sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 20 - Phần 2

6. Nguồn gốc bệnh lý các bệnh tâm thần

Frankl cung cấp những chi tiết về nguồn gốc của nhiều dạng bệnh lý tâm thần. Ví dụ, lo lắng được thấy do kết tụ của những lo lắng hiện sinh, những châm chọc của lương tâm. Khi một cá nhân không hiểu được nỗi lo lắng của mình đến từ cảm giác không hoàn thành được trách nhiệm và vì tin rằng mình thiếu những giá trị ý nghĩa, nên họ đã đem những lo lắng ấy gán cho những chi tiết khó khăn trong cuộc sống và coi đó là nguyên nhân gây ra những vấn đề. Ví dụ như chứng nghi bệnh, cá nhân mắc hội chứng này thường tập trung quá nhiều về những tín hiệu của cơ thể dẫn đến lo lắng thái quá về những căn bệnh nguy hiểm khác. Những người có nỗi lo sợ vô lý bắt đầu qui về những đối tượng trong quá khứ đã khiến họ lo lắng như rắn, rết, bóng tối. Chẳng hạn như người sợ tiếp cận với đời sống công cộng tin rằng nguy hiểm sẽ đến từ thế giới bên ngoài. Người sợ leo cao sẽ không thích leo cao. Vì thế lo lắng sẽ dẫn đến trạng thái khó chịu và hành vi của họ trở nên rất giới hạn.

Ông nhận xét rằng: Thỉnh thoảng, những căn bệnh thần kinh đã biến một thành viên trong gia đình trở thành một người độc tài. Nhiều người ngang bướng thái quá và tin đấy là cách để họ chứng minh mình đúng khi đối chiếu với người khác hay đối với chính họ.

Hội chứng rối loạn ám ảnh, không cưỡng được: có nguồn gốc hình thành tương tự. Người mắc hội chứng này thường hoang mang khi đi ra khỏi nhà và cứ sợ là mình đã chưa khóa cửa. Họ là những người không có cảm giác mình đã hoàn thành một công việc. Hầu như tất cả mỗi chúng ta bằng lòng với tất cả mọi việc mình thực hiện, chẳng hạn như đóng cửa vào ban tối, hoặc tắt bếp sau khi nấu xong nồi xúp, trong khi đó người có rối loạn ám ảnh không cưỡng được, cần đến một sự chắc chắn tuyệt đối vốn thường rất khó đạt được. Đơn giản là trạng thái luôn cầu toàn và hoàn thiện tuyệt đối là rất khó thực hiện được.

Nhà liệu pháp cần cố gắng giúp thân chủ của mình thư giãn và tránh những cố gắng chống lại các xu hướng trái ngược với tư tưởng và hành vi của họ. Xa hơn nữa, các thân chủ cần được mời gọi trong việc nhận ra những khuynh hướng tính khí tập trung vào não thức cầu toàn khó đạt được của họ. Để từ đó họ sẽ học cách chấp nhận những sự không chắc chắn lắm một chút. Thân thủ được khuyến khích rằng, những lo lắng là kết quả của trạng thái thiếu vắng một ý nghĩa của chính mình (thiếu tin tưởng nơi mình). Mục đính tối hậu của liệu pháp là những hội chứng rối loạn ám ảnh không cưỡng được (vốn là những lo lắng thần kinh) sẽ được giải phóng khi ý nghĩa thực sự được khám phá và khôi phục. Và lúc đó những lo lắng sẽ không còn thật sự cần thiết nữa.

Giống như nhiều nhà tâm lý hiện sinh khác, Frankl tin rằng tầm quan trọng của di truyền và những tác nhân sinh lý có một tác động rất rõ lên nguồn gốc gây ra bệnh tâm thần. Ông tin rằng trầm uất là do cơ thể trải qua tình trạng năng lượng ở mức thấp nhất, một trạng thái triệt tiêu hao mòn những năng lượng sinh lý. Ở cấp độ tâm lý, ông cho rằng trầm uất là những cảm giác không có khả năng bình thường khi chúng ta đối diện với những đòi hỏi vượt quá khả năng xử lý của chúng ta, kể cả khả năng tinh thần và khả năng sinh lý.

Ở cấp độ đời sống tinh thần, Frankl cho rằng trầm uất là tình trạng căng thẳng giữa những cảm giác dằn vặt vì có sự chênh lệch giữa con người yếu đuối cố hữu của một cá nhân và mô hình con người tuyệt đối lý tưởng. Khi mục đích có vẻ không đạt được, anh ta sẽ dễ đánh mất cảm giác về tương lai của chính mình. Theo thời gian, anh ta sẽ cảm thấy ghét bỏ chính bản thân mình, có thể anh ta sẽ hướng cảm giác tiêu cực hằn học ấy lên những người xung quanh và cả nhân loại nói chung. Khoảng cách chênh lệch không bao giờ biến mất kia giữa hiện thực và mô hình cầu toàn đã trở thành một khoảng cách không bao giờ lấp được.

Bệnh tâm thần phân liệt được Frankl hiểu có nguồn gốc đến từ những rối loạn chức năng tâm lý và tình trạng này xảy ra khi cá nhân mất hẳn sợi dây liên lạc với thực tế, vì thế anh ta coi mình là một hay nhiều đối tượng chứ không còn là một chủ thể độc lập nữa.

Hầu như tất cả mỗi chúng ta khi có một ý tưởng sẽ dễ nhận ra chúng đến từ bên hệ thống tâm thức của mình, chúng làm chủ những tư tưởng ấy. Với những người có bệnh tâm thần phân liệt (vì những lý do cho đến bây giờ chúng ta vẫn chưa hiểu rõ hết nguyên nhân) đã bị ép có một cái nhìn tiêu cực về những tư tưởng tiếng vọng trong đầu. Họ nhận ra những tư tưởng tiêu cực như những tiếng nói, họ sẽ quan sát và theo dõi chính họ, cuối cùng dẫn đến không còn tin tưởng vào bản thân của mình nữa. Kết cuộc là họ sẽ có những trải nghiệm thụ động, giống như chuyện họ đang bị theo dõi và sẽ bị đem ra xét xử.

Frankl tin rằng trạng thái thụ động này có cội rễ từ quá trình phóng đại xu hướng tự quan sát mình. Đây là trạng thái khi não thức của bệnh nhân có một sự tách rời bản thân thành hai phần: Mình là người quan sát và đồng thời mình cũng là người bị theo dõi, vì thế phần bản thân đang quan sát trở thành chủ thể có thật và phần bản thân bị quan sát trở thành chủ thể ảo. Hai chủ thể này sẽ tương tác và cá nhân ấy trở nên xa rời với thực tế hiện tại.

Mặc dù liệu pháp ý nghĩa không được thiết lập để đối diện với những trường hợp rối loạn tâm thần nặng, Frankl vẫn có cảm giác rằng liệu pháp này có thể giúp các thân chủ ít nhiều. Chẳng hạn ông tin rằng các bệnh nhân tâm thần phân liệt được khuyên hãy ngưng lại chuyện lắng nghe những tiếng nói trong đầu họ và ngừng hẳn việc quan sát bản thân mình, đồng thời hướng họ đến việc tìm lại những hành vi có ý nghĩa và nhà trị liệu có thể ngăn chặn được vòng khu kỳ tâm thần luẩn quẩn.

7. Đi tìm ý nghĩa

Vậy chúng ta sẽ đi tìm ý nghĩa như thế nào? Frankl thảo luận về 3 hướng chính. Qua những giá trị trải nghiệm, bằng cách chính chúng ta phải trải nghiệm về một điều đó, hoặc về ai đó mà chúng ta rất quan tâm đến. Điều này có thể trải nghiệm như kinh nghiệm cao nhất mà Maslow đã giới thiệu, hay như những trải nghiệm về cái đẹp (từ những tác phẩm của những họa sĩ lớn hay từ những kỳ quan thiên nhiên).

Ví dụ quan trọng nhất của giá trị trải nghiệm là tình cảm chúng ta giành cho người mình thương yêu nhất. Thông qua tình cảm, chúng ta có thể giúp người thân phát triển những giá trị ý nghĩa và thông qua quá trình ấy, chúng ta sẽ giúp mình hoàn thiện những giá trị bản thân. Theo Frankl, tình yêu là mục đích tối hậu và là mục đích cao nhất mà con người có thể khát khao vươn đến.

Frankl chỉ ra rằng trong đời sống hiện đại, nhiều người trong chúng ta đã có những nhầm lẫn về khái niệm và giá trị của tình yêu thật sự. Theo ông, đời sống tình dục không có tình yêu sẽ không khác gì là tình trạng thủ dâm. Đồng thời tất cả những phạm trù khác, khi không có tình yêu sẽ trở thành một dụng cụ được đem ra sử dụng, một phương tiện sinh ra kết quả. Đời sống tình dục chỉ có thể thật sự đạt được tính năng trọn vẹn và sung mãn khi có mặt của giá trị tình yêu.

Tình yêu là quá trình nhìn nhận và quý trọng nét đẹp riêng biệt của người thương bằng một tâm tình hiểu biết rất chân thật. Frankl tin rằng tình yêu thật sự chỉ tồn tại trong bối cảnh quan hệ cố định giữa hai cá nhân hoàn toàn giành cho nhau, không có người thứ ba khác. Đấy phải là một quan hệ một vợ một chồng. Nếu quan hệ thay đổi, đây sẽ là quá trình thay đổi đối tượng chứ không còn là quan hệ gắn bó giữa hai chủ thể.

Cách thứ hai để đi tìm ý nghĩa là qua những giá trị sáng tạo bằng cách làm một cái gì đó có ý nghĩa. Đây là ý tưởng của thuyết Hiện sinh và là phương cách để cung cấp cho mình một cơ hội nhìn thấy mình thông qua việc gắn bó và có trách nhiệm liên hệ với một đối tượng giá trị nào đó trong đời sống của mình. Những việc cần làm để tìm giá trị ý nghĩa của mình có thể về nghệ thuật chẳng hạn như hội họa, làm thơ, tự sáng chế và những việc làm có tính sáng tạo.

Frankl coi sáng tạo là một chức năng của cõi vô thức tinh thần và đây chính là lương tâm. Tính phong phú đa dạng của sáng tạo nghệ thuật chính là trực giác đã cho phép chúng ta nắm bắt được điều thiện. Ông ví dụ:

Một nghệ sĩ vĩ cầm luôn cố gắng kéo đàn hoàn toàn ý thức, điển hình là anh ta sẽ đặt cây đàn lên vai và bắt đầu kéo những động tác kỹ thuật cơ bản, anh ta muốn kéo đàn một cách có ý thức để lột tả được những cung bậc cảm xúc, nhưng điều này sẽ bó buộc và kìm hãm trạng thái xuất thân. Nghệ thuật chỉ đạt được đỉnh cao trong trạng thái xuất thân, đến từ cõi vô thức. Và để người nghệ sĩ tiếp tục biểu diễn thật xuất thần, người ta sẽ phải nói với anh: Anh hãy cứ kéo đàn như ma nhập đi - lúc đó nhạc của anh mới thật sự thoát xác và hóa kiếp!

Cách thứ ba để đi tìm giá trị ý nghĩa là tìm đến với những giá trị thái độ: Đây là những giá trị tinh thần thuộc phạm trù tình thương, lòng can đảm, biết khôi hài, những mất mát, đau khổ... Trong đó Frankl có vẻ rất hứng thú với những nỗi đau đớn của con người và coi đây là một phương cách để tự tìm thấy mình.

Ông đưa ra một câu chuyện: Một vị bác sĩ có một cô vợ trẻ qua đời và anh ta khóc thương thảm thiết. Frankl đã hỏi anh ta: Nếu anh chết trước cô ấy, chuyện gì sẽ xảy ra với cô ấy. Người bác sĩ trả lời: Sẽ rất thảm hại cho cô ấy! Frankl giải thích: Cô ấy chết đi là vừa được giải thoát khỏi điều thảm hại ấy và hiện giờ anh phải trả giá bởi đau khổ và khóc lóc. Nói khác đi, đau khổ là cái giá chúng ta trả cho tình yêu. Người bác sĩ nhận ra rằng suy nghĩ đau buồn về cái chết của vợ và nỗi đau hiện tại của anh đã cho phép anh ta đối diện với hiện thực. Sự đau khổ của anh có một giá trị ý nghĩa mới, lớn hơn chính những giọt nước mắt và tâm tưởng dằm xóc. Với giá trị ý nghĩa, đau khổ có thể chịu đựng được với những giá trị ý nghĩa tinh thần mới.

Ông cho rằng nhiều người có bệnh ung thư nặng đã không có được những cơ hội chịu đau một cách thật can đảm, để từ đó đạt được những giá trị nhân cách. Ta thường nói với họ: Vui lên nào! Hãy can đảm lên! Cứ lạc quan vào nhé! Chúng tôi sẽ chích thuốc giảm đau cho bạn. Và như thế, ta đã vô tình khiến họ cảm thấy nhỏ bé, yếu đuối, ngại ngùng, xấu hổ về sự đau đớn và nỗi buồn của họ. Hãy im lặng! ánh mắt cổ vũ của chúng ta sẽ là người đồng chí trong hành trình can đảm giúp họ cảm nghiệm được giá trị ý nghĩa trong nỗi đau.

Trong cuốn Con Người Đi Tìm ý Nghĩa (Man's Searchinh for Meaning), Frankl đã nói: Tất cả có thể bị tước đoạt khỏi tay con người trừ một thứ: Những giá trị tự do cuối cùng của họ - được chọn cho mình một thái độ trong bất cứ tình huống nào để xử lý vấn đề của mình.

8. Cõi siêu nhiên

Dù sao thì những giá trị vừa thảo luận như: giá trị trải nghiệm, giá trị sáng tạo và giá trị thái độ chỉ là những giá trị trỗi lên trên bề mặt của những khung cơ bản. Theo Frankl còn có nột ý nghĩa khác sâu hơn hay còn gọi là trạng thái siêu nhiên hay được hiểu như vượt qua giới hạn của mình. Và đây là lúc ta nhìn thấy quan điểm tôn giáo trong con người của Frankl đã được uốn cong: Suprameaning là ý tưởng cho rằng còn có một ý nghĩa tối hậu trong đời sống - một ý nghĩa - không phụ thuộc vào người khác, không ăn nhập gì đến những kế hoạch của chúng ta, kể cả phẩm cách của chúng ta. Ý nghĩa này được coi là đến từ Thượng Đế, là ý nghĩa tâm linh.

Chính tư tưởng này đã khiến tính hiện sinh trong học thuyết của Frankl khác với tính hiện sinh tìm thấy nơi Jean Paul Sartre. Sartre và những nhà hiện sinh học vô thần khác cho rằng đời sống hoàn có ý nghĩa chỉ khi nào chúng ta biết cách tìm ra can đảm để đối diện với điều vô nghĩa. Sartre nói rằng chúng ta phải học tập để chấp nhận sự vô nghĩa tối hậu, Frankl thì ngược lại tin rằng chúng ta cần học cách để chấp nhận sự bất lực của chúng ta, để từ đó có thể hoàn toàn hiểu được ý nghĩa tối hậu, bởi vì ý nghĩa tinh thần có giá trị sâu lắng hơn cả lý luận lôgíc rất nhiều.

Tất nhiên kinh nghiệm của Frankl trong trại tập trung đã đưa ông đến những kết luận này: Mặc dù với tất cả những áp lực sinh lý, những chức năng tâm thần nguyên thủy (dù trong trại tập trung) vẫn không ngăn cản đời sống tinh thần có cơ hội phát triển và vươn dậy, trong nhiều trường hợp sẽ trở nên sâu sắc lắng đọng hơn. Họ vẫn có thể co cụm để tránh né những khắc nghiệt của môi trường và bảo tồn trong đời sống nội tâm phong phú, tự do tinh thần. Đây là một tuyên ngôn trái ngược hẳn với cách nhìn của Sigmund Freud, nhất là khi Frankl nhận xét: Tôn giáo là một dạng thần kinh không cưỡng được mang tính toàn cầu của nhân loại.

Có thể hiểu rằng tư tưởng của Frank về tôn giáo và đời sống tinh thần rộng hơn tất cả những người khác. Thượng Đế qua lăng kính của Frankl không phải là Thượng Đế có chân dung như Thượng Đế trong cái nhìn truyền thống. Thượng Đế, theo ông, không phải là Thượng Đế có mẫu số chung cho tất cả mọi người. Càng không phải là Thượng Đế trong những mô hình tôn giáo. Thượng Đế theo Frankl chính là Thượng đế bên trong mỗi con người của một cá nhân, Thượng Đế của trái tim. Ông tin rằng ngay cả những người vô thần hay những người dị giáo và những người hoài nghi về sự hiện diện của Thượng Đế vẫn có thể chấp nhận ý tưởng siêu nhiên mà không cần đến khái niệm Thượng Đế. Có thể đây là lý do khi ông tin rằng:

Khái niệm tôn giáo vô thức: được bày tỏ qua những phân tích mang tính hiện tượng học, được hiểu như những liên hệ có khả năng siêu nhiên được cài đặt sẵn bên trong một con người.

Nếu có người hỏi tiếp, ông có thể trình bày hiện tượng này như một sự liên hệ qua mô hình mối quan hệ giữa bản thân nội tại và một thực thể siêu nhiên đối diện nào đó. Tuy nhiên sẽ có người muốn có một công thức cụ thể về Thượng Đế, ông sẽ đưa ra khái niệm siêu nhiên vô thức, vốn là một khái niệm tin rằng con người luôn luôn đứng trong một liên hệ với trạng thái siêu nhiên một cách không cố ý, thường ở cấp độ vô thức. Và nếu chúng ta cứ cố tình coi tiêu chuẩn không cố ý như một đặc tính của một Thượng Đế trong quan hệ vô thức, Thượng Đế ấy sẽ trở thành Thượng đế vô thức.

Cần chú ý là Thượng Đế vô thức không phải là một nguyên mẫu được nhắc đến trong học thuyết của Jung. Thượng Đế này là một Thượng Đế hoàn toàn siêu nhiên, nhưng mang tính năng cá nhân có liên hệ sâu sắc với con người. Theo Frankl, Thượng Đế tồn tại trong mỗi con người chúng ta, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng nhận ra sự hiện diện của Ngài và đó cũng chính là ý nghĩa tối hậu bên trong mỗi chúng ta. Nếu ngoảnh mặt với Thượng Đế bên trong mỗi chúng ta, đây sẽ là cội rễ của tất cả những bất an và những rối loạn đã được chúng ta đã thảo luận. Theo Frankl: “Một khi vị thiên thần nhỏ bé bên trong mỗi chúng ta bị chèn ép, hắn sẽ nổi loạn trở thành một con quỷ”.

9. Ứng dụng vào liệu pháp

Viktor Frankl được biết đến qua những chi tiết áp dụng trong kinh nghiệm lâm sàng về phương pháp trị liệu trong toàn bộ học thuyết của ông. Kỹ năng đầu tiên được nhắc đến là cố ý nghịch lý được áp dụng trong việc phá vỡ vòng xoáy tâm thần lẩn quẩn, hoặc tấn công vào những lo lắng tự nguyện vốn được nhìn thấy từ trước và não thức cố gắng quá đáng.

Liệu pháp cố ý nghịch lý là hãy ước muốn tất cả những điều ta sợ sẽ xảy ra. Một chàng trai trẻ luôn toát mồ hôi hột mỗi khi anh ta có việc tiếp xúc với đám đông được Frankl nói rằng, hãy cứ tiếp tục ước mình sẽ toát mồ hôi nhiều hơn nữa: Tôi toát một ca mồ hôi và giờ đây tôi muốn mình sẽ toát ra ba ca mồ hôi nữa. Khi nghe thế, người thanh niên trẻ sẽ không làm được. Tuy nhiên đây là cách cố ý gây ra hiệu ứng phá vỡ vòng xoáy tâm thần lẩn quẩn, dù cách này thoạt nghe qua có vẻ rất mâu thuẫn, nhưng được chứng minh là có hiệu quả.

Khả năng tiếp cận một đối tượng vật cản đứng án ngữ giữa ta và cuộc đời hay những lần tự bước ta khỏi phạm vi giới hạn quen thuộc của mình luôn cần đến một khả năng và thái độ hài hước đối với cuộc sống. Theo ông: “Tính khôi hài là vũ khí của tinh thần chống lại những thế lực khác để bảo vệ chính mình”.

Để khắc phục tình trạng mất ngủ, một ví dụ khác được Frankl đưa ra: Bạn đừng lăn lộn trên giường và cố ép mình đi ngủ. Hãy ngồi dậy, hãy cố gắng thức càng lâu càng tốt mà khả năng bạn có thể. Mãi rồi bạn sẽ tự mình leo lên giường và ngủ.

Kỹ năng trong liệu pháp thứ hai là tránh phản tỉnh. Frankl tin rằng nhiều vấn đề có cội nguồn từ việc chúng ta đã nhấn mạnh quá đáng về bản thân chúng ta. Bằng cách chuyển tập trung từ bản thân chúng ta sang nơi người khác, vấn đề thường tự thân nó sẽ biến mất. Chẳng hạn một cá nhân có khó khăn trong sinh hoạt đời sống tình dục của mình vì không có cảm giác thỏa mãn, nếu anh ta cố gắng nhắm đến mục đích đem lại những phút giây thoải mái cho đối tác của mình (chứ không phải vì mình) và quên đi nhu cầu khoái cảm của mình, rất có thể những ưu tư về tình trạng cương cứng dương vật sẽ biến mất, cảm giác thỏa mãn sẽ quay trở lại. Còn nếu cứ tập trung vào bản thân mình, anh ta rất có thể sẽ gặp nhiều nguy hiểm hơn. Hoặc ít nhất anh ta có thể lựa chọn không phải thỏa mãn cho ai cả.

Frankl tin rằng trong xã hội hôm nay, có quá nhiều những tập trung về phản tỉnh cá nhân: Từ những nghiên cứu của Freud, chúng ta được khuyến khích hãy nhìn vào bên trong chính bản thân chúng ta để tìm ra những động cơ sâu nhất cho những hành vi của mình. Frankl tin rằng đây là xu hướng xảy ra khi chúng ta trải qua những trạng thái thần kinh ám ảnh chung.

Frankl tin rằng việc nhìn vào chính mình, đặt quá nặng những tập trung vào bản thân chính là dấu hiệu vấn đề liên hệ tới những nhu cầu đi tìm giá trị ý nghĩa cho mình. Vì thế, những kỹ năng tránh phản tỉnh là bước đầu tiên cho liệu pháp, tuy nhiên đây không hẳn là mục đích của liệu pháp.

Có lẽ nhiệm vụ quan trọng cho nhà trị liệu là giúp đỡ các thân chủ trong quá trình khám phá lại những giá trị tôn giáo đang ngủ đông mà Frankl tin rằng luôn được cài đặt sẵn bên trong mỗi chúng ta. Quá trình này không thể là một quá trình cưỡng bức, tuy nhiên theo ông, tính năng tôn giáo chân thật tiềm ẩn bên trong chúng ta đến một lúc nào đó sẽ tự thể hiện. Sẽ chẳng ai có thể khơi dậy giá trị tôn giáo bằng cách bị thúc ép. Nhà liệu pháp phải tôn trọng thân chủ để họ tự khám phá ra ý nghĩa tôn giáo của thân chủ. Nên cần thiết chú ý đến giá trị tôn giáo ở nghĩa trung dung không nên coi một tôn giáo với giáo lý như vẫn thấy ngoài xã hội. Theo Frankl hãy để cho chính thân chủ tự khám phá ra ý nghĩa tôn giáo theo lăng kính của riêng họ.

Theo Frankl, sự hiện diện của cá nhân - ít nhất trong thời gian không bị tác động bởi những trạng thái nhiễu sóng do khúc xạ thần kinh - luôn luôn hướng đến những giá trị khái niệm tinh thần. Họ quan tâm đến những cá nhân khác bên ngoài khung hiện diện của họ. Đây là cách họ thể hiện ý nghĩa được làm một cái gì cho ai và tiếp cận với người khác qua những kênh tình cảm khác nhau. Frankl gọi đây là quá trình vượt qua chính bản thân mình. Đây là khái niệm khác hẳn với khái niệm đạt cảnh giới giác ngộ. Khái niệm đạt cảnh giới, khoái lạc, hạnh phúc chỉ là những phản ứng phụ của trạng thái vượt qua chính mình và sự khám phá ra ý nghĩa.

Ông đã mượn lời của Albert Schweitzer để nêu lên triết lý của mình: Ai trong các bạn biết tìm ra cách phục vụ người khác là người hạnh phúc nhất.

10. Kết luận

Nếu chúng ta không phải là người có xu hướng tôn giáo, chúng ta vẫn khó né tránh được thông điệp của Frankl: ở đó sẽ tồn tại, vượt qua cả những bản năng và những hệ gien ích kỷ, đàng sau cả những thí nghiệm phản xạ có điều kiện cổ điển, vượt qua những phạm trù văn hóa và sinh học vốn luôn có những áp lực rất rõ, ở đó sẽ có những tồn tại giá trị rất đặc trưng của nhân loại. Đấy là những giá trị đặc trưng riêng biệt của mỗi cá nhân.

Với lịch sử của ngành Tâm lý học và nhìn từ lăng kính khoa học chúng ta đã nhìn thấy những cố gắng của nhiều người trong việc gạt giá trị linh hồn ra khỏi danh sách ngữ vựng chuyên môn. C. George Boeree (2006) tin rằng: Đã đến lúc chúng ta cần đi theo bước của Frankl để khôi phục lại Tâm lý học sau bao nhiêu năm dã bị phân tích, nhất là qua thí nghiệm và mổ xẻ. Phải chăng khoa học đã đi quá xa và quá sâu?

Có thể nói rằng Frankl đã cố gắng đem tôn giáo vào tâm lý, ông đã làm được công việc đó một cách rất tế nhị và khéo léo mà vẫn không tạo ra cơn sốc nào. Thật khó có thể cãi với ông về những gì ông đã trải qua trong cuộc đời của mình. Và tuy nỗi đau đớn mất mát trong tù không thể tự động trở thành bảo chứng cho sự thật, nhưng ông đã lồng tôn giáo vào tâm lý bằng một ngôn ngữ uyển chuyển. Ông đã kêu mời chúng ta hãy đặt hiểu biết của mình về tôn giáo và ý nghĩa sự hiện diện của chúng ta, hoàn toàn không bởi những bằng chứng mà bằng những cảm giác, qua những trực giác và những liên hệ với những ai đã có niềm tin. Đây là một bước đi mạo hiểm và nhiều nhánh tâm lý hiện đại đã xây dựng từ những ý tưởng mang tôn giáo này. Nhất là ta bắt gặp những học thuyết nặng về tôn giáo như học thuyết của Carl Jung và Abraham Maslow.

Frankl, giống như Rollo May và nhiều người khác đã coi mình là những nhà học thuyết Hiện sinh. Nhiều học giả có xu hướng tìm đến gần với mảng tôn giáo cũng đều nghĩ như thế. Một điều thú vị là Kierkegaard đã đặt nền móng cho thuyết Hiện sinh, một khái niệm mà chính ông từ những ngày sinh tiền chưa bao giờ nghe thấy. Và niềm tin, tín lý, những khái niệm ấy yêu cầu mỗi chúng ta hãy từ bỏ sự hoài nghi của mình với Thượng Đế và hãy khiêm tốn trước một định luật nguyên lý vũ trụ nào đó. Nực cười thay chúng ta lại phải quay trở về với những nguyên tắc khái niệm cơ bản nhất của chủ nghĩa hiện sinh. Tôn giáo, kể cả tôn giáo tự do cởi mở – luôn luôn tin rằng điểm trung tâm của những giá trị tinh thần này là cội rễ về sự hiện diện của con người.

Và chủ nghĩa hiện sinh đã không đòi hỏi con người phải chấp nhận những điều rất khó chấp nhận này. Tuy nhiên họ chỉ mời gọi thân chủ trong việc mạnh dạn đi qua một lần trải nghiệm để tìm ra ý nghĩa hiện diện của mình.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx