đã cưới Bertha Goodman, người em họ gần của mình, chống lại nguyện vọng của cha mẹ. Cuối cùng họ có với nhau hai người con gái.

Sau đó, hai người dọn đến Wisconsin để ông có thể vào học Đại học Wisconsin. Nơi đây ông bắt đầu cảm thấy yêu thích môn tâm lý, và kết quả học tập của ông tiến bộ hẳn lên. Ông cộng tác với Hrry Harlow, người sau này nổi tiếng về thí nghiệm của mình với những chú khỉ thuộc chủng Rhesus bé con, rất thành công trong lĩnh vực hành vi quấn quýt.

Ông hoàn tất cử nhân năm 1930, thạc sĩ năm 1931, và tiến sĩ vào năm 1934, tất cả đều thuộc chuyên ngành Tâm lý thuộc Đại học Wisconsin. Một năm sau khi tốt nghiệp, ông trở lại New York cộng tác với E. L. Thorudike tại Đại học Columbia, ở đó Maslow bắt đầu hứng thú với nghiên cứu về dục tính nơi người.

Sau đó ông chính thức dạy tại Đại học Brooklyn. Trong thời gian này, ông gặp gỡ rất nhiều những học giả Châu Âu di cư đến Hoa Kỳ, nhất là ở Brooklyn vào thời đó như Adler, Fromm, Horney và vài học giả nhóm Hình thái và nhóm Freudian.

Sau đó, ông giữ chức vụ trưởng ban Tâm lý tại Đại học Brandeis từ 1951 đến 1969. Trong thời gian này ông gặp Kurt Goldstein, người đã có tư tưởng về khái niệm giác ngộ trong cuốn sách nổi tiếng Một Cơ Quan (The Organism) xuất bản năm 1934. Cũng tại đây Maslow bắt đầu hành trình xây dựng học thuyết nhân văn học tâm lý – một công trình có tầm quan trọng đặc biệt đối với ông.

Ông trải qua những năm cuối đời mình trong tình trạng vừa làm việc vừa nghỉ hưu tại California cho đến khi qua đời vào ngày 8 tháng 6 năm 1970 do một cơn đau tim sau nhiều năm sức khỏe sa sút.

2. Học thuyết của Abraham Maslow

Một điều thú vị trong những năm đầu tiên của sự nghiệp tâm lý của mình ông phát hiện ra những con khỉ do ông thí nghiệm luôn có một số nhu cầu đặc biệt quan trọng hơn những nhu cầu khác. Chẳng hạn giữa đói và khát, nhu cầu khát phải được ưu tiên trước. Và vì thế nhu cầu khát quan trọng hơn nhu cầu đói. Nếu phải chọn giữa đáp ứng nhu cầu khát và nhu cầu khỏi bị kim chích đau đớn, nhu cầu tránh bị chích kim sẽ cao hơn. Rồi phải chọn giữa chích kim và không khí để thở. Nhu cầu cần được thở sẽ thắng. Còn nhu cầu tính dục xem ra vẫn chưa phải là nhu cầu quan trọng nhất.

Ông nhận ra ý nghĩa áp dụng của khám phá này và xây dựng một hệ thống nhu cầu theo cấp bậc rất nổi tiếng. Trong hệ thống này, ông đưa ra năm nấc thang nhu cầu có nội dung bao hàm hơn, được xếp theo thứ tự từ nhu cầu vật chất cơ bản cần thiết đến nhu cầu tinh thần nâng cao như sau:

1) Tầng nhu cầu sinh lý.

2) Tầng nhu cầu an toàn.

3) Tầng nhu cầu tình cảm và được chấp nhận.

4) Tầng nhu cầu được tôn trọng.

5) Tầng nhu cầu được giác ngộ.

3. Các mức độ nhu cầu khác nhau

– Nhu cầu sinh lý: Ban gồm những nhu cầu về khí oxy, nước uống, chất đạm, muối, đường, canxi và những sinh tố vi lượng khác. Những yêu cầu này giúp cơ thể duy trì một độ pH cân bằng (không quá kiềm và không quá axít), một nhiệt độ ổn định 37 độ C, những nhu cầu vận động, nghỉ ngơi, bài tiết, giữ cho cơ thể ấm áp (khi trời lạnh), mát mẻ (khi trời nóng), tránh thương tật đau đớn. Nhu cầu tính dục sinh sản cũng thuộc nhóm này.

Maslow tin như thế vì kết quả nghiên cứu đã ủng hộ ông đây là những nhu cầu cần thiết của từng cá nhân một. Chẳng hạn như thiếu vitamin C, cơ thể sẽ tìm đến những loại thức ăn có chứa vitamin C. Ví dụ thường thấy ở các phụ nữ trong thời gian mang thai.

– Nhu cầu an toàn: Khi những nhu cầu sinh lý được bảo đảm và đáp ứng đầy đủ, một cá nhân thường có xu hướng đi tìm cho mình một hoàn cảnh sống an toàn ổn định và được bảo vệ. Họ có những nhu cầu mới về trật tự an toàn, nơi sống cần có tổ chức và những quy định giới hạn cụ thể.

Lúc này cơ thể không còn thật sự ưu tư đến chuyện ăn mặc, nhưng có những lo lắng băn khoăn về sự an toàn trong môi trường sống như: khu dân cư an toàn, công việc làm chắc chắn và ổn định. Họ nhắm đến tích lũy cho tương lai ngày mai. Họ lo về thất nghiệp, bệnh tật, tốn kém… nói chung là những nỗi lo vừa có cơ sở và cả những nỗi lo vô căn cứ khác.

– Nhu cầu tình cảm và được chấp nhận: Sau khi nhu cầu sinh lý và nhu cầu an toàn được thỏa mãn, nhu cầu tình cảm và được chấp nhận là nhu cầu kế tiếp. Bây giờ một cá nhân có nhu cầu về một người bạn tình, một vài người bạn thân, xây dựng gia đình, có con cái, được quan tâm và được chia sẻ. Nói khác đi, nhiều cá nhân cảm thấy sợ cô đơn, cảm thấy mình thiếu vắng. Họ có những lo lắng về mặt xã hội. Đây là những ưu tư thường gặp hằng ngày. Chúng ta muốn tổ chức đám cưới, muốn xây dựng gia đình hạnh phúc, tham gia các công việc cộng đồng, đi nhà thờ, tham gia hội đoàn, gia nhập câu lạc bộ, đi chơi công viên, ngay cả việc chúng ta chọn những công việc có cơ hội tiếp xúc với con người.

– Nhu cầu được tôn trọng: ở đây, Maslow chia nhu cầu này thành hai nấc nhỏ hơn: (a) nhu cầu được người khác tôn trọng với những giá trị tinh thần khác như danh dự, địa vị, vinh quang, được công nhận, được chú ý, có những tiếng khen tốt, được đánh giá cao, cả việc được thống trị và điều khiển người khác. (b) nhu cầu cao hơn là nhu cầu tự trọng như niềm tự hào, tự tin, có khả năng, đạt được thành quả, đạt được thành tựu, khả năng độc lập, tự do. Theo Maslow, một khi chúng ta đã có lòng tự trọng, sẽ khó có ai lấy chúng khỏi tay ta được.

Nếu không thỏa mãn được nhu cầu này, một cá nhân sẽ rơi vào trạng thái không có lòng tự trọng (hoặc có nhưng thấp). Họ vướng vào mặc cảm khiếm khuyết. Maslow đồng ý với Adler rằng phải có một nguyên nhân nào đó là cội rễ của những bất ổn về mặt tâm lý. Trong cuộc sống hiện đại, chúng ra không còn phải quá sức lo lắng đến nhu cầu vật chất và nhu cầu an toàn. Chúng ta tương đối bằng lòng với đời sống tình cảm của mình. Tuy nhiên, nhu cầu được tôn trọng đối với một số người xem ra vẫn còn là một vấn đề khó đạt được.

Tất cả bốn nhu cầu vừa nêu trên ông đặt tên là nhu cấu D-needs. Chữ D được viết tắt của chữ thiếu thốn. Có nghĩa là nếu không được thỏa mãn những nhu cầu trên, một cá nhân sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt và các nhu cầu này cần phải được đáp ứng. Khi các nhu cầu D–needs này được thỏa mãn, ta sẽ không còn động cơ nữa và sẽ chuyển dần theo nấc thang cao hơn. Như tục ngữ của người Việt Nam có những câu: Lợn no chê cám. Đói cơm tẻ thèm thịt thèm xôi. Khi no cơm tẻ tôi thôi mọi đàng.

Ông còn nói về những nhu cầu trên qua một khái niệm sinh học hằng định nội môi, một trạng thái tự điều chỉnh để bảo đảm tính ổn định cho những chức năng vận động bên trong của cơ thể, dù cho có sự thay đổi ở môi trường bên ngoài. Khi cơ thể cần một loại vật chất nào đó, tự động sẽ có một sự khao khát, nhưng sau khi cơ thể được thỏa mãn sẽ không còn cảm giác thèm muốn nữa. Điều này giúp cơ thể cân bằng: Không quá thiếu và không quá dư. Tất cả những nhu cầu trên có lối vận hành tương tự như thế, song đôi lúc chúng ta thường không nhận ra.

Maslow tin rằng, tất cả những nhu cầu D–needs trên rất cần thiết cho nhu cầu sinh tồn. Ngay cả nhu cầu tình cảm và được tôn trọng cũng rất cần thiết để duy trì một cơ thể lành mạnh. Ông cho rằng tất cả chúng ta có những nhu cầu này được cài đặt sẵn bên trong qua ngả di truyền học, giống như bản năng vậy. Ông đã đặt tên cho chúng là bán–bản năng (instinctoid – instinct–like).

Nói theo mô hình phát triển, chúng ta trải qua từng cấp độ nhu cầu tương tự như quá trình chúng ta trải qua những giai đoạn phát triển. Khi còn là trẻ sơ sinh chúng ta cần đến nhu cầu sinh lý qua những chăm sóc từ bên cha mẹ. Rồi sau đó các em bé cần có nhu cầu được an toàn. Rồi lớn hơn một chút, ta muốn được người khác chú ý và quan tâm. Lớn hơn nữa, ta có nhu cần được tôn trọng và tự trọng. Những nhu cầu này có thể phát triển trước khi bé biết nói.

Dưới những điều kiện đầy áp lực, hoặc khi những nhu cầu sinh tồn bị đe dọa, chúng ta có thể có xu hướng quay ngược trở lại quá khứ với nấc nhu cầu thấp hơn. Khi ta bị thất nghiệp hoặc bị sa thải khỏi sở làm, ta sẽ quay trở về với trạng thái khiêm tốn hơn trước đó. Khi mất tất cả những địa vị cao sang và rơi vào sa cơ thất thế, chúng ta thường nghĩ đến những bảo đảm kinh tế trước mắt.

Tình trạng này cũng xảy ra trên bình diện xã hội rộng lớn. Khi kinh tế của một khu vực hay một nước có những thay đổi, công dân của khu vực và những quốc gia ấy thường có những biểu hiện lo lắng dưới nhiều cung bậc khác nhau có thể nhận ra rất rõ. Khi chiến tranh xảy ra, người ta nhốn nháo bỏ làng, bỏ phố đi sơ tán. Thiên tai bão lụt bao giờ cũng có những tác động tâm lý nhất định lên những người bị nạn và cả những người sinh sống xa cách với vùng bị nạn.

Maslow đề nghị rằng khi hỏi một cá nhân mô tả về mô hình cuộc sống lý tưởng trong tương lai sẽ cho ta một cái nhìn tương đối chính xác về những nhu cầu nào cá nhân ấy đang thiếu. Vì trong tâm thức chung, chúng ta thường nói về những điều chúng ta chưa có.

Nếu một cá nhân có những vấn đề khó xử hoặc không có những phát triển thuận lợi – nhất là trong lúc thật cô đơn, bị hắt hủi, bị lạm dụng và ngược đãi, đói khát, lo lắng, sợ hãi, cha mẹ li dị, chứng kiến cảnh người thân nằm xuống như vậy cá nhân có thể bị kẹt/khựng trong nhu cầu đó trong suốt cả phần cuộc đời còn lại của mình.

Đây là cách mà Maslow đã nhìn và hiểu về bệnh thần kinh. Ví dụ bạn trải qua kinh nghiệm chiến tranh lúc còn là một đứa trẻ, chứng kiến nhiều tháng ngày đói khát vì khan hiếm thức ăn. Khi có đầy đủ điều kiện, bạn vẫn có thói quen dự trữ thức ăn vì ám ảnh bởi những tháng ngày thiếu hụt. Hoặc nếu một chàng trai chứng kiến cảnh bố mẹ li dị lúc anh còn bé, giờ đây có một người vợ lý tưởng tuy nhiên anh vẫn lo lắng bồn chồn, thầm ghen và lo sợ. Anh chàng cứ u ám với ý nghĩ một ngày nào đó vợ anh sẽ bỏ anh ra đi như bố mẹ anh đã chia tay khi anh còn nhỏ.

– Giác ngộ: Đây là bậc phát triển cuối cùng trong nấc thang nhu cầu. Đã có lần ông gọi đây là động cơ phát triển để đối nghịch với khái niệm động cơ vì thiếu hụt. Có lúc ông gọi đây là B–needs. B là viết tắt của chữ hiện hữu để đối chiếu với D–needs, vốn là nhóm bốn nhu cầu một cá nhân phải thỏa mãn trước khi một cá nhân có thể đạt đến cảnh giới nhu cầu cao nhất này.

Những nhu cầu không liên hệ đến cân bằng hằng định nội môi, là những nhu cầu không bao giờ bão hòa. Khi đạt đến cảnh giới này, một cá nhân luôn cảm nhận được nhu cầu này là rất thật, càng cảm nhận, họ cũng thấy mình sung mãn hơn. Đây là những nhu cầu liên hệ đến cảm xúc khát khao liên tục vươn đến tiềm năng, trở thành trọn vẹn trong ý nghĩa làm người của mình. Đây là nhu cầu thúc đẩy con người trở thành toàn diện, sung mãn nhất. Là khả năng nhận ra chính chân giá trị của mình. Vì thế đây là cảnh giới giác ngộ mà nhiều người còn hiểu qua danh từ đắc đạo.

Cần biết, để đạt được giới cảnh này, trước hết một cá nhân phải không còn ưu tư về cái ăn cái mặc nữa. Họ sẽ không còn quan tâm đến sự an nguy và những nhu cầu tình cảm. Họ sẽ không màng đến danh lợi và không còn quan trọng hóa chuyện mình có được tôn trọng hay không? Theo Maslow, ngày nào một cá nhân còn bị những nhu cầu D–needs chi phối, họ sẽ khó đạt được những nhu cầu B–needs. Đơn giản hơn, ta không thể bước vào giới cảnh cao hơn khi những nhu cầu căn bản thấp hơn chưa được đáp ứng thỏa mãn.

Vì thế, chỉ có một phần rất nhỏ sống trên hành tinh này có thể đạt được giới cảnh giác ngộ một cách trọn vẹn hoàn toàn thật sự. Đã có lúc Maslow đề nghị rằng có vào khoảng chừng 2% trong chúng ta đạt được cảnh giới này.

4. Cảnh giới giác ngộ

Vấn đề được đặt ra là nhiều người không biết Maslow đã lấy tiêu chuẩn nào và muốn ám chỉ điều gì khi giới thiệu khái niệm giác ngộ. Để trả lời cho vấn đề này, ông khuyến cáo hãy quan sát những người đã giác ngộ. Chính Maslow đã giúp chúng ta điều này qua một phương pháp nghiên cứu đặc tính và qua những phân tích tiểu sử lý lịch.

Ông thực hiện bằng cách chọn ra danh sách những nhân vật lịch sử, cùng với những người ông đã gặp gỡ và tin rằng họ đã đạt đến tiêu chuẩn của giới cảnh giác ngộ trong đó có những gương mặt tên tuổi như Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln, Thomas Jefferson, nhà vật lý Albert Einstein, phu nhân Tổng thống Eleanor Roosevelt, nhà hoạt động từ thiện cộng đồng Jane Adams, William James, Albert Schweitzer, Bebedict Spinoza, Aldulous Huxley và mười hai người ẩn danh sống cùng thời gian với Maslow. Khi khảo sát tiểu sử của nhóm người này, đọc những tác phẩm của họ, dựa vào hành động và lời nói của họ, ông xây dựng được một danh sách những đức tính được coi là những cá tính của họ, vốn khác hẳn với một số đông trong chúng ta.

Đây là những cá tính của họ:

– Rất nhạy cảm về thực tiễn, họ có thể phân biệt đâu là giả dối và đâu là thật thà. Họ luôn sống với lẽ thật và cổ xúy giá trị chân lý.

– Rất nhạy cảm về những vấn đề, họ nhìn vào những khó khăn trong cuộc sống như những vấn đề cần giải quyết, họ không coi những khó khăn là những điểm yếu của cá nhân. Họ tin là khó khăn đến từ hoàn cảnh bên ngoài có thể giải quyết được.

– Họ có cái nhìn rất khác về khái niệm phương tiện và kết quả. Họ tin rằng kết quả không nhất thiết để biện bạch cho phương tiện. Đi xa hơn, họ cho rằng chính bản thân phương tiện tự nó đã là kết quả, và phương tiện trong hành trình làm người vẫn thường quan trọng hơn kết quả.

– Họ có những cách rất riêng để tiếp cận và liên hệ với những người khác. Trước hết, họ có sở thích muốn mình có đời sống độc thân lặng lẽ. Họ là những người cảm thấy dễ chịu khi ở một mình. Họ thích có một mối liên hệ sâu lắng với vài người bạn thân, người thân, hơn là quan hệ rộng rãi nhưng hời hợt với nhiều người khác nhau.

– Họ thích đời sống độc lập, với trạng thái tương đối độc lập với những nhu cầu vật chất và nhu cầu xã hội. Họ rất ngại khi phải đối diện với việc bị lôi kéo vào những nơi công cộng. Họ không thích sức ép đời sống xã hội, không dễ dàng hòa nhập hoặc thích ứng. Họ là những người ít chịu phục tùng và thường có cá tính phá cách.

– Họ có một lối khôi hài nhưng không châm chọc. Họ thường nói đùa và đem mình ra diễu đời, hoặc châm biếm những điều kiện cố hữu của nhân loại. Tuy nhiên họ không bao giờ chĩa mũi nhọn lời nói đùa của mình vào bất cứ một nhóm đối tượng nào.

– Họ có một đức tính chấp nhận bản thân mình và tất cả mọi người. Họ sẽ đón nhận bạn như con người của bạn, sau đó họ sẽ thuyết phục bạn một cách khéo léo để bạn trở thành một người tốt hơn. Họ đối xử với bản thân mình cũng như thế.

– Họ chấp nhận biết thay đổi những đặc tính tiêu cực của bản thân nếu những đặc tính này có thể sửa đổi được. Ngoài ra, họ còn là người tự phát và rất đơn giản: Họ muốn mình là con người thật, hơn là phải nói dối và giả tạo. Và vì thái độ phá cách của mình, Maslow tin rằng họ nhìn bên ngoài tuy có vẻ xu hướng truyền thống, trong khi đó họ là những người thường xúc động và xốc nổi.

– Họ có thói quen khiêm nhượng và tôn trọng người khác – Maslow gọi đây là những giá trị dân chủ, có nghĩa họ mở rộng tầm nhìn, có thái độ với mọi nhãn quan, họ chấp nhận mọi thái độ đạo đức và tất cả cách tính khác nhau, ngay cả việc tôn trọng những hình thái tư tưởng lập dị.

– Họ có một đức tính mà Maslow gọi là sự liên đới họ hàng với nhân loại hay còn gọi là khái niệm vì con người. Đây là một tập hợp những đức tính có hứng thú giúp đỡ xã hội chung, có nhiệt tình chung, đầy tính nhân văn, đầy tinh thần trong sáng nhưng không gò bó một cách truyền thống trong những khung tôn giáo.

– Họ là người luôn có những cách mới mẻ biết trân quý và tri ân với cuộc sống. Họ có khả năng nhìn thấy sự việc rất khác, ngay cả với những việc bình thường dung dị bằng con mắt thán phục nên những việc đơn sơ vẫn mang tầm vóc và dáng dấp cao đẹp vĩ đại.

– Họ là những người rất có khả năng sáng tạo, luôn thích thú trong vấn đề muốn phát minh và muốn mình là người đầu tiên trong một lĩnh vực nào đó.

– Sau cùng, họ là người thường trải qua những kinh nghiệm rất sâu hơn những người bình thường, có thể cảm thấy mình rất nhỏ hoặc rất lớn, có lúc họ cảm thấy mình là thiên nhiên và là một phần của Thượng Đế hay những hình thái siêu nhiên khác. Vì thế họ có cảm giác mình sẽ là một sinh thể tồn tại trong khung cảm giác vĩnh hằng. Cảm giác này thường để lại dấu ấn trên cuộc đời của họ, càng làm cho họ trở nên hoàn thiện hơn, càng thúc đẩy họ hăm hở lao vào phục vụ quên mình. Họ là những hiện thân của thế giới kỳ bí, và là mô hình được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và những quan niệm truyền thống.

Maslow không nghĩ rằng cảnh giới giác ngộ là hoàn hảo. Có vài điều không thật sự tích cực lắm ở nơi họ: chẳng hạn họ là người thường có cảm giác lo lắng và mặc cảm, đây là những lo lắng và trạng thái sợ rất thực chứ không phải là những lo lắng vô cớ hay lo sợ có nguồn gốc tâm thần. Vài người có thể rất tử tế song vài người rất thờ ơ lãnh đạm. Đôi lúc họ có những giây phút bất ngờ bùng lên những cảm xúc rất thô tục, lạnh lùng, và mất hẳn đi tính hài hước của mình.

Hai điểm ông nêu lên về những con người đạt được cảnh giới cao nhất này: (1) Những hệ giá trị của họ rất tự nhiên và có vẻ rất dễ dàng trong việc chuyển tải từ khung nhân cách đến với mọi người. (2) Họ là người vượt qua những thái cực mâu thuẫn ví dụ như: tốt–xấu, thiện–ác, đúng–sai, thật–giả, tinh thần–vật chất, ích kỷ–chan hòa… vốn vẫn là những cặp thái cực mà nhiều người khác vướng vào và thường đứng về một thái cực. Họ là những người giác ngộ chấp nhận tất cả những thái cực này.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx