sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Phần 2 - Bolvangar - Chương 10 - Ông Lãnh Sự Và Con Gấu

John Faa và những lãnh tụ khác đã quyết định sẽ đến Trollesund, cảng chính của Lapland. Các phù thủy có một tòa lãnh sự tại thành phố, John Faa biết nếu không có sự giúp đỡ hay ít nhất là thái độ trung lập thiện chí của họ, sẽ không thể cứu được những đứa trẻ đang bị giam cầm.

Ông giải thích ý nghĩa của mình cho Lyra và Farder Coram vào ngày hôm sau, khi cơn say sóng của Lyra đã hơi giảm. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ và những làn sóng vỗ vào mạn tàu, làm tung lên những làn bọt trắng khi chúng cuộn tròn ra xa. Trên boong tàu, với những làn gió mơn man và cả một đại dương lấp lánh rì rào, cô vẫn cảm thấy hơi bị say sóng. Pantalaimon đang phát hiện sự thú vị khi là một con hải âu, rồi sau đó là một con hải âu petrel bay là là trên những ngọn sóng, Lyra say sưa trước niềm hân hoan của nó đến nỗi cô cảm nhận thấy nỗi buồn của một người đã quen sống trên cạn.

John Faa, Farder Coram và hai hay ba người khác ngồi ở phía đuôi tàu, dưới ánh nắng mặt trời chan hòa, bàn luận xem sẽ phải làm gì sắp tới.

“Vậy là Farder Coram quen biết những phù thủy đó”, John Faa nói, “và nếu không nhầm thì có một giao ước gì đó trong vụ này.”

“Đúng như vậy, John.” Farder Coram nói, “đó là chuyện của bốn mươi năm về trước, nhưng khoảng thời gian đó chẳng là gì đối với một phù thủy. Một số phù thủy sống lâu gấp nhiều lần như thế.”

“Điều gì sẽ xảy ra nếu đồng ý với giao ước này, Farder Coram?” Adam Stefanski, người đàn ông chịu trách nhiệm về quân đội hỏi.

“Tôi đã cứu sống một phù thủy”. Farder Coram giải thích. “Bà ta bị ngã vì có một con chim màu đỏ to đến mức từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy đuổi theo. Bà ta bị thương rồi ngã xuống đầm lầy, tôi đã tìm thấy bà ta. Bà ta gần chết đuối, tôi đưa bà ta lên thuyền và bắn ngã con chim. Nó rơi xuống một bãi lầy, tiếc thật, vì nó to như một con vạc, và đỏ như lửa.”

“À!” những người khác thì thầm, bị cuốn hút vào câu chuyện của Farder Coram.

“Trở lại chuyện tôi đưa bà ta lên thuyền”. Ông tiếp tục kể “Tôi đã bị sốc nặng khi biết người phụ nữ trẻ đó không có nhân tinh”

Điều này đồng nghĩa với việc ông muốn nói “người phụ nữ này không có đầu”. Ý nghĩ này gợi lên cảm giác thật ghê tởm. Những người đàn ông rùng mình, nhân tinh của họ dựng đứng lông lên hay lắc mình hoặc kêu những tiếng chói tai, những người đàn ông vuốt ve chúng. Pantalaimon leo vào lòng Lyra, trái tim họ đập chung một nhịp.

“Ít nhất”, Farder Coram nói, “là cũng có vẻ như vậy. Vì bà ta rơi từ trên trời xuống nên tôi nghĩ bà ta là phù thủy. Chính xác thì bà ta giống một người phụ nữ trẻ, mảnh mai và vô cùng xinh đẹp, nhưng việc không thấy con nhân tinh khiến tôi cảm thấy ghê sợ”

“Vậy là họ có nhân tinh hay không, những phù thủy ấy?” Michael Canzona, một người đàn ông khác hỏi.

“Nhân tinh của họ vô hình, tôi cho là vậy.” Adam Stefanski nói. “Nó vẫn luôn ở đó, nhưng Farder Coram không nhìn thấy nó.”

“Không phải đâu, anh sai rồi, Adam”. Farder Coram nói. “Nó không hề ở đó. Các phù thủy có một sức mạnh để tách chính mình ra khỏi nhân tinh trong một khoảng cách xa hơn chúng ta rất nhiều. Nếu cần họ có thể để nhân tinh của mình lên những tầng mây, trên những ngọn gió hay lặn sâu dưới lòng đại dương. Phù thủy mà tôi gặp này, bà ta vừa nằm trên thuyền chưa đến một giờ đồng hồ thì con nhân tinh bay trở lại, vì nó cảm nhận được sự sợ hãi và đau đớn của chủ, tất nhiên là như vậy. Tôi tin, dù bà ta không bao giờ thừa nhận, rằng con chim lớn màu đỏ đó là nhân tinh của một phù thủy khác đang đuổi bắt bà ta. Lạy Chúa! Điều đó làm tôi run rẩy khi nghĩ đến. Tôi đã làm không biết bao nhiêu điều, tôi đã đi khắp cùng trời cuối đất, nhưng rồi cuối cùng lại ở đó và cứu sống một phù thủy. Dù sao, không nghi ngờ gì về việc tôi đã cứu sống bà ta, và ta rất biết ơn về điều đó. Bà ta nói tôi có thể nhờ đến sự giúp đỡ của bà ta nếu cần. Lần đầu tiên tôi phải gọi đến sự giúp đỡ của bà ta là khi người Skraeling bắn tôi bằng mũi tên tẩm thuốc độc. Chúng tôi còn có những liên hệ khác nữa… Tôi đã không gặp lại bà ta trong nhiều năm, nhưng bà ta sẽ nhớ thôi.”

“Bà ta có sống ở Trollesund không, bà phù thủy này ấy?”

“Không, không. Họ sống trong các khu rừng và trên các lành nguyên, không phải một hải cảng giữa những người bình thường. Công việc của họ là ở những nơi hoang vu. Nhưng ở đó họ có một tòa lãnh sự, và tôi sẽ nhắn cho bà ấy, chắc chắn là như vậy.”

Lyra mong muốn được biết nhiều hơn về các phù thủy, nhưng mấy người đàn ông đã chuyển sang bàn luận về vấn đề nhiên liệu và đồ đạc. Cho đến lúc này cô cũng không thể chờ đợi thêm để đi xem phần còn lại của con tàu. Cô lang thang dọc boong tàu về phía mũi tàu và nhanh chóng làm quen với một thủy thủ lành nghề bằng cách búng những hạt táo cô giữ lại sau bữa sáng vào người ông. Đó là một người đàn ông mập mạp và điềm tĩnh. Khi ông nói tếu táo với cô và cô đáp trả, họ đã trở thành những người bạn tâm đầu ý hợp. Ông tên là Jerry. Với sự hướng dẫn của ông, cô nhận ra nếu làm một việc gì đó sẽ ngăn cảm giác say sóng, dù là việc cọ rửa sàn tàu cũng được, nếu nó được thực hiện theo cách giống như những người thủy thủ vẫn làm. Cô cảm giác rất thích thú với ý tưởng này, từ đó về sau cô gấp tấm chăn trên giường ngủ của mình theo kiểu thủy thủ, xếp đồ đạc của mình trong ngăn tủ giống cách của thủy thủ, và dùng từ “gọn gàng” thay vì “ngăn nắp” giống cách nói của các thủy thủ.

Sau hai ngày trên biển, Lyra đã khẳng định được đây là cuộc sống dành cho cô. Cô điều hành con tàu, từ phòng máy đến cầu tàu, tên cô nhanh chóng được các thủy thủ nhớ đến. Thuyền trưởng Robeky cho cô ra còi báo hiệu với một tàu khu trực nhỏ của Hà Lan bằng cách kéo còi hơi nước; người đầu bếp để cô giúp trộn bột với nho kho; chỉ có lời nói nghiêm khắc của John Faa là ngăn cô không dám leo lên cột buồm ở mũi tàu để quan sát đường chân trời.

Suốt cả thời gian con tàu đi về phía bắc, không khí lạnh thêm từng ngày một. Kho hàng của tàu bị lộn tung để tìm loại vải dầu có thể may quần áo cho cô. Jerry dạy cô cách khâu, một nghệ thuật cô sẵn sàng học từ ông, dù ở Jordan cô rất coi thường và thường không thèm quan tâm mỗi khi bà Lonsdale có ý muốn dạy cô học. Họ cùng nhau khâu một chiếc túi bằng vải không thấm nước để đựng La bàn vàng, như thế cô có thể đeo quanh bụng, phòng khi cô bị rơi xuống biền, cô nói thế. La bàn vàng đã có chỗ để an toàn, cô tung tăng trên lan can nhìn những bụi nước tung trắng xóa trước mũi tàu và loanh quanh trên boong. Thỉnh thoảng cô vẫn cảm thấy say sóng, đặc biệt là khi gió thổi mạnh và con thuyền lắc lư ghê gớm trên đỉnh ngọn sóng màu xanh xám. Lúc đó trách nhiệm của Pantalaimon là làm cô mất tập trung bằng cách biến thành một con hải âu petrel và lướt trên sóng. Như thế cô có thể cảm thấy niềm hân hoan vô bờ bến của nó giữa sóng gió và quên đi cơn say sóng. Rất nhiều lần nó còn thử biến thành một con cá, có lần nó còn hòa vào một đàn cá voi trước sự ngạc nhiên và thích thú của chúng. Lyra đứng run rẩy trên boong trước mũi tàu, cười sung sướng khi Pantalaimon yêu quý của cô, mỡ màng và khỏe mạnh, nhảy lên trên mặt nước cùng nửa tá những chú cá heo màu xám đang lắc lư khác. Đó là niềm vui sướng, nhưng không phải niềm vui sướng thông thường, vì còn có cả sự đau đớn và sợ hãi trong đó nữa. Nhỡ nó thích được làm một chú cá voi hơn thích ở bên cạnh cô thì sao?

Người bạn thủy thủ lành nghề của cô ở gần đó, ông ngừng tay khi chỉnh lại tấm vải bạt che trước cửa hầm chứa hàng để nhìn con nhân tinh của cô bé lướt trên sóng và nhảy lên mặt nước cùng đàn cá heo. Con nhân tinh của ông, một con hải âu đang đậu trên chiếc tời cuốn dây leo, dụi đầu vào cánh. Ông biết cảm giác của Lyra lúc này.

“Tôi nhớ lần đầu tiên ra biển, Belisaria của tôi vẫn chưa cố định ở một hình dạng nào cả. Lúc đó tôi còn trẻ lắm, nó muốn biến thành một chú cá heo. Tôi đã rất sợ nó sẽ biến thành hẳn như vậy. Trên chiếc tàu lần đó có một thủy thủ không bao giờ có thể lên bờ vì nhân tinh của ông ta có hình dáng cố định là cá voi, và nó không thể rời mặt nước. Ông ấy là một thủy thủ tuyệt vời, một nhà đi biển giỏi nhất cô có thể gặp được. Ông ấy có thể kiếm được cả một gia tài bằng nghề đánh cá, nhưng ông ấy không vì thế mà hạnh phúc. Ông ấy chẳng bao giờ thực sự được hạnh phúc cho đến khi chết đi và có thể được mai táng trên biển.”

“Tại sao các con nhân tinh lại phải cố định lại hình dáng?” Lyra hỏi “Cháu muốn Pantalaimon có thể thay đổi hình dạng mãi mãi. Nó cũng muốn thế”.

“À, chúng luôn phải cố định lại, và sẽ là vậy. Đó là một phần của sự trưởng thành. Sẽ đến một lúc nào đó cháu mệt mỏi vì sự luôn thay đổi của nó, và muốn cố định cho nó một hình dạng.”

“Cháu sẽ chẳng bao giờ thế đâu.”

“Ồ, cháu sẽ thế đấy. Cháu sẽ muốn lớn lên như tất cả các cô bé khác. Dù sao, cũng có những đền bù cho sự cố định hình dáng đó.”

“Đó là gì vậy?

“Biết được mình là loại người nào. Lấy Belisaria làm ví dụ. Nó là một con hải âu, và như thế bác cũng là một loại hải âu. Bác không vĩ đại, rực rỡ hay đẹp đẽ, nhưng bác là một thứ đồ già bền bỉ và có thể sống sót ở bất cứ nơi nào, luôn tìm được chút thức ăn cũng như tình bạn. Cái đó đáng để biết lắm chứ, phải vậy không. Và khi con nhân tinh của cháu đã cố định lại, cháu sẽ biết cháu là người như thế nào.”

“Nhưng nếu con nhân tinh của bác cố định lại trong hình dáng bác không thích thì sao?”

“À, nếu thế, cháu sẽ không hài lòng, đúng không? Rất nhiều người muốn có một con nhân tinh là sư tử nhưng cuối cùng nó lại biến ra một con chó xù. Và cho đến khi họ chưa đọc được cách hài lòng với điều mình có, họ sẽ luôn cáu kỉnh vì điều đó. Cũng mất nhiều thời gian đấy.”

Nhưng chẳng có gì là Lyra có thể sẽ trưởng thành lên được.

Một buổi sáng, có thứ mùi lạ trong không khí và con thuyền đang chuyển động một cách kỳ lạ. Nó lắc liên tục từ bên nọ sang bên kia thay vì chúi về phía trước hay chồm lên. Lyra lên boong tàu ngay một phút sau khi thức giấc, nhìn chăm chú về phía đất liền: một cảnh tượng thật lạ lùng; sau khoảng thời gian xung quanh chỉ có nước, vì dù họ mới chỉ ở trên biển được ít ngày, Lyra tưởng như đã hàng tháng trời; ngay phía trước con tàu là một ngọn núi, sườn núi màu xanh còn đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Một thành phố nhỏ và bến cảng nằm dưới chân núi: những ngôi nhà gỗ với mái dốc, một tháp chuông nhà nguyện, những cần cẩu trên cảng, những đám mây chim mòng biển đang bay vòng và kêu ầm ĩ. Mùi nặng nhất là mùi cá, nhưng vẫn pha trộn với những mùi đến từ đất liền: nhựa thông, đất, mùi động vật, mùi xạ hương, và thứ mùi gì đó lạnh lẽo, trống trải và hoang dã: đó có thể là mùi tuyết. Nơi đây có mùi của phương Bắc.

Những con hải cẩu nô đùa quanh tàu, để lộ những khuôn mặt giống các chú hề trên mặt nước trước khi lặn xuống làm nước bắn tung tóe. Làn gió làm tung những ngọn sóng bạc đầu lạnh một cách kỳ lạ, và luồn vào từng khoảng trống trong chiếc áo da sói của Lyra. Tay cô nhanh chóng cảm thấy đau đớn và khuôn mặt cô tê cóng. Pantalaimon, trong hình hài chồn ecmin, giúp cô làm ấm chiếc cổ, nhưng sẽ quá lạnh nếu ở bên ngoài lâu mà không làm việc gì, dù chỉ đơn giản ngắm những con hải cẩu. Lyra đi xuống dưới ăn bữa sáng với cháo yến mạch và nhìn ra ngoài qua lỗ thông hơi trong phòng khách.

Bên trong cảng, nước rất yên. Lyra bắt đầu cảm thấy bứt rứt vì thiếu hoạt động. Cô và Pantalaimon thèm thuồng nhìn xung quanh khi con tàu nặng nề chậm chạp tiến dần vào bến tàu. Suốt một giờ đồng hồ tiếp theo đó, tiếng máy tắt dần đến mức chỉ rì rầm khe khẽ phía sau tàu, những tiếng người hét lên ra lệnh hay hỏi han, những sợi dây thừng tung lên, cầu tàu hạ xuống, cửa hầm tàu bật mở.

“Nhanh lên nào, Lyra”, Farder Coram gọi. “Mọi thứ đã được gói ghém chưa?”

Đồ đạc của Lyra, nếu có thể gọi như vậy, đã được thu dọn ngay từ khi cô thức giấc và nhìn thấy đất liền. Tất cả những gì cô cần làm là chạy đến cabin, nhấc chiếc túi ra, giờ thì cô đã sẵn sàng.

Việc đầu tiên cô và Farder Coram làm khi lên bờ là đến thăm tòa nhà được dùng làm Tòa lãnh sự của Phù thủy. Không mất nhiều thời gian để tìm nó; thành phố bé nhỏ chỉ quay xung quanh bến cảng, nhà thờ và Tòa lãnh sự là bề thế nhất. Tòa lãnh sự của các Phù thủy đặt trong một ngôi nhà gỗ sơn màu xanh lá cây nhìn ra biển. Khi họ gọi cửa, chiếc chuông rung lên chói tai trên con đường yên tĩnh.

Một người hầu dẫn họ đến một phòng khách, mang cà phê ra cho họ. Ngay lập tức ông Lãnh sự thân chinh ra tiếp họ. Ông là một người to béo với khuôn mặt hồng hào và bộ comple đen nhã nhặn, tên là Martin Lanselius. Nhân tinh của ông là một con rắn, màu xanh lá cây nồng nhiệt và sáng lấp lánh giống như mắt ông, đó là điều duy nhất ở ông giống với một phù thủy dù Lyra cũng không chắc theo cô một phù thủy phải trông như thế nào.

“Tôi có thể giúp gì cho ông, Farder Coram?” Ông ta hỏi.

“Có hai việc, thưa tiến sĩ Lanselius. Thứ nhất, tôi đang nóng lòng muốn liên lạc với một bà phù thủy tôi gặp nhiều năm trước, tại vùng Đầm lầy phía Đông Anglia. Tên bà ấy là Serafina Pekkala.”

Tiến sĩ Lanselius ghi chú bằng một chiếc bút chỉ bạc.

“Ông gặp bà ấy lâu chưa?” Ông hỏi.

“Phải được bốn mươi năm rồi. Nhưng tôi nghĩ bà ấy vẫn còn nhớ.”

“Và điều thứ hai ông cần đến sự giúp đỡ của tôi là gì vậy?”

“Tôi đang đại diện cho một số gia đình người Digan có trẻ em bị bắt cóc. Chúng tôi có lý do để tin rằng có một tổ chức đã bắt cóc những đứa trẻ này, những đứa trẻ của chúng tôi và những người khác, rồi mang chúng lên phương Bắc vì một vài mục đích nào đó chưa rõ. Tôi muốn biết liệu ông hay người của ông có nghe nói gì về việc này hay không?”

Tiến sĩ Lanselius từ tốn nhấp một ngụm cà phê.

“Không thể có chuyện không chú ý đến một vài hành động như vậy về phía chúng tôi”, ông nói. “Chắc ông cũng nhận thấy, những mối quan hệ giữa người của tôi với những người phương Bắc là rất khăng khít. Sẽ là khó cho tôi nếu gây phiền phức cho họ.”

Farder Coram nói như thế ông rất hiểu vấn đề.

“Chắc chắn là như vậy rồi.” Ông nói. “Và tôi không cần thiết phải hỏi ông liệu có cách khác để tôi có được những thông tin này hay không. Đó là lý do tôi hỏi về bà phù thủy trước.”

Giờ thì tiến sĩ Lanselius gật đầu như thể ông rất hiểu vấn đề. Lyra theo dõi cuộc nói chuyện với tâm trạng bối rối và thán phục. Có rất nhiều điều ẩn sau từng lời nói, và cô thấy rằng ông Lãnh sự của các Phù thủy đã có một quyết định.

“Rất tốt.” Ông nói. “Tất nhiên, đúng là như vậy, ông sẽ nhận ra là tên ông sẽ không lạ lẫm với chúng tôi, Farder Coram. Serafina là nữ hoàng của một bộ tộc phù thủy trong vùng Hồ Enara. Còn về câu hỏi kia của ông, tất nhiên chuyện này sẽ được hiểu là thông tin đến được với ông không phải qua tôi.”

“Đúng thế.”

“Vậy thì, tại chính thành phố này có một chi nhánh của một tổ chức có tên là Công ty Thám hiểm Phát triển phương Bắc, mục đích hoạt động là thăm dò các mỏ than, nhưng thực chất là được điều hành bởi một Ủy ban Tôn giáo chung nào đấy của London. Tổ chức này, theo như tôi tình cờ được biết, nhập khẩu trẻ con. Điều này không được biết rộng rãi trong thành phố. Chính quyền Norroway không chính thức được biết về điều này. Bọn trẻ không được giữ ở đây lâu. Chúng được đưa đi đâu đó sâu trong đất liền.”

“Ông có biết là ở đâu không, tiến sĩ Lanselius?”

“Không. Nếu biết tôi đã nói cho ông.”

“Và ông có biết chuyện gì xảy ra với bọn trẻ không?”

Lần đầu tiên tiến sĩ Lanselius nhìn sang Lyra. Cô dửng dưng nhìn lại. Con rắn nhỏ màu xanh lá cây ngóc đầu dậy từ cổ áo của ông Lãnh sự và thì thầm lúng búng câu gì đó vào tai chủ.

Ông Lãnh sự trả lời: “Tôi có nghe đến cụm từ Quá trình xử lý Maystadt có liên quan đến vấn đề này. Tôi nghĩ họ dùng cụm từ này để tránh phải nói tên thật của công việc họ làm. Tôi còn nghe thấy từ intercision (Đứa bé bị chia cách nhân tinh), nhưng tôi không thể nói nó nghĩa gì.”

“Hiện nay có đứa trẻ nào trong thành phố không?” Farder Coram hỏi.

Ông vuốt ve lông con nhân tinh trong khi nó ngồi cảnh giác trong lòng ông. Lyra để ý thấy nó đã thôi không kêu rừ rừ.

“Không, tôi nghĩ là không”. Tiến sĩ Lanselius nói. “Một nhóm khoảng mười hai đứa đến đây khoảng một tuần trước và đã chuyển đi vào ngày hôm kia.”

“À! Gần đây như vậy sao? Vậy là chúng tôi còn có chút hy vọng. Họ đi bằng gì, tiến sĩ Lanselius?”

“Bằng xe kéo.”

“Và ông không biết họ đi đâu sao?”

“Rất ít thôi. Đó không phải là vấn đề chúng tôi quan tâm.”

“Đúng vậy. Giờ thì ông đã trả lời tất cả các câu hỏi của tôi một cách thành thật, thưa ông, và chỉ còn một câu nữa thôi. Nếu ông là tôi, ông sẽ hỏi ngài Lãnh sự của Phù thủy câu hỏi nào?”

Lần đầu tiên tiến sĩ Lanselius mỉm cười.

“Tôi sẽ hỏi tôi có thể thuê một con gấu mặc áo giáp sắt ở đâu.” Ông trả lời.

Lyra đứng lên, và cảm thấy trái tim Pantalaimon nảy lên trên tay cô.

“Theo tôi hiểu những con gấu mặc áo giáp sắt phải phục vụ Ủy ban Tôn giáo”, Farder Coram ngạc nhiên nói. “Ý tôi là, Công ty Thám hiểm Phát triển phương Bắc, hay bất cứ tên nào người ta gọi họ.”

“Có ít nhất một con không nằm trong số đó. Ông sẽ tìm được nó tại kho chứa xe kéo ở cuối Đường Langlokur. Hiện nó đang kiếm sống tại đó, nhưng với tính khí của nó và việc dọa dẫm làm lũ chó ở đó sợ, chắc công việc của nó cũng không kéo dài được lâu đâu.”

“Vậy nó có phải là một con phản bội lại đồng loại không?”

“Có vẻ như vậy. Tên nó là Iorek Byrnison. Ông hỏi tôi xem nếu là ông tôi sẽ muốn hỏi câu hỏi gì, tôi đã nói với ông. Và đây sẽ là điều tôi sẽ làm nếu là ông: tôi sẽ chộp ngay lấy cơ hội thuê một con gấu mặc áo giáp sắt, dù nó có ở cách xa đây hơn chăng nữa.”

Lyra khó mà ngồi yên được. Tuy nhiên Farder Coram hiểu nghi thức cho một cuộc gặp mặt kiểu này va nhón lấy một chiếc bánh mật thơm nức từ chiếc đĩa trên bàn. Trong khi ông ăn bánh, tiến sĩ Lanselius quay sang nhìn Lyra.

“Ta biết cháu đang sở hữu một La Bàn Vàng.” Ông nói, trước sự ngạc nhiên ghê gớm của cô, vì cô không hiểu làm sao ông ta biết được điều này?

“Vâng” cô trả lời, và sau đó, bị kích thích bởi cú véo của Pantalaimon, nói thêm “ông có muốn xem không?”

“Ta rất muốn được như vậy.”

Cô không ngần ngại đút ngay tay vào túi chiếc áo khoác da sói và đưa cho ông cái bọc vải nhung. Ông mở nó ra và rất cẩn thận cầm nó lên, nhìn chăm chú vào mặt la bàn như một học giả quan sát một mẫu vật hiếm.

“Thật là tinh xảo!” ông nói, “tôi đã nhìn thấy một cái khác, nhưng không đẹp được bằng cái này. Cháu có sở hữu cuốn sách để đọc nó không?”

“Không” Lyra bắt đầu, nhưng trước khi cô kịp nói điều gì, Farder Coram đã lên tiếng.

“Không, điều đáng tiếc lớn là tuy Lyra sở hữu nó, nhưng không có cách nào để đọc được nó cả.” Ông nói. “Nó cũng bí ẩn như những hồ mực người Hindu dùng để đọc tương lai. Cuốn sách giải thích gần đây nhất tôi biết đang ở Tu viện St Johann tại Heidelberg.”

Lyra có thể hiểu tại sao ông lại nói như vậy. Ông không muốn tiến sĩ Lanselius biết được sức mạnh của Lyra. Nhưng cô còn có thể thấy vài điều Farder Coram không thể, đó là sự kích động của con nhân tinh của tiến sĩ Lanselius, và cô biết ngay rằng không nên giả vờ như vậy.

Vì thế cô nói: “Thực ra thì cháu có thể đọc được” nửa nói với tiến sĩ Lanselius, nửa với Farder Coram.

Và ông Lãnh sự trả lời: “Cháu thật là thông minh”. Ông nói. “Từ đâu mà cháu có được nó vậy?”

“Ông Hiệu trưởng Học viện Jordan tại Oxford đưa cho cháu.” Cô nói. “Tiến sĩ Lanselius, ông có biết ai đã làm ra chúng không?”

“Người ta đồn rằng nó có nguồn gốc từ thành phố Prague”, ông Lãnh sự nói. “Người học giả phát minh ra La bàn vàng đầu tiên lúc đó đã cố tìm ra một cách để đo mức độ ảnh hưởng của các hành tinh, theo các khái niệm của ngành chiêm tinh học. Ông ta định làm ra một thiết bị có thể vận động phản ứng lại các lực hút của Sao Hỏa và Sao Kim như một chiếc la bàn phản ứng lại các lực hút của phương Bắc. Về mặt này ông ta đã thất bại, nhưng bộ máy ông phát minh ra rõ ràng đã phản ứng lại với một vài thứ, dù thậm chí không ai biết đó là thứ gì.”

“Họ lấy các biểu tượng ở đâu ạ?”

“À, đó là vào thế kỷ thứ mười bảy. Biểu tượng và ký hiệu có ở khắp mọi nơi. Các tòa nhà va bức tranh được thiết kế để có đọc được như các cuốn sách. Tất cả mọi thứ đều có thể thay mặt được một thứ gì đó khác. Nếu cháu có được đúng cuốn từ điển cần thiết, cháu có thể đọc được chính cả Tự nhiên. Bởi thế không có gì là đáng ngạc nhiên khi một nhà khoa học sử dụng hệ thống ký hiệu đương thời để diễn đạt những kiến thức có nguồn gốc bí ẩn. Nhưng, cháu biết đấy, chúng đã không hề được sử dụng trong vòng hai thế kỷ hay hơn nữa. ”

Ông đưa trả chiếc máy cho Lyra và nói thêm:

“Ta có thể hỏi một câu hỏi được không? Không có cuốn sách giải thích các biểu tượng, cháu làm thế nào mà đọc được?”

“Cháu chỉ làm cho tư tưởng của mình thật rõ ràng và sau đó là một kiểu giống như nhìn sâu xuống mặt nước. Bác phải để cho mắt mình tìm đúng tầm mức, vì đó là cái duy nhất cần tập trung. Kiểu như vậy.” Cô nói.

“Ta tự hỏi không biết có thể đề nghị cháu làm thử được không?” Ông hỏi.

Lyra nhìn sang Farder Coram. Cô muốn trả lời có nhưng vẫn chờ được ông cho phép. Ông già gật đầu.

“Cháu sẽ hỏi nó vấn đề gì ạ?” Lyra hỏi.

“Người Tartar có ý định gì về vấn đề Kamchatka?”

Câu hỏi không khó. Lyra quay chiếc kim vào con lạc đà, có nghĩa là châu Á, cũng có nghĩa là quân Tartar; vào chiếc sừng dê kết hoa, tượng trưng cho Kamchatka, nơi có rất nhiều mỏ vàng; rồi vào con kiến, có nghĩa là hoạt động, mục đích hay dự định. Rồi cô ngồi yên, tập trung tư tưởng để ghép nối ba mức độ ý nghĩa lại, rồi thư giãn để tìm câu trả lời. Chiếc kim dài rung rinh dịch đến con cá voi, chiếc mũ sắt, đứa trẻ và chiếc mỏ neo, nhảy nhót giữa các biểu tượng đó và về phía nồi nấu kim loại theo một hành trình phức tạp khiến Lyra phải dõi theo không chớp mắt, nhưng lại vô cùng khó hiểu với hai người đàn ông.

Sau khi nó đã hoàn thành việc dịch chuyển nhiều lần, Lyra nhìn lại. Cô chớp mắt một hai lần như thể vừa ra khỏi một đường hầm.

“Họ đang dự định tấn công nơi đó, nhưng chưa thực sự bắt đầu, vì quãng đường xa và họ đã quá mệt mỏi”, cô nói.

“Cháu nói cho ta biết làm thế nào cháu đọc ra được không?”

“Con cá voi, một trong những ý nghĩa tiếp theo của nó là chơi, một dạng vui chơi.” Cô giải thích. “Cháu biết là nó nói đến ý nghĩa đó vì nó dừng lại tại đó sau khi đã quay từng ấy số vòng và cháu nhận thức được ở mức độ đó chứ không phải bất cứ ý nghĩa nào khác. Chiếc mũ sắt có nghĩa là chiến tranh, hai cái đi cùng nhau có nghĩa là họ định gây chiến nhưng không gấp lắm. Đứa bé có nghĩa là… nó nghĩa là khó khăn… quá khó cho họ để có thể tấn công nơi đó, còn chiếc mỏ neo cho biết tại sao, vì họ đã kiệt sức vì đã phải căng mình như một sợi dây treo. Cháu nhìn thấy tất cả như vậy.”

Tiến sĩ Lanselius gật đầu.

“Thật xuất sắc”, ông nói “ Ta rất cảm ơn cháu, ta sẽ không quên được điều này đâu.”

Rồi ông nhìn Farder Coram với ánh mắt kỳ lạ, rồi quay lại nhìn Lyra.

“Tôi có thể hỏi thêm một câu nữa không?” ông nói. “Trong khoảng sân phía sau căn nhà này có rất nhiều cành thông mây treo trên tường. Serafina Pekkala đã dùng một trong số đó, số còn lại thì không. Cháu có thể cho ta biết là cành nào được không?”

“Được chứ ạ!” Lyra nói. Cô luôn muốn thể hiện mình. Thế là cô cầm lấy La bàn vàng và hối hả chạy ra. Cô nóng lòng muốn nhìn thấy cành thông mây, vì các phù thủy cưỡi chúng để bay, và cô chưa từng nhìn thấy chúng trước đây.

Khi cô đã đi khỏi, ông Lãnh sự nói: “Ông có nhận ra đứa bé này là ai không?”

“Nó là con gái của Ngài Asriel.” Farder Coram nói, “mẹ của nó là bà Coulter, người sáng lập Ủy ban Tôn giáo.”

“Ngoài những điều đó ra thì sao?”

Người đàn ông Digan già lắc đầu. “Không”, ông nói, “tôi không biết thêm gì nữa cả. Nhưng nó là một sinh linh vô tội lạ lùng, tôi sẽ không để nó gặp nguy hiểm trên thế giới này. Tôi không thể đoán được tại sao nó đọc được chiếc máy đó, nhưng tôi tin những gì nó nói. Sao ông lại hỏi tôi như vậy, Tiến sĩ Lanselius? Ông biết điều gì về cô bé sao?”

“Các phù thủy đã nói về đứa bé này nhiều năm nay”, ông Lãnh sự nói. “Bởi vì họ sống gần nơi mà bức màn ranh giới giữa các thế giới là rất mỏng, họ nghe được những lời thì thầm bất tử từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua tiếng nói của những người đã vượt qua được ranh giới giữa các thế giới. Họ đã nói về một đứa bé như thế này, nó có một số mệnh phi thường chỉ có thể được thực hiện ở một nơi nào đó, không phải trong thế giới này, mà xa xôi hơn rất nhiều. Không có đứa bé này, tất cả chúng ta sẽ chết. Các phù thủy đã nói như vậy. Nhưng nó phải làm tròn số mệnh này trong tình trạng không hề biết mình đang làm gì, vì chỉ khi nó không biết như vậy, chúng ta mới được an toàn. Ông có hiểu điều đó không, Farder Coram?”

“Không”, Farder Coram nói, “tôi không thể nói là tôi hiểu được.”

“Điều đó có nghĩa là nó không được mắc sai lầm. Chúng ta phải hi vọng nó sẽ không sai lầm, nhưng lại không thể dẫn dắt cho nó. Tôi mừng là có thể nhìn thấy đứa bé này trước khi chết.”

“Nhưng làm thế nào ông nhận ra cô bé là đứa trẻ đặc biệt đó chứ? Và ý ông là gì khi nói về những người đã vượt qua ranh giới giữa các thế giới? Tôi cảm thấy mơ hồ về những gì ông nói, thưa Tiến sĩ Lanselius, vì tôi luôn đánh giá ông là một người trung thực…”

Nhưng trước khi ông Lãnh sự kịp trả lời, cánh cửa bật mở và Lyra đi vào với vẻ hân hoan đắc thắng, tay cầm một nhánh thông mây nhỏ.

“Chính là cành này!” Cô nói. “Cháu đã thử tất cả chúng, và chính là cành này, cháu chắc chắn đấy.”

Ông lãnh sự nhìn kỹ rồi gật đầu.

“Chính xác”, ông nói. “Chà, Lyra, thật là đáng khen. Cháu thật may mắn vì có một chiếc máy như thế này, ta mong rằng cháu sẽ luôn may mắn với nó. Ta muốn cho cháu một thứ để mang theo bên mình đây…”

Ông cầm cành cây lên và bẻ một nhánh nhỏ đưa cho cô.

“Có phải bà ấy đã dùng nó để bay không?” Lyra hỏi, có đôi chút sợ hãi.

“Đúng, bà ấy đã dùng nó để bay. Ta không thể cho cháu cả cành cây được, ta cần nó để liên lạc với bà ấy, nhưng thế này cũng là đủ rồi. Cháu hãy giữ gìn cẩn thận.”

“Vâng, cháu sẽ làm như vậy”, cô nói “cảm ơn ông.”

Cô đặt nó vào chiếc túi bên cạnh La bàn vàng. Farder Coram chạm vào cành thông mây như để lấy may, và trên mặt ông có một vẻ Lyra chưa từng thấy trước đây: vẻ mặt đó gần như sự mong mỏi. Ông Lãnh sự đưa họ ra cửa, bắt tay Farder Coram và bắt tay cả Lyra nữa.

“Tôi hy vọng mọi người sẽ thành công”, ông nói và đứng trước ngưỡng cửa trong thời tiết lạnh giá để nhìn theo họ đi xa dần trong con đường nhỏ.

“Ông ấy biết câu trả lời về người Tartar trước cháu”, Lyra nói với Farder Coram. La bàn vàng nói với cháu như vậy, nhưng cháu không nói ra thôi. Đó quả là một thử thách ghê gớm”.

“Ta cho rằng ông ấy đang thử cháu, cô bé ạ. Nhưng cháu đã đúng khi tỏ ra lịch sự, giả như chúng ta không chắc ông ấy đã biết trước điều gì. Việc mách nước về con gấu cũng rất bổ ích. Ta không biết nếu không gặp ông ấy chúng ta sẽ nghe được về nó từ ai nữa.”

Họ tự tìm đường đến kho chứa xe kéo. Đó là hai nhà kho bằng bê tông giữa một vùng đất nhiều bụi rậm mọc đầy cỏ giữa những khe đá màu xám và những vũng bùn lạnh giá. Một người đàn ông cáu kỉnh trong văn phòng nói cho họ biết họ có thể tìm con gấu khi nó hết giờ làm vào lúc sáu giờ, nhưng họ phải nhanh lên, vì nó luôn đến thẳng chiếc sân phía sau Quán rượu Einarsson, nơi người ta cho nó uống.

Sau đó Farder Coram đưa Lyra đến chỗ người bán quần áo tốt nhất trong thành phố và mua cho cô ít quần áo ấm phù hợp. Họ mua một chiếc áo có mũ trùm đầu làm bằng da tuần lộc, vì lông tuần lộc cắm ẩn trong da và cách nhiệt tốt, còn chiếc mũ được may viền bằng lông chồn gulo, vì nó ngăn những lớp băng người ta tạo ra khi hít thở. Họ mua quần áo lót và vải lót ủng bằng da tuần lộc nhỏ, găng tay lụa để đi bên trong găng tay bằng lông to. Ủng và bao tay làm bằng da chân trước của tuần lộc, vì da ở đó đặc biệt dai. Để ủng được làm bằng da hải cẩu có ngạnh dai như da con mooc, nhưng lại nhẹ hơn. Cuối cùng họ mua một chiếc áo choàng không tay không thấm nước có thể bao trọn cả người cô, làm bằng ruột hải cẩu.

Với tất cả những thứ đó trên người, thêm một chiếc khăn lụa quàng quanh cổ, một chiếc mũ len trùm qua tai và một chiếc mũ chụp lớn phía trước mặt, cô cảm thấy ấm áp một cách vướng víu, nhưng họ đang sắp đến những vùng đất lạnh lẽo hơn thế này nhiều.

John Faa đang trong nom việc dỡ hàng khỏi tàu, rất thích thú trước tin tức từ Lãnh sự của các phù thủy. và còn thích thú hơn khi nghe về con gấu.

“Chúng ta sẽ đến tìm nó ngay tối hôm nay.” Ông nói. “Ông đã bao giờ nói chuyện với một sinh vật như vậy chưa, Farder Coram?”

“Có, tôi từng nói chuyện rồi, và còn đánh nhau với một con, dù không phải là một mình, ơn Chúa. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn tinh thần để đương đầu với nó, John. Nó sẽ đòi hỏi nhiều đấy, tôi không nghi ngờ gì về chuyện ấy, sẽ cáu kỉnh và khó chịu, nhưng chúng ta nhất định phải có được nó”.

“Ồ, chúng ta phải có được nó chứ. Còn về bà phù thủy của ông thì sao?”

“À, chắc chắn bà ấy ở cách xa đây lắm, giờ là nữ hoàng của một bộ tộc phù thủy”, Farder Coram nói “Tôi thực sự hy vọng có thể gửi một thông điệp đến chỗ bà ta, nhưng sẽ là quá lâu để đợi trả lời.”

“À, thế hả. Giờ thì để tôi kể cho ông tôi đã tìm được gì, ông bạn già.”

John Faa đã quá nóng lòng sốt ruột muốn kể cho họ biết vài chuyện. Ông đã gặp một ngườI lái khinh khí cầu, một người Tân Đan Mạch tên là Lee Scoresby, đến từ Texas, người đàn ông này có một khinh khí câu, điều quan trọng là như vậy. Cuộc thám hiểm ông ta đang mong đợi đã thất bại do thiếu tiền ngay trước khi nó rời Amsterdam.

“Hãy nghĩ xem chúng ta có thể làm gì dưới sự giúp đỡ của một người lái khinh khí cầu, Farder Coram!” John Faa nói, xoắn hai bàn tay khổng lồ vào nhau. “Tôi đã mời ông ấy tham gia cùng chúng ta. Với tôi, dường như thần may mắn sắp tới đây gõ cửa rồi.”

“Nhưng còn may mắn hơn nếu chúng ta biết rõ chúng ta sẽ đi đâu” Farder Coram nói, nhưng không gì có thể dập tắt sự hào hứng sắp được vào chiếc dịch một lần nữa của John Faa.

Trước khi màn đêm buông xuống, khi hàng hóa và các dụng cụ đã được gỡ xuống an toàn, nằm chờ đợi trên bến cảng, Farder Coram dắt Lyra đi dọc khu cảng va tìm kiếm Quán rượu Einarsson. Họ dễ dàng tìm thấy nó: một túp lều tồi tàn với ánh đèn neon đỏ chiếu chập chờn trên cửa và những tiếng ồn ào phát ra qua những ô cửa sổ đầy sương đêm.

Một lối đi ghập ghềnh bên cạnh dẫn đến một cánh cổng đi vào sân sau, nơi đó có một túp lều xiêu vẹo nằm ọp ẹp trên sàn đầy bùn đông đặc. Ánh đèn tù mù qua ô cửa sổ quán rượu chiếu sáng một bóng dáng lờ mờ đang nằm ngửa và gặm một chiếc đùi bê bằng cả hai tay. Lyra thấy một chiếc mõm và khuôn mặt nhuốm máu, đôi mắt đen độc ác và bộ lông vàng vàng bẩn thỉu bết lại. Khi nó gặm thịt, tiếng gầm gừ, nhai ngấu nghiến va mút mát ghê rợn vang lên. Farder Coram đứng ngoài cửa và gọi.

“Ioreck Byrnison!”

Con gấu ngừng nhai. Tại khoảng cách đó, nó nhìn họ chằm chằm, nhưng không thể đọc được nét biểu cảm nào trên mặt nó.

“Inoreck Byrnison”, Farder Coram lại nói, “tôi có thể nói chuyện với anh được không?”

Tim Lyra đập mạnh, vì điều gì đó ở con gấu khiến cô có cảm giác gần với sự lạnh lẽo, nguy hiểm, sức mạnh tàn bạo, nhưng là một thứ sức mạnh điều khiển với trí thông minh, không phải trí thông minh của loài người, không có chút gì mang hơi hướng con người ở đây, vì tất nhiên loài gấu không có nhân tinh. Khối to lớn kỳ lạ đang gặm thịt này không giống bất cứ thứ gì cô từng tưởng tượng, cô cảm thấy một sự khâm phục và đáng thương sâu sắc cho con vật cô đơn này.

Nó đánh rơi chiếc đùi tuần lộc xuống đất bẩn va bò bằng cả bốn chân ra cửa. Rồi nó đứng lên một cách hùng dũng, cao đến ba mét hoặc hơn nữa, như thể để thể hiện sức mạnh của mình, để nhắc nhở họ cánh cửa không có tác dụng che chắn gì cả, và nó nói chuyện với họ ở độ cao đó.

“Sao? Các người là ai?”

Giọng nó trầm đến mức như thể làm rung chuyển cả mặt đất. Mùi hôi khét lẹt bốc ra từ cơ thể nó làm người khác gần như bị tê liệt.

“Tôi là Farder Coram, đại diện cho người Digan ở Đông Anglia. Còn cô bé này là Lyra Belacque.”

“Các ngươi muốn gì?”

“Chúng tôi muốn thuê anh làm việc, Ioreck Byrnison.”

“Tôi đã có việc rồi.”

Con gấu thả người rơi xuống và đứng bằng bốn chân. Rất khó để phát hiện được bất cứ sắc thái tình cảm nào trong giọng nói của nó, dù là lạnh lùng hay giận dữ, vì nó quá trầm và đều đều.

“Anh làm gì tại nhà kho xe kéo vậy?” Farder Coram hỏi.

“Tôi sửa chữa máy móc và các bộ phận bằng sắt bị hỏng. Tôi nâng những vật nặng.”

“Panserborne có nghĩa là gì?”

“Là làm việc thuê để được trả công.”

Phía sau con gấu, cánh cửa quán rượu hé mở, một người đàn ông đặt chiếc bình đất nung lớn xuống trước khi ngẩng lên và nhìn họ chằm chằm.

“Ai vậy?”

“Người lạ”, con gấu nói.

Dường như người chủ quán muốn hỏi điều gì nữa, nhưng con gấu bất ngờ đảo người về phía ông ta và người đàn ông vội vã đóng sầm cửa lại. Con gấu cầm lấy quai bình và nhấc nó lên miệng. Lyra có thể ngửi thấy mùi rượu bay ra.

Sauk hi đã nốc rượu nhiều lần, con gấu đặt chiếc bình xuống và quay lại gặm chiếc đùi tuần lộc, dường như không để ý gì đến sự có mặt của Farder Coram và Lyra, nhưng rồi nó lại lên tiếng.

“Các ông đề nghị tôi làm việc gì?”

“Chiến đấu, bằng toàn bộ sức lực”, Farder Coram trả lời. “Chúng tôi đang đi lên phương Bắc cho đến khi tìm được nơi người ta giam giữ một số đứa trẻ. Khi tìm được, chúng tôi sẽ phải chiến đấu để giải thoát cho bọn trẻ, sau đó chúng tôi sẽ đưa chúng trở về.”

“Các ông sẽ trả công cho tôi bằng gì?”

“Tôi không biết nên trả cho anh cái gì, Ioreck Byrnison. Nếu vàng là thứ anh muốn, anh sẽ có vàng.”

“Chẳng có tác dụng gì đâu.”

“Thế tại nhà kho xe kéo người ta trả cho anh bằng gì?”

“Ở đây tôi nuôi sống mình bằng rượu và thịt.”

Rồi con gấu im lặng. Nó thả cục xương gặm nham nhở xuống và nhấc bình rượu lên ngang miệng, uống ừng ực thứ rượu mạnh như uống nước lã.

“Xin thứ lỗi cho câu hỏi của tôi, Ioreck Byrnison”. Farder Coram nói. “Nhưng anh có thể sống một cuộc đời tự do hùng dũng săn hải cẩu và mooc trên băng tuyết, hay anh có thể tham gia chiến tranh với những phần thưởng lớn. Cái gì đã buộc anh lại Trollesund và Quán rượu Einarsson vậy?”

Lyra cảm thấy toàn thân mình run rẩy. Cô cũng đã nghĩ đến câu hỏi tương tự, một câu hỏi gần như là xúc phạm, có thể khiến sinh vật khổng lồ này nổi điên, và cô ngạc nhiên trước sự dũng cảm của Farder Coram khi hỏi như vậy. Ioreck Byrnison đặt bình rượu xuống, đến gần cánh cổng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt ông già. Farder Coram không hề nao núng.

“Tôi biết người các ông đang tìm, những kẻ làm thịt trẻ con”, con gấu nói, “Họ rời thành phố vào ngày hôm kia để lên phương Bắc cùng nhiều đứa trẻ khác nữa. Sẽ không có ai nói cho các người về chúng đâu; họ giả như không biết gì hết, vì những kẻ làm thịt trẻ con mang lại cho họ tiền bạc va công việc. Giờ thì tôi không thích bọn làm thịt trẻ con, vì thế tôi sẽ trả lời câu hỏi của ông một cách từ tốn. Tôi ở lại đây và uống rượu vì những người đàn ông ở đây đã lấy mất áo giáp sắt của tôi, không có nó, tôi vẫn có thể săn hải cẩu, nhưng không thể tham gia chiến tranh; vì tôi là một con gấu mặc áo giáp sắt: chiến tranh là biển để tôi bơi, là không khí để tôi thở. Những người đàn ông trong thành phố này chuốc cho tôi uống say ngủ lịm đi, rồi chúng lấy ao giáp sắt của tôi. Nếu tôi biết chúng giấu nó ở đâu, tôi có thể… tôi có thể xới tung cả thành phố này lên để tìm cho ra. Nếu ông muốn tôi phục vụ ông, tiền công phải trả là: hãy mang trả cho tôi bộ áo giáp. Hãy làm như thế, và tôi sẽ phục vụ các người trong chiến dịch của các người, dù đến khi tôi chết hay các người giành được chiến thắng. Tiền công chính là bộ áo giáp sắt. Tôi muốn có lại nó, rồi tôi sẽ không bao giờ cần đến rượu nữa.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx