sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 23

Con chó nhà Phaya chạy theo Lêa trong lúc nàng dạo chơi. Nàng ngồi nghỉ dưới chân cái giá chữ thập bao quát cả cánh đồng. Trời trong, nắng đẹp, gió lạnh làm ửng hồng đôi má cô gái. Trong chiếc áo choàng rộng, kiểu áo của những người chăn cừu vùng Lăngđơ, nàng ngồi nhìn về phía trước, ánh mắt mơ màng. Ở Xanh- Make, chuông nhà thờ báo buổi lễ cầu kinh chiều kết thúc: hôm nay là chủ nhật. Bỗng con chó ngửng đầu lên, vẻ chăm chú rồi đứng vụt dậy, gầm gừ.

- Gì thế, Cuôctô?

Chó sủa lên một tiếng rồi chạy ra phía đường con đường mòn. "Chắc hẳn thỏ hay chuột đồng". - nàng nghĩ bụng. Nàng lại đắm chìm trong cơn mơ màng.

Bỗng một viên đá lăn gần nàng. Lêa quay đầu. Nàng đứng vụt dậy.

- Bác Ađriêng!

- Lêa!

Hai bác cháu sung sướng ôm chầm lấy nhau.

- Ôi dào! Lêa tới đây, bác không ngờ đường dốc đến thế. - Ađriêng vừa nói vừa ngồi xuốn thảm cỏ, hổn hển - Không biết có phải vì tuổi tác không? - Ông nói thêm và vén tà áo lên.

- Bác làm gì ở đây? Bác tới từ bao giờ?

- Bác vừa mới tới và tìm cháu. Bác mừng gặp được cháu ở xa nhà để nói với cháu một điều cần nói.

- Về Lôrăng hả bác?

- Không, không phải về Lôrăng đâu. Cậu ta khỏe mạnh... ít nhất thì cũng như thế trong lần bác gặp cậu ta mới đây.

- Bác mới gặp anh ấy?... Vậy ra anh ấy lại đang ở Pháp?

- Đúng, từ Luân Đôn, cậu ta bay về và nhảy dù xuống.

- Anh ấy hiện ở đâu?

Ađriêng không đáp.

- Cami đã biết chưa, bác?

- Có lẽ chưa. Cháu nghe kỹ lời bác đây, Lêa. Bác biết cháu vẫn tiếp tục làm người đưa thư giữa hai vùng, và tất cả những người vẫn còn hy vọng đều biết chiếc xe đạp màu xanh là của cháu. Đã nhiều lần cháu tỏ ra không thiếu lòng dũng cảm và tinh thần tỉnh táo. Bác muốn giao cho cháu một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Bác có thể bị tóm và cần đi vào vùng tự do! Bác cần chuyển một bức thư đến Pari. Cháu sẽ đi thay bác.

- Cháu à?

- Đúng, cháu. Mai, cháu sẽ nhận được thư của bà Anbectin yêu cầu cháu tới giúp bà ấy chăm sóc bà chị.

- Bà Lida ốm hả bác?

-Không, bức thư giả đấy thôi, nhưng cháu cần có một lý do xác đáng để đi. Mai, cháu sẽ đáp chuyến tàu đêm. Cháu đi vé hạng nhì. Vé của cháu đây. Đến Pari, từ nhà ga, cháu sẽ gọi điện cho hai bà cô cháu. Cháu phải chú ý điều cháu nói với họ. Sau đó cháu đi mê trô và đi qua đường phố Bac để đến phố Đại Học.

- Nhưng...

- Bác biết, đó không phải là con đường ngắn nhất, nhưng cháu cứ phải đi theo đường ấy. Gặp hai bà cô, cháu phải nói thế nào đấy để giải thích việc cháu đến. Nếu bà Lida có thể nằm vài ngày trên giường bệnh thì tuyệt vời. Buổi chiều, cháu sẽ đi dạo chơi trong khu phố, ngắm nhìn tủ kính ở các cửa hàng, mua sắm một ít thứ ở chợ. Lúc trở về, cháu đi qua trước hiệu sách Galima, đại lộ Raxpay. Cháu biết chứ?

- Biết ạ.

- Cháu sẽ nhìn trước mặt cửa hàng rồi đi vào. Cháu sẽ giở những cuốn sách bày bán trên mặt bàn trước mặt người thủ quỹ, nhìn vào giá sách, rồi dừng lại ở chữ P như Prux, cháu cầm lấy tập 2 cuốn Tìm lại thời gian đã mất. Bên trong sách, cháu sẽ thấy một tờ quảng cáo của nhà xuất bản N.R.E giới thiệu sách mới. Cháu sẽ thấy nó có dày hơn chút ít những tờ quảng cáo người ta thường đặt trong sách. Cháu sẽ dùng tờ quảng cáo này của bác thay thế tờ ấy.

Lêa cầm lấy tờ giấy màu xanh nhạt trên đó có in các đầu sách.

- Tờ này cũng dày, thưa bác.

- Đúng. Nó chứa đựng một thông điệp tuyệt đối phải được truyền đi. Sau đó cháu bỏ lại cuốn sách lên giá và lấy ở cạnh đấy bất kỳ cuốn sách nào của nhà xuất bản Gamila, rồi đến quỹ trả tiền.

- Chỉ có thế hả bác?

- Không. Cháu sẽ đi vào hiệu sách lúc năm giờ đúng, mười lăm phút sau, cháu sẽ ra về. Có lẽ vì lý do này hay lý do khác, cháu sẽ không đổi được tờ quảng cáo. Nếu thế thì hôm sau cháu đến lại lúc mười một giờ. Nếu vẫn bị trở ngại thì cháu trở về phố Đại học, ở đấy, chúa sẽ nhận được chỉ thị mới. Cháu rõ chứ?

- Vâng, thế còn tờ quảng cáo kia, thì làm thế nào?

- Bỏ nó trong cuốn sách cháu sẽ mua. Hôm sau. Nếu mọi cái trôi chảy thì cháu đi xem bộ phim Chúng tôi, những đứa trẻ của Lui Đacanh chiếu ở phòng chiếu bóng trong công viên Elide, buổi hai giờ chiều. Cháu sẽ ngồi ở hàng ghế trước hàng cuối cùng một dãy, sát lối đi chính giữa. Trước khi hết phim, cháu chuồi tờ quảng cáo xuống ghế rồi đi ra. Nếu không thì cháu làm như vậy vào buổi chiều bốn giờ. Hai ngày sau đó, cháu đến bảo tàng Grêvin lúc ba giờ. Khi cháu đến trước bức vẽ chân dung hoàng tộc ở Tămlơ, sẽ có người đến gặp cháu và nói: "Chúng ta không vào rừng nữa.", cháu sẽ đáp: "Nguyệt quế đã bị chặt". Người đó sẽ đánh rơi một tập ảnh về bảo tàng, cháu nhặt lấy và người đó sẽ bảo cháu: "Cô giữ lấy, có thể có ích cho cô đấy". Cháu cảm ơn và tiếp tục đi xem bảo tàng, thỉnh thoảng lại giở tập ảnh ra ngắm.

- Sau đó?

- Sau đó, cháu trở về nhà hai bà cô. Ngày hôm sau, cháu sẽ đạp chuyến tàu đi Limôgiơ. Ở ga Viecgiông, hành khách sẽ bị kiểm soát. Đến Llimôgiơ, cháu đưa va li vào phòng gửi hành lý. Ở ga ra, cháu đi tàu điện và xuống ở quảng trương Đơni-Duytxu. Ở đấy có rạp chiếu bóng Olanhpia. Ở ngã ba quảng trường và đường Victo Huygô, có một hiệu sách. Cháu đến gặp một phụ nữ to lớn, khoảng sáu mươi tuổi mặc blu màu xám, cháu hỏi bà ấy đã nhận được cuốn Bí mật thành Pari của Ơgen Xuy chưa. Bà ấy sẽ trả lời bà chỉ có cuốn Bí mật thành Luân Đôn của Pôn Phêvan. Bà ấy sẽ đưa cho cháu một cuốn, cháu chuồi tập ảnh bảo tàng Grêvin vào trong đó. Cháu trả lại sách cho bà ấy và xin lỗi vì cháu không thích mua. Ở hiệu sách ra, cháu đi theo đường Ađriêng- đuy-Busê bên tay phải cháu, rồi vào nhà thờ Xanh Misen-đê-Liông, trước sân nhà thờ có tượng sư tử đá trên lối ra vào. Cháu đi vòng quanh nhà thờ, và có thể vừa đi vừa cầu kinh. Ở nhà thờ ra, cháu đi dọc theo đường Gác chuông, đi qua trước khu triển lãm và khách sạn Trung tâm ở quảng trường Giuôcđanh. Cháu đi dọc công viên rồi quặt sang đại lộ Nhà ga. Lúc đó khoảng năm giờ chiều. Đến năm rưỡi, cháu đáp tàu đi Boócđô. Bác Luych chờ cháu ở Bóocđô. Cháu ngủ đêm ở nhà bác. Bác ấy không hay biết gì đâu. Bác ngỡ cháu đến chăm sóc bà cô cháu. Sáng hôm sau, cháu trở về Môngtiac và gắng quên hết tất cả mọi chuyện. Cháu đã hiểu rõ chưa.

- Có lẽ cháu hiểu rồi.

- Cháu nhắc lại xem.

Lêa nhắc lại đúng những điều cần nói và cần làm.

- Về nguyên tắc, mọi việc sẽ trôi chảy. Lúc đi qua đường giới tuyến, cháu đừng sợ, giấy tờ của cháy đều hợp lệ. Nếu có những cuộc kiểm tra bất thần, cháu cũng đừng hoảng hốt. Nếu ở Pari có vấn đề gì nghiêm trọng thì cháu hãy gọi hay báo tin cho Phrăngxoa Tavecniê...

- Phrăngxoa Tavecniê hả bác?...

- Đúng thế, cháu còn nhớ chứ: cháu đã gặp ông ta hôm lễ đính hôn của Lôrăng và Cami ấy mà.

- Bác tin ông ta?

- Cái đó còn tùy vào công việc. Có người bảo ông ta theo Đức, có người lại nói ông ta là nhân viên phòng nhì. Kệ họ muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Bác biết khi nào thì bác cần đến ông ta. Vậy nếu có gặp khó khăn gì, cháu cứ gọi ông ta.

Lêa rùng mình.

- Cháu bị lạnh đấy. Bác để cháu đứng bất động mãi thật điên rồ. Cháu đứng dậy đi, không bị ốm đấy. Không nên ốm vào lúc này.

Về nhà, hai bác cháu gặp mọi người đang uống sôcôla và ăn một chiếc bánh bơ to tướng trước lò sưởi đốt củi gỗ, trong phòng khách.

- Phong lưu quá nhỉ! - Ađriêng cất tiếng khi vừa bước chân vào.

- Nhờ có Phrăngxoa đấy. - Becnađet Busactô đáp. Một người bệnh biếu nó những thứ tuyệt vời này để cảm ơn.

Vừa nhấm nháp cốc sôcôla, Lêa vừa thỉnh thoảng nhìn chị gái với một ánh mắt lo ngại. Nàng có nên thổ lộ mối ngờ vực trong lòng với bác Ađriêng không?

Mọi việc diễn ra theo đúng dự kiến của Ađriêng. Hai bác cháu cùng đáp tàu lửa đi Boócđô, và không quay đầu lại, nàng bước một mình lên chuyến tàu đi Pari.

Rất vui mừng được gặp lại cháu, hai chị em bà Môngplêynet không ngạc nhiên gì lắm việc nàng tới thăm. Họ càng vui mừng khi Lêa lấy từ va li ra một đùi giăm bông, một tá trứng và một cân bơ. Bà Lida vốn háu ăn mừng đến chảy nước mắt. Đến bà Anbectin rất kiêu hãnh cũng có vẻ xúc động. Còn Exten thì vừa hôn lên hai má Lêa vừa gọi tíu tít "cô bé tốt bụng", trước khi mang xuống bếp những của quý đó, chẳng khác một chàng trai biển lận mang vàng bạc đi giấu.

Ba người đàn bà vui vẻ ăn món cháo loãng, mấy củ khoai tây nhỏ xíu và một chút giăm bông.

- Không có cháu thì hai bà chỉ có bữa ăn đạm bạc như thế này thôi1 - Bà Lida nói trong tiếng thở đài, miệng còn nhồm nhoàm.

- Em ơi, đừng phàn nàn làm gì, có những người còn khổ hơn chúng ta. Nhờ còn ít tiền dự trữ, thỉnh thoảng, chúng ta còn mua được thịt hay gà vịt ở chợ đen kia mà.

- Đúng thế, nhưng chúng ta sẽ không còn bao giờ được ăn bánh ngọt nữa.

Ý nghĩ trẻ thơ ấy khiến Anbectin và Lêa bật cười.

Ăn trưa xong, Lêa xin phép đi đạo phố một vòng.

Ra khỏi tàu điện ngầm, Lêa không chú ý gì tới xung quanh. Tới đại lộ Xanh-Giecmanh, nàng mới nhận thấy bầu không khí im ắng ở đấy: không có xe hơi, chỉ có vài chiếc xe đạp hay xe máy, lác đác mấy người đi bộ và một chiếc Mecxêxđe bóng lộn, trong xe, hai sĩ quan Đức ngồi ôm hai cô gái tóc vàng rực mặc áo măng tô. Lêa nhìn theo chiếc xe và khép chặt vào người chiếc măng tô mỏng manh của mình. Nàng ân hận không bận chiếc quần của Clôdơ. Lúc ở nhà, nàng nghĩ bụng mặc như thế ở Pari thật không thích hợp. Xung quanh nàng, lác đác mấy người khách bộ hành bước đi vội vã, nét mặt trầm ngâm, đầu cúi thấp như để tránh bớt những cơn gió lạnh. Nàng vội vã đi ngược đại lộ Raxpay. Tới trước khách sạn Luytêxia, nàng bước chậm lại. Cờ Đức bay phấp phới. Tuy không phải là cảnh tượng mới lạ đối với mình - vì Boócđoo cũng mang dấu ấn chiếm đóng - Lêa vẫn cảm thấy đau lòng. Tới đường Babilon, gió thổi mạnh, nàng thấy lảo đảo. Ở hãng Bông-Macsê, các quầy hàng đều trống rỗng. Vừa qua, Ađriêng đưa tiền và bảo nàng mua sắm gì đấy. Nàng không mong ước gì hơn, nhưng biết mua gì? Hầu như mọi thứ đều phải có tickê. Đến quầy văn hóa phẩm, nàng mua bút chì màu và một hộp sơn; đến quầy mỹ phẩm, mua một chai nước gội đầu hiệu Sanen. Suốt một tiếng, Lêa lang thang trong cửa hiệu, lên phòng trà uống một cốc nước nóng chỉ có trà trên danh nghĩa. Cuối cùng đã bốn rưỡi. Bước đi từ từ nàng sẽ tới hiệu sách Galima vào lúc năm giờ.

Lêa có cảm giác mọi người trong hiệu sách nhìn nàng soi mói. Không bao giờ nàng có thể nghĩ là lấy một cuốn sách trên một giá sách một cách tự nhiên lại khó khăn đến thế. Chàng trai bán hàng không ngớt chăm chăm nhìn nàng với đôi mắt đen hau háu! Tên sách nhảy múa trước mắt nàng.

- Thế nào, cô tìm một cuốn sách hay đấy à?

Trước khi quay lại, Lêa đẩy lùi tập 2 cuốn Tìm lại thời gian đã mất.

- Ồ! Ông!

- Vâng, tôi đây! Có phải lần đầu tiên chúng ta gặp nhau ở đây không?

- Raphaen! Hình như lâu lắm rồi nhỉ? - Nàng vừa nói vừa chìa tay ra.

- Chào cô, cô gái Boócđô xinh đẹp. Lạ thật. Cứ mỗi lần gặp cô, là một lần tôi thấy nhức nhối trong tim, thấy luyến tiếc. Than ôi! Cô bạn thân mến, sao tôi lại không khác đi được nhỉ?... Được thế thì tôi sẽ yêu mến cô biết chừng nào! - Raphaen vừa nói vừa hôn tay Lêa.

- Vậy ra không bao giờ ông thay đổi? - Nàng hỏi và rụt tay lại.

- Vì sao tôi lại thay đổi cơ chứ? Tôi đã chẳng từng nói với cô là tôi yêu bản thân tôi như cái tôi hiện nay: một tên Do Thái và một kẻ đồng tính luyến ái, hay sao?

- Sao ông không kêu lên cho to nữa đi? - Lêa bực dọc bảo.

- Ồ! Ở đây đều là chỗ bạn bè, mọi người đều biết tôi. Tôi không phải là tác giả của nhà xuất bản hay sao. Quả là ít được biết đến, nhưng được mến yêu! Chẳng hạn, chàng trai xinh đẹp, tóc nâu kia là cả một kho tri thức, cậu ta đã đọc hết cả, kể cả các tác phẩm của tôi. Thế mà cậu ta mới mười sáu tuổi! không thể tin được, phải không nào? (Và quay sang chàng trai, bảo): Cậu nhắc lại tên cậu đi.

- Thưa ông, Giăng Giăc ạ.

- Đúng, Giăng Giăc. Anh bạn Giăng Giăc bé nhỏ, anh đã tìm được cuốn sách tôi cần chưa?

- Thưa ông, chưa, nhưng chỉ ngày một ngày hai là sẽ tìm thấy thôi.

- Hễ có là cậu mang tới biệt thự cho tôi, đường Xanh-Pe, tôi sẽ mời cậu nếm một chút rượu vang mùi rất hiếm và cất từ lâu đời. - Ông ta vừa nói vừa bẹo má chàng trai lúc đó ngước lên nhìn, ánh mắt vừa hỗn xược vừa nghịch ngợm. Rồi quay sang Lêa - Cô có nhìn thấy cặp mắt kia không? Sôi nổi biết chừng nào! Xin lỗi cô, cô bạn thân mến, tôi quên không hỏi cô. Thế cô làm gì ở Pari? Lần trước, tôi gặp cô trước một ngôi nhà thờ ở Boócđô. Vậy nhân đây xin hỏi cô các vị tu sĩ dòng Đôminic ở cái thành phố đẹp đẽ ấy, sức khỏe ra sao?

Lêa bỗng rùng mình và bất giác đáp, giọng lạnh lùng.

- Rất tốt.

- Tôi rất vui mừng. Nhưng cô chưa nói cho tôi biết cô làm gì ở đây?

- Tôi có hai bà cô, một bà bị ốm, một bà bị mệt: tôi đến giúp đỡ họ.

- Cô bé tốt bụng quá... Hôm nay, cô đi ăn tối với tôi nhé?

- Tôi không...

- Thôi nào, sáu rưỡi, tôi sẽ tới đón cô. Bây giờ, ở Pari, người ta ăn tối sớm. Cô nhắc lại giùm tôi địa chỉ nào.

- 65, phố Đại Học. Nhưng tôi cam đoan với ông...

- Không nói thêm gì nữa. Tôi được gặp lại cô, tôi phải giữ cô thôi. Cô nhớ ăn mặc thật đẹp: tối nay tôi sẽ đưa cô tới một chốn phù hoa. Trước hết sẽ ăn tối ở hiệu Tháp Bạc, sau đó dự buổi tiếp khách thượng lưu, trong đó cô sẽ là một viên ngọc quý.

- "Làm thế nào thoát khỏi hắn?" Lêa nghĩ bụng. "Bây giờ chậm quá rồi, không thể đổi tờ quảng cáo sách được nữa".

- Tôi van cô, vì tình bạn, cô nhận lời đi.

- Xin nhận, lát nữa, mời ông đến đón tôi.

- Cảm ơn cô, cô làm tôi hết sức vui mừng.

"Nếu là một tay mật thám?" Lêa băn khoăn mãi trong lúc chạy về phố Đại Học "Nhưng không, không thể như thế. Ông ta đã chẳng muốn giúp mình ở Boócđô đó sao? Miễn là mai, không có ai trong hiệu sách. Tối nay mình ăn mặc thế nào đây?" Nàng giận mình nghĩ tới chuyện vớ vẩn đó trong lúc nhiệm vụ chưa hoàn thành. Bất giác, nàng điểm lại trong óc số quần áo mang theo. Không có cái nào có thể mặc được để tới khách sạn Tháp Bạc.

- Lêa, dẫu sao cháu cũng không nên đi ăn tối với người đàn ông mà hai bà không hề quen biết chứ!

- Nhưng thưa bà Anbectin, bà sẽ làm quen với ông ta vì ông ta sẽ đến đây để đón cháu.

- Có thể như thế, nhưng không phải lối gì cả.

- Bà thân mến của cháu, cháu van bà, đây là lần đầu tiên từ khi ở đây đi ra, cháu được vui thích một chút.

Anbectin hết sức âu yếm nhìn cô cháu gái mình ưa thích. Quả là tuổi xuân con bé tội nghiệp không mấy vui vẻ: cho nó vui chơi chút ít là rất tốt.

- Cháu có chiếc áo dài nào cho trang nhã không?

- Rất tiếc là không, thưa bà!

- Để bà cùng với Exten và Lida xem có tìm được cái gì không. Ơn Chúa, bà chưa bán mất chiếc áo lông chồn đen.

Lida và Anbectin lục hòm lấy ra những chiếc áo dài vũ hội, chiếc mới nhất may từ những năm hai mươi.

- Cái này là cái gì đây? - Lêa vừa hỏi vừa rũ một chiếc váy tuyn đen viền đăng ten.

- Bà không rõ, chắc là của bà cụ cố.

- Đẹp quá! - Lêa vừa nói vừa mặc váy ra ngoài áo dài - Bà nhìn xem, là đi rồi thì đây là một chiếc váy tuyệt vời. Còn chiếc áo ngắn này nữa?

- Cháu yêu quý, cháu không thể mặc những thứ đó được đâu, hoàn toàn lạc hậu mất rồi.

- Exten, cô giúp tôi một tay. Chúng ta sẽ thu xếp cái này.

Lêa gây xôn xao khi đến ngồi trong khách sạn Tháp Bạc, với chiếc áo ngắn của một thời xa xưa. Cổ cao viền đăng ten đen, hai cánh tay phồng lên ở cổ tay, và chiếc váy rộng xòe ra trên ghế. Mái tóc búi cao, cắm một chùm lông đen khiến nàng có vẻ kiêu hãnh. Mấy bà, mấy cô rất lịch sự và phấn son lộng lẫy nhìn với vẻ ganh tị cái cô gái chỉ thoa một lớp phấn mỏng, nổi bật đôi mắt sáng long lanh dưới hàng mi uốn cong. Đàn ông cũng nhìn nàng với những tình cảm khác nhau. Những người biết Raphaen Man và tư cách đáng ngờ của hắn thì ngạc nhiên thấy một thiếu phụ danh giá như vậy mà lại để thanh danh của mình có thể bị thương tổn vì đi với hắn.

Thấy mọi người ngắm nhìn mình, Lêa hết sức kiêu hãnh. Nàng vui mừng về nỗi không có áo dài hợp thời trang và nhờ vậy, nổi bật hẳn so với những người đàn bà kia. Raphaen cũng cho như vậy và ca ngợi nàng với cái lối khoa trương quen thuộc của ông ta.

- Hoan hô! Cô là người đẹp nhất. Mọi người đều ngắm nhìn cô, cô trông kìa, nhất là đám các bà, các cô. Kỳ lạ thật. Cô lấy từ đâu ra bộ quần áo vừa nghiêm trang vừa cực kỳ "sexy" theo kiểu nói của người Mỹ như vậy? Bên cạnh cô, mấy bà trong giới hào hoa hiếm hoi ở đây trông thật vô duyên. Cảm ơn cô về nhan sắc tuyệt vời đó - Ông ta quay sang tay hầu rượu - Cho sămpa đi! Một Pêrinhông thật ngon nhé!

- Vâng, thưa ông.

- Chúng ta phải ăn mừng thật xứng đáng buổi tái ngộ này. Tôi thấy hai bà cô của cô tuyệt vời. Thế mà tôi cứ tưởng một trong hai bà bị ốm kia đấy.

- Bà ấy đỡ rồi. - Lêa vội vàng nói.

- Tôi lấy làm mừng lắm. A! Sămpanh đây rồi. Vì chiến tranh, không có đèn sáng, cô không ngắm nhìn được nhà thờ Đức Bà, dòng sông Xen và đảo Xanh-Lui, nhưng tôi hứa với cô là món ăn ở đây sẽ an ủi cô về nỗi luyến tiếc không được ngắm cảnh. Đây là khách sạn xa xưa nhất và nổi tiếng nhất của Pari.

Lêa ngước nhìn ông bạn. Ông ta thay đổi nhiều từ sau lần gặp trước: béo ra, áo xmô-king kéo căng ở một vài chỗ. Da mặt sạm đi như da của những kẻ thức khuya. Ông ta có vẻ bồn chồn và liên tiếp hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác.

- Cho tôi xin một điếu.

- Tôi nghĩ cô không hút. - Ông ta vừa đáp vừa đưa hộp thuốc mở sẵn.

Lêa cầm điếu thuốc đàu màu vàng ánh. Một người hầu bàn vội chạy tới đánh diêm.

- Cảm ơn. - Nàng nói và nhả khói.

- Cô thích?

- Thuốc ở đâu thế? Mùi thuốc thế nào ấy.

- Thuốc Thổ Nhĩ Kỳ đấy. Anh bồi ở tiệm Criông cung cấp cho tôi từng tút. Nếu cô thích, tôi xin kiếm cho cô.

- Cảm ơn, tôi làm gì có tiền mà mua.

- Cô bạn thân mến, chúng ta với nhau, sao lại nói chuyện tiền bạc? Sau này cô hẵng trả tôi.

- Cảm ơn, tôi thích một đôi giày hơn.

- Chẳng sao, tôi sẽ kiếm cho cô thôi. Cô cho biết cô thích loại nào: giày khiêu vũ, giày cao cổ hay dép? Tôi có thể cung cấp mọi thứ cho cô. Cô có thích khăn quàng lông chồn điêu, áo khoác lông cu li, tất lụa, áo pun bằng casơmia, măng tô lông lạc đà không? Tất cả những thứ đó, tôi đều có thể kiếm cho cô.

- Ông làm thế nào?

- Cô bạn thân mến, đó là bí mật của tôi. Nói chung khách hàng của tôi không cần biết hàng do đâu mà có. Họ chỉ cần trả tiền và... xin chào! Và xin cô tin tôi, trong lĩnh vực này, người ta càng biết ít thì càng sống lâu.

Người hầu rượu mang sămpa tới.

- Xin nâng cốc chúc sắc đẹp của cô. Bôna, Becna Opaxê, Maxxem và Elidơ Giuhăngđô. Kia nữa là Aclety: sau cô, đó là người đàn bà đẹp nhất ở đây...

Một người đàn ông, dáng còn trẻ, vẻ mặt xương xương, hai bàn tay nổi gân, khoác chiếc áo xmô-king một cách trễ nải, chiếc áo choàng lót xa tanh đỏ, theo sau có một chàng trẻ tuổi rất đẹp trai cũng mặc xmô-king, bước tới gần họ:

- Raphaen, cậu ở đây hả? Tớ vui mừng biết công việc của cậu hình như khấm khá lên.

- Khá, rất khá, tớ đang gặp vận may. Lêa, cô cho phép tôi giới thiệu hai người bạn rất thân của tôi: ông Giăng Coóctô.

- Giăng Coóctô... Xin chào ông. Tôi rất thích vở Tomax, đứa bịp đời.

- Cảm ơn cô. Thế mà tôi không biết ông bạn Raphaen của tôi quen biết những con người tuyệt vời như cô.

- Giăng, xin giới thiệu với cậu: tiểu thư Đenmax ở Boócđô.

- Boócđô! Thành phố thật đẹp! Không ở đâu, vẻ âu sầu lại có dáng dấp thanh nhã kiểu quý tộc như vậy. Ngay cả những bức tượng nhỏ trong quảng trường Ngũ điểm cũng duyên dáng vô song. Tôi có thể đưa cô về đâu đây? Một anh bạn có nhã ý cho tôi mượn cả xe hơi và cả người lái.

- Xe sẽ chật đấy.

- Ồ! Ông bạn, tôi xin lỗi. Đầu óc tôi để đâu mất. Cô gái làm tôi bối rối. Thưa cô... xin lỗi cô, tôi quên mất quý danh rồi.

- Đenmax.

- Thưa cô Đenmax, tôi xin giới thiệu với cô người khiêu vũ đẹp nhất pari, không, tôi muốn nói là đẹp nhất châu Âu: Xecgiơ Lipha, bạn tôi.

Chàng trai, mảnh dẻ và trang nhã trong chiếc xmô-king xanh thẫm, lạnh lùng nghiêng mình.

- Cô đi đâu? - Raphaen hỏi.

- Đến nhà ông bạn Ôttô.

- Thú quá nhỉ! Chúng ta cùng đi. Thôi lên xe đi, muộn rồi.

Lêa im lặng nghiêng đầu và uống một hơi cạn cốc.

- Cô bạn thân mến, vang này, phải nhấm nháp nó, không phải như nước chanh. Cô thích món gì.

- Tôi thích sò biển và món vịt tần mà tôi đã từng nghe nói.

- Cô chọn hay quá, tôi cũng ăn những món ấy thôi.

Một lát, nhà hàng đưa ra một khay đầy các thứ sò biển. Sau đó họ ăn món vịt, pho mát và sôcôla. Nuốt xong miếng cuối cùng, Lêa ngã người ra sau lưng ghế dưới ánh mắt thú vị của những người ngồi ăn bên cạnh.

- Ái dà! Đã mấy tháng nay, hôm nay là lần đầu tiên tôi được ăn no.

- Tôi mong như vậy, cô ăn bằng ba bằng bốn ấy.

- Một lời chê trách hả?

- Không. Được nhìn cô ăn là một điều thú vị. Tôi có cảm giác cô thưởng thức thật sự. Tuyệt thật!

- Ông thấy thế à? - Lêa nhíu mày hỏi - Tôi lấy làm xấu hổ. Ông cho tôi một điếu thuốc và nói cho tôi biết những người kia là ai, dĩ nhiên không kể bọn Đức.

- Những người kia cũng vẫn là những người trước chiến tranh. Ngắm nhìn người ta và được người ta ngắm nhìn, bao giờ cũng là quy tắc của xã hội phù hoa Pari. Cô bạn thân mến, cả Pari thượng lưu đều có mặt ở đây.

- Tôi không tin.

- Cô hãy nhìn xem hai bà đứng giữa viên sĩ quan Đức thanh lịch và người đàn ông thanh lịch có mái tóc xanh nhạt kia.

- Ông ấy giống Xasa Guytri nhỉ!

- Đúng, chính là ông ta. Bà đứng bên phải là Luyxiêng Đenphoocgiơ, nữ nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng. Chính bà ta là người có câu nói thú vị: "Nếu người ta bảo tôi định nghĩa thế nào là sự hợp tác, thì tôi sẽ nói: hợp tác, là Môda ở Pari."

- Tôi không thấy mối quan hệ ở đâu cả.

- Thế là vì cô thiếu óc hài hước đấy cô bạn ạ. Bà thứ hai là Giacmen Luybanh, chuyên gia giỏi nhất về Vacne. Còn sĩ quan người Đức kia là trung úy Rađơmase, phụ trách kiểm duyệt cấp cao. Nếu không được ông ta đồng ý thì không bài hát, vở kịch nào được biểu diễn ở Pari. Đằng kia, ngồi gần cửa sổ, là Anbe.

Một anh lái người Đức mở cửa một chiếc xe hơi lộng lẫy, Lêa lùi lại.

- Cô bạn thân mến, mời cô đi, không có gì đáng ngại hết, cô đi với những người đáng tin cậy, và chỗ chúng ta sẽ đến là một trong những chỗ được ưa chuộng nhất ở Pari. Tôi biết có những người nổi danh mà vẫn phải hạ mình để được đón nhận ở đây kia đấy.

Lêa ngồi giữa Coóctô và Raphaen. Vẫn vẻ hờn dỗi, anh chàng khiêu vũ ngồi cạnh người lái.

Xe chạy dọc bờ sông vắng lặng. Không một ai lên tiếng. Trong đêm sáng trời và lạnh lẽo, nhà thờ Đức Bà đen sừng sững như canh giữ đô thành. Hình ảnh ấy gợi lại trong trí Lêa lần nàng đến Pari cùng với ông bố. Tất cả nàng thấy đã lùi xa vào dĩ vãng...

Xe qua mặt phố Xanh-Pe và lăn bánh theo con đường đi Lidơ. Lát sau, nó qua dưới một cái cổng lớn có lính Đức đứng gác và đỗ lại trước bậc tam cấp đồ sộ của một ngôi biệt thự đặc biệt.

Rất lịch sự, Coóctô giúp bước xuống xe.

- Chúng ta đến đâu thế này?

- Đến ngôi biệt thự trước kia Bônapac tặng Giôdêphin.

Họ bước lên tam cấp. Những bức rèm cửa vén ra hai bên trong tiếng sột soạt. Một luồng ánh sáng, hơi ấm vàg mùi thơm tiếp đón họ. Đầy tớ mặc đồng phục cởi măng tô cho khách. Lêa tiếc rẻ phải bỏ chiếc áo choàng lông chồn đen. Choáng váng, nàng nhìn ngó xung quanh với niềm hoan hỉ trẻ thơ, tuy có chút cảm giác khó chịu mà nàng cố xui đi.

- Chúng ta đến đâu thế này? - Nàng nhắc lại.

- Sứ quán Đức.

Lêa thực sự choáng váng. Nàng lùi lại nhưng nắm tay lực lưỡng của Raphaen giữ và kéo nàng về phía những phòng khách rực rỡ ánh sáng.

- Tôi muốn về!

- Cô không nên làm thế. Dẫu sao cũng muốn rồi: ngài đại sứ kia kìa.

Một người đàn ông, còn trẻ nhưng khí đẫy đà, rất lịch sự trong bộ xmô-king, chào Giăng Coóctô.

- Ông bạn thân mến, bao giờ tôi cũng rất vui mừng được đón tiếp một nhà thơ như ông.

- Thưa ngài...

- Ông giới thiệu các bạn ông với tôi nào.

- Thưa ngài, đây là Xecgiơ Lipha mà ngài đã từng nghe nói.

- Đúng thế. Thưa ông, tôi rất yêu thích cách nhảy của ông.

- Thưa ngài...

Đây là nhà văn, nhà báo Raphaen Man.

- Tôi biết ông ấy. - Ông đại sứ nói và đi qua trước mặt Raphaen, không bắt tay.

Raphaen hơi đỏ mặt và vội nghiêng mình.

- Cô gái diễm lệ này là ai vậy? Là vai diễn trong một kiệt tác nay mai của ông phải không?

- Tôi xin phép được giới thiệu với ngài: cô Lêa Đenmax. Lêa, tôi xin giới thiệu với cô: ngài Ôttô Abeda, đại sứ Đức ở Pari.

Lêa không dám không bắt tay ông đại sứ quán chìa ra. Ông thân mật khoác tay nàng và nói bằng thứ tiếng Pháp rất sõi:

- Mời cô đi để tôi giới thiệu cô với nhà tôi. Bà ấy cũng là một người Pháp như cô. Tôi tin chắc là hai người sẽ rất hợp ý nhau.

Bà Abedơ duyên dáng chào Lêa.

- Cô bạn thân mến, cô có chiếc áo dài hết sức độc đáo, cô phải cho tôi địa chỉ người may.

Rồi không chờ câu trả lời, đến gặp những tân khách mới đến. Lêa đứng giữa phòng khách, trong lúc những con người trang nhã, thơm nức đi qua đi lại xung quanh nàng, tay cầm cốc rượu và cười cười nói nói. Hầu như mọi người đều nhìn cô gái mảnh dẻ trong tấm áo dài đen rộng và khác thường. Trước những ánh mắt ấy, Lêa bối rối nhưng cũng mừng là tấm áo dài che kín đôi giày khiêu vũ màu đen và vàng xấu xí bà Lida dùng ngày trước. Không giấu vẻ tò mò, nàng ngắm nhìn đám người có vẻ vui tươi, thoải mái, sung sướng được tới chỗ này; quần áo sang trọng, tư trang của phụ nữ nổi lên thành những điểm sáng giữa trang phục màu đen của nam giới.

- Kỳ lạ, phải không? - Raphaen thì thầm bên tai nàng.

- Cái gì kì lạ?

- Tất cả những kẻ tán tỉnh kẻ thù kia.

- Thế còn ông, ông làm gì?

- Ồ! Tôi chỉ là một thứ giun dế, vả lại, như tôi đã nói với cô, tôi thích kẻ chiến thắng.

- Có thể không bao giờ họ cũng chiến thắng.

- Nói bé hơn, cô bạn ơi. - Hắn vừa nói vừa nhìn xung quanh, vẻ sợ hãi - Cô cho là những người có mặt ở đây và những người như họ không tin chắc thắng lợi hoàn toàn của Đại Đức quốc xã hay sao? - Hắn khoác tay nàng và nói nhỏ vào tai.

- Nhưng ở Nga, quân Đức ngày càng thất nhân tâm.

- Suỵt! Cô muốn chúng ta bị tóm cả hay sao? Đấy là điều cô không nên biết và càng không nên nói. Xin khuyên cô một lời: cô hãy nghe đài Pari hơn là đài Luân Đôn. Như thế ít nguy hiểm hơn.

Họ dừng lại trước quầy hàng và Lêa nhá liên tiếp năm sáu chiếc bánh ngọt.

- Tôi ngờ đang sống thời kỳ bữa ăn nào cũng uống cốc tay của bên kia tả ngạn. Tôi ăn không biết bao nhiêu bánh phết bơ với cá hồi hay trứng cá muối! Và no đến hai ngày. Kìa, ông uống đi chứ.

Từ phòng khách bên cạnh vẳng sang một điệu vanxơ.

- Vũ hội bắt đầu. Tôi rất tiếc là nhảy tồi quá, giá được ôm cô trong vòng tay theo một điệu vanxơ của Viên thì sẽ thích thú biết chừng nào! Mời cô đi xem cái cơ ngơi này. Tôi sẽ giới thiệu với cô khuê phòng của Giôdêphin.

Nhưng căn phòng nhỏ chật cứng người nên hai người không vào. Họ ngồi trong một phòng khách hơi cách biệt, cạnh một chiếc bàn trên đặt một cái lọ sứ Trung Quốc đẹp tuyệt dùng làm đèn. Dưới ánh sáng màu hồng nhạt, sắc da và màu tóc Lêa ánh lên một vẻ đặc biệt. Một người đàn ông tầm thước, lực lưỡng đi qua.

- Ông chủ nhiệm nhà xuất bản thân thiết của tôi đấy à?

- Chính hắn. Thì ra ở đâu cũng gặp ông. Cô gái xinh đẹp đi với ông hả? Ông giới thiệu tôi đi.

- Cô Lêa, tôi xin giới thiệu ông Gaxtông Galima, nhà xuất bản lớn và cũng là người rất hâm mộ phụ nữa. Còn đây là tiểu thư Đenmax.

- Cô đừng tin lời ông ấy. - Người khách vừa nói vừa ngồi xuống cạnh Lêa.

- Ông Gaxtông, mời ông tới đây một lát, ngài đại sứ quán muốn gặp.

- Xin lỗi cô, cô cứ ngồi đây, tôi trở lại ngay. Rồi quay sang nói với người vừa tới - Mari, có tôi.

- Mari Ben phải không?

- Phải, chính bà ta, một thiếu phụ tuyệt vời. Tối nay là buổi dạ hội tao đàn. Ngoài ông bạn Coóctô của chúng ta, còn có Gioocgiơ Đuyhamen, Giăng Girôđux, Rôbe Bradiac, Đriơ La, Rôsen đẹp trai, và kìa Pie Bonoa đang trò chuyện sôi nổi với ông bạn Arnô Brơke...

- Nhà điêu khắc hả?

- Đúng, ông ta vừa chuẩn bị xong cuộc trưng bày lớn sẽ tổ chức vào tháng năm. Kia là hai đồng nghiệp của ông ta, có kém tài hơn, là Benmôngđô và Đexpiô. Đằng xa kia là Giang Luyse và Etuygiơ Phơie...

- Đủ rồi, ông đừng liệt kê nữa, nghe mãi chán lắm...

- Thưa cô, cô vui lòng nhảy một điệu chứ?

Lêa ngước mắt.

- Phrăngxoa...

Nàng gọi to tên anh.

- Phrăngxoa...

Rồi đứng vụt dậy.

- Lêa...

Hai người đứng trước mặt nhau, nhìn nhau, sững sờ, không dám đụng vào người nhau.

- Gặp nhau ở chốn kỳ lạ này thì thật không ngờ. - Phrăngxoa thì thầm - Sao cô lộng lẫy đến thế? Mời cô, ta nhảy nào.

- Gặp nhau ở chốn kỳ lạ này thì thật không ngờ - Phrăngxoa thì thầm - Sao cô lộng lẫy đến thế? Mời cô, ta nhảy nào.

Đã lâu Lêa không dám ước mơ một buổi gặp gỡ thú vị đến thế: bước theo điệu vanxơ trong vòng tay người đàn ông nàng thèm khát và cũng đang thèm khát nàng rõ rệt. Cảm giác khoan khoái biết bao được ôm ấp! Nhất là đừng thức tỉnh, đừng mở mắt! Nàng càng áp sát vào người Phrăngxoa. Nàng quên đi mình đang ở đâu, quên nhiệm vụ Ađriêng giao phó, quên chiến tranh, thậm chí quên cả Lôrăng. Nàng chỉ muốn là một người đàn bà trong vòng tay của một người đàn ông.

- Ông bạn thân mến. - Ôttô Abedơ vừa nói vừa đặt tay lên vai Phrăngxoa Tavecniê - Tôi không thể trách ông khi không có nhạc mà ông vẫn tiếp tục nhảy.

Phrăngxoa nhìn ông ta mà như không thấy, và im lặng dìu Lêa đi.

- A! Chỉ có người Pháp mới yêu như thế. - Ông đại sứ vừa lẩm bẩm vừa nhìn hai người với ánh mắt thèm muốn.

Trong tiền sảnh, Raphaen bước tới gần Lêa.

- Ông về hả? - Hắn hỏi Phrăngxoa Tavecniê.

- Vâng. - Phrăngxoa đáp - Cô Đenmax đã mệt, tôi tiễn cô ấy về.

- Nhưng...

- Chào ông.

- Chào Raphaen.

Phrăngxoa đưa Lêa lên chiếc Buygati đỗ trong đại sứ quán.

Đường phố Pari không đèn, vắng tanh. Quảng trường La Côngcooc tựa một bối cảnh điện ảnh, cây cối trong vườn hoa Clidê chọc thẳng lên trời những thân cành trụi lá.

- Chúng ta đi đâu?

- Anh cũng không biết nữa. - Phrăngxoa đáp và đỗ xe lại sát lề đường.

Anh bật bật lửa và huơ ngọn lửa trước khuôn mặt Lêa đang căng lên chờ đợi.

Ngọn lửa tắt và hai tấm thân ôm choàng lấy nhau. Rất nhanh, trên hai cặp môi như có vị máu và vị muối kích thích dục vọng đến cực độ.

Nếu không có đội tuần tra Đức tới và Phrăngxoa Tavecniê phải xuất trình giấy tờ, sau đó họ xin lỗi và bỏ đi thì chắc hẳn họ đã làm tình với nhau trong xe.

- Em vẫn ở nhà mấy bà cô?

-Vâng.

- Hiện anh ở khách sạn Pông-Royan, rất gần chỗ em. Em có muốn chúng ta đến đấy không?

- Có.

- Lêa hai bà cô em chắc phải lo sốt vó lên thôi, đã năm giờ sáng rồi.

- Em thấy thế này sung sướng quá, em không muốn nhúc nhích gì đâu.

- Phải nhúc nhích thôi, em thân yêu ạ.

- Đúng... anh nói đúng...

Lêa vẻ ngái ngủ, mặc quần áo.

"Điên thật!" - Phrăngxoa nghĩ bụng.

- Em xong rồi.

- Mong hai bà cô không đón em ngoài cửa. Nếu không, em khó có thể biện bạch về hai quầng đen ở mắt và mái tóc rối tung.

- Đúng thế, quả em có vẻ như vừa ngủ dậy. - Lêa vừa nhìn vào gương vừa đáp.

Ở đường phố Đại Học, mọi người đều đang yên giấc. Trên bậc thềm, Phrăngxoa và Lêa không sao rời khỏi nhau.

- Em yêu, suốt mấy tháng nay, anh nghĩ tới em không nguôi. Em phải kể cho anh nghe tất cả những gì đã xảy ra đối với em.

- Em buồn ngủ.

- Vậy em yêu, em ngủ đi. Mai anh sẽ tới đón em đi ăn tối.

Sau nụ hôn cuối cùng, Lêa đóng cổng lại. Như một người mộng du, nàng bước vào phòng ngủ. Ngón tay nàng nóng nẩy cởi bó kim cài cổ áo đăng ten, vớ lấy chiếc áo ngủ dày cộm trong đó ủ một túi nước nóng. Trời lạnh giá, nàng vừa khoác áo ngủ vừa run rẩy...

Nhờ những túi nước nóng của bà cô Lida, mền đệm vẫn ấm. Chưa kịp rúc vào giường, Lêa đã ngủ say.

- Ồ! Không - Lêa vừa càu nhàu vừa rúc vào mền. - Bà tắt đèn đi, kéo rèm cửa lại.

- Nhưng cháu thân yêu của bà, hôm qua cháu bảo sáng nay cháu phải lo đi phố mua sắm kia mà. Bà nghĩ đã đến lúc cháu phải dậy thôi chứ.

"Đi phố mua sắm?... Bà Lida muốn nói gì thế nhỉ? Mua sắm gì? Ô! Bực thật! Tờ quảng cáo sách!"

Nàng vứt tung mền và nhảy vụt ra khỏi giường.

- Mấy giờ rồi, hở bà?

- Mười rưỡi, hình như thế.

- Mười rưỡi... Lạy Chưa, cháu đến muộn mất thôi.

Nàng chạy vào buồng tắm, tắm rửa qua loa, xỏ vội tất, mặc quần áo lót bằng len, váy và một chiếc pun to tướng.

- Cháu phải ăn đã chứ?

- Cháu không kịp nữa. Túi của cháu đâu rồi?

- Trên ghế bành kia. Mất trật tự quá, cô bé ạ!

- Lát nữa, cháu sẽ thu dọn.

Tờ quảng cáo đâu rồi?... nó kia... nàng sợ quá!

- Ít ra cháu cũng uống tí trà đã chứ!

Để làm vui lòng bà cô, Lêa uống một ngụm.

- Cháu ăn mặc cho ấm vào, sáng nay trời lạnh đấy. - Anbectin bước vào phòng và nói, trong lúc Lêa xỏ tay vào măng tô và thắt ra ngoài một chiếc khăn quàng lớn bằng len đỏ.

Nàng vừa bước xuống cầu thang vừa sửa lại chiếc mũ bêrê trên đầu.

Nàng dừng lại không chạy nữa khi còn cách hiệu sách mấy mét. Đã mười một giờ kém hai phút. Vẫn không ngớt hổn hển, nàng đẩy cửa.

Ngoài ba người bán hàng, cửa hiệu vắng tanh. Một người đi ra, một người bước xuống cầu thang, chỉ còn lại một chàng trai tóc nâu, ánh mắt thông minh và hiếu kỳ đang ngồi viết phiếu. Anh ngẩng đầu lên.

- Tôi có thể giúp cô việc gì?

- Không, cảm ơn, tôi nhìn xem thôi.

Cũng như hôm trước, nàng dừng lại trước giá sách của các tác giả; tên bắt đầu từ chữ P.

Lúc bước chân vào hiệu sách, Lêa hồi hộp và lo lắng bao nhiêu thì lúc cầm tập 2 cuốn Tìm lại thời gian đã mất, nàng bình tĩnh và thoải mái bấy nhiêu. Nàng rút sách ra và bắt đầu giở từng trang. Tờ quảng cáo nằm trong đó. Bất giác, nàng mân mê tờ giấy để đánh giá độ dày của nó và khéo léo bỏ vào túi áo măng tô. Cầm sách trên tay, nàng quay lại và bước mấy bước với vẻ đang chăm chú đọc. Chàng trai tóc nâu vẫn cặm cụi viết phiếu. Nàng lấy tờ quảng cáo có sẵn trong xắc và chuồi vào sách. Với thái độ tự nhiên, không vội vã, nàng bỏ lại sách lên giá.

Hiệu sách vẫn vắng khách.

Lêa cầm lấy một cuốn sách trên bàn mang ký hiệu N.R.F nổi tiếng và đọc mấy dòng đầu: "Mang theo trong cặp để về chấm, bài viết của bốn mươi hai học sinh, ông Giôxxơrăng hình dung mình là thi sĩ Viêcgin và ông ngạc nhiên với vẻ vừa thơ ngây vừa kỳ thú khi thấy mình lại sống giữa ánh nắng mặt trời ở cái xứ sở kỳ cục này mà ông thấy nhiều điều mình phải học hỏi". Nàng ngẩng đầu lên, ánh mắt nàng bắt gặp ánh mắt của chàng trai tóc nâu.

- Cuốn sách tuyệt vời đấy. - Chàng trai vừa nói vừa bước lại gần. - Cô nên mua đi.

- Đồng ý, tôi tin ông. Tôi chưa đọc tác giả này bao giờ.

- Thế là sai lầm, cô phải đọc hết mọi tác phẩm của Macxen Aymê.

- Đồng ý, tôi xin nhớ.

Lêa trả tiền và đi ra.

Vẫn không có một người khách nào vào hiệu. Lúc đó gần mười một giờ mười lăm.

Mặc dù có nắng đầu xuân, trời vẫn còn rất lạnh. Đi qua khách sạn Pông-Royan, Lêa bỗng nhớ tới đêm trước. Nàng đỏ bừng mặt.

"Mình phải suy nghĩ kỹ." - Nàng vẫn không ngừng nghĩ bụng khi đẩy cửa buồng.

Một giỏ hoa trắng đồ sộ choán hết cả mặt tủ quần áo. Lêa mỉm cười, cởi giày, nằm dài ra giường, kéo mền đắp, nhìn chiếc phong bì đặt trước giỏ hoa.

Khi Lêa từ tàu điện ngầm bước xuống ở ngã năm vườn hoa Clidê thì đã ba rưỡi. Nàng cố không nhìn tấm panô nặng nề bao quanh bục gác trên đó có một nhân viên cảnh sát điều khiển xe cộ thưa thớt.

Buổi chiều đẹp trời. Tuy lạnh, vẫn có đông người đi bộ dạo chơi dọc đại lộ. Người ta xếp hàng dài trước các rạp chiếu bóng. Ở rạp Noocmăngđi, chiếu bộ phim Chúng tôi, những đứa trẻ. Lêa đứng xếp hàng. Đoạn phóng sự về các trại thanh niên kéo dài mãi. Còn đoạn thời sự thì chỉ giới thiệu "Chiến công của binh sĩ Đức vẻ vang" những đám đông hoan hô ông thống chế, buổi xuất phát vui vẻ của những lao động tình nguyện trẻ tuổi, một buổi lễ kết hôn sang trọng ở Visy, buổi diễn tập một vở kịch của Môngteclăng, Môrix Sơvaliê hát ở Đức cho tù binh nghe, và mốt quần áo mới cho mùa xuân. Nàng cảm thấy bộ phim như vô tận. Cuối cùng khi hết phim, nàng làm như thể đánh rơi găng tay và nhân đấy chuồi cuốn sách xuống dưới ghế ngồi. Nàng đứng dậy và ra đi, không ngoái lại phía sau.

Ở vườn hoa Clidê, nàng tưởng như ai ai cũng nhìn mình. Nàng nghĩ bụng lúc nào cũng có thể nghe tiếng người bảo mình:

- Mời cô đi theo tôi.

Phải chăng chỉ là ý nghĩ, nhưng nàng cảm thấy như nhận ra chàng trai tóc nâu ở hiệu sách. Nàng cố kìm mình để không bỏ chạy.

Tàu điện ngầm chật ních người. Lêa bị kẹt vào giữa một người lính Đức - anh ta cố không đụng đến người nàng nhưng không được - và một cô gái to béo sực nức mùi nước hoa đến nhức đầu. Đến quảng trường La Côngcooc, nàng đổi tàu và cô gái cũng vậy.

Về đến nhà ở phố Đại Học thì đã sáu rưỡi. Đẩy cửa vào, trước tiên, nàng nghe thấy tiếng cười của bà Lida, và sau đó, là tiếng cười kín đáo hơn của bà Anbectin. Ai có thể làm hai bà già độc thân đờ Môngplâynet cười như vậy? Nàng bước vào phòng trang điểm, căn phòng duy nhất trong nhà được sưởi ấm tương đối đầy đủ bằng một lò sưởi đốt củi. Phrăngxoa Tavecniê giơ hai bàn tay xoa xoa vào nhau trước ngọn lửa. Khi Lêa bước vào, anh ta đứng dậy.

- Cháu gái thân yêu. - Lida lên tiếng - Sao cháu không cho hai bà biết là cháu đã gặp ông Tavecniê?

-... Và cháu sẽ đi ăn tối với ông ấy. - Bà Anbectin nói thêm.

- Sáng nay, cháu chưa kịp nói với hai bà.

- Cháu phải cảm ơn ông Tavecniê về những bông hoa tuyệt diệu của ông ấy.

- Không có gì đâu thưa cô. Thế cô không nhớ là chúng ta cùng nhau đi ăn tối sao?

- Không, không. Tôi xin lỗi, để tôi đi thay quần áo.

- Khỏi cần, cô ăn bận như thế là rất tốt rồi. Nơi tôi đưa cô tới sẽ rất đơn sơ. Đơn sơ nhưng tốt.

- Tôi chải lại tóc một chút là xong ngay.

Mười lăm phút sau, Lêa quay lại. Nàng thay quần áo và tô điểm chút ít đôi mắt.

- Thưa ông, ông đừng đưa nó về muộn quá. Thời buổi này, chúng tôi lo ngại lắm. - Bà Anbectin dặn Phrăngxoa.

- Cháu gái thân yêu, chúc cháu vui vẻ, nhất là chúc cháu ăn ngon miệng. - Bà Lida nói thêm, giọng như thể người thèm ăn.

Không có gì ra vẻ một khách sạn cả. Khi họ bước lên tầng ba một ngôi nhà trưởng giả trên đường Xanh- Giắc. Phrăngxoa bấm chuông theo một mật hiệu; cánh cửa hé mở rồi mở hẳn.

- Ông Phrăngxoa!

-Chào Macxen, vẫn khỏe mạnh chứ?

- Không có gì phải phàn nàn. Ông đến thật đúng lúc tôi vừa nhận được một chân bò, ông có dùng không hay ông thích chim cút hoặc gà mái tơ?

- Tùy ý anh, miễn sao vẫn tuyệt vời như thường lệ.

- Thế ông có dùng món rượu trắng nhẹ để khai vị không?

- Rất tốt, anh cho chúng tôi ngồi ở một góc kín đáo.

- Ối dà, tôi chỉ thấy có phòng ngủ là được thôi. - Macxen đáp trong lúc không dám nhìn Lêa.

Quang cảnh nơi đây khá vui mắt. Trong ngôi nhà bốn buồng, hai vợ chồng Ăngđriơ bố trí một khách sạn bất hợp pháp mà khách hàng là những người đã quen lui tới và không bao giờ tiết lộ cho ai biết. Những người láng giềng trực tiếp dĩ nhiên có biết nhưng được trả ơn một cách hào phóng để giữ mồm giữ miệng.

Trong buồng ăn của gia đình, bàn khách có thể bố trí cho mười hai người ăn. Một chiếc buypphê kiểu Hăngri II, một chiếc tủ để bát đĩa, những bức tranh xấu xí vẽ những cảnh thôn dã treo trên nền hoa giấy phai màu, một chiếc đèn treo tỏa xuống một thứ ánh sáng vàng vọt, một chiếc khăn bàn kẻ ô vuông màu đỏ, những chiếc đĩa sứ trắng dày cộp, những chiếc cốc vại, những chiếc đĩa lẻ bộ, tất cả tạo cho nơi đây một dáng vẻ vừa mộc mạc vừa dễ thương.

Chút phong cách tỉnh lẻ ý vị ấy là sản phẩm của bà Ăngđriơ, một người đàn bà lực lưỡng và vui tính, tốt bụng và có tài nấu nướng. Sinh trưởng ở Xanh-Xiêc-Lapôpi thuộc tỉnh Lô, bà vẫn giữ nét cá tính dữ dằn của vùng quê giàu có này. Họ hàng đông đúc, thường gửi tới cho bà nấm cục, gan ngỗng béo, gia cầm đủ loại, vô số thịt, rượu vang Caho tuyệt vời, dầu hồ đào, trái cây loại ngon nhất, rau xanh loại tươi nhất, pho mát dê cực ngon và thậm chí cả thuốc lá trồng một cách vụng trộm.

Dĩ nhiên, phải đút lót để nhận được hàng đều đặn. "Nhưng chỉ đút lót người Pháp không thôi." Ăngđriơ kiêu hãnh nhắc lại khi có người hỏi vì sao ở nhà ông ra có dâu tây khi món quả này chưa hề thấy ở tiệm Macxim, Lơ Đoayăng hoặc Carerơ.

Ở tiệm vợ chồng Ăngđriơ, người ta tin chắc không bao giờ đụng phải một bộ quân phục Đức. Khách hàng chủ yếu là những người hưu trí khá giả, giáo sư đại học, nhà văn, nhà buôn giàu có và vài bốn nghệ sĩ có tên tuổi. Thỉnh thoảng thấy có những bộ mặt đáng ngại hơn và những người đàn bà ồn ào hơn; nhưng tính trực ngôn của bà chủ sớm làm nản lòng những vị khách ấy.

Trước chiến tranh, đôi vợ chồng này có một tiệm ăn nhỏ bán đặc sản vùng Kecxy ở quận 15. Phăngxoa thường tới ăn uống ở đấy. Rất nhanh chóng, đối với ông khách giản dị và hào phóng này, hai vợ chồng chủ tiệm không phải chỉ biểu lộ cảm tình. Cuối năm trước, một quả bom phá sạch cơ nghiệp của họ. Thế là bỗng chốc tay trắng.

Chính Tavecniê đã kiếm cho họ căn nhà trên đường Xanh-Giắc. Họ mua sắm các thứ đồ đạc rẻ tiền ở chợ trời. Cũng như số đông người Pháp, họ rất khoan khoái hôm tuyên bố đình chiến. Anh con trai một của họ sẽ được trở về nhà. Rất nhanh chóng, Mactơ hiểu có thể dựa vào họ hàng vẫn ở lại quê nhà như thế nào. Cũng như trước chiến tranh, chú bác và anh em họ hàng lại tiếp tế cho họ. Nhờ một hai lần can thiệp của Phrăngxoa Tavecniê, đã một năm nay, cái tiệm ăn bó mật này hoạt động tốt.

Làm ăn phát đạt, chủ tiệm phải đặt bàn khắp nhà, sau trong phòng khách, ba trong hành làng và thậm chí một trong buồng ngủ của hai vợ chồng Ăngđriơ. Nhưng bàn này chỉ dành riêng cho bạn bè.

Trên bàn ăn trong buồng ngủ ấy, có một cây đèn bạch lạp khá đẹp. Một cây đèn thứ hai đặt trên tủ commốt vốn được dùng làm tủ bát đĩa. Chắc hẳn muốn được kín đáo, giường ngủ đặt sau tấm bình phong Trung Quốc lạc lõng giữa quanh cảnh này. Trước khi ngồi vào bàn, Phrăngxoa phải tới hôn thằng cháu nội ông chủ, con đỡ đầu của anh ra. Đấy là một nghi thức mà anh ta không thể bỏ qua vì sợ làm người nhà tự ái. Lêa bật cười khi thấy anh ta bế đứa bé trên tay.

- Không thích hợp với anh tí nào. Em không biết là anh yêu trẻ nhỏ.

Anh ta mỉm cười trong lúc đứa bé nhỏ dãi lên sơ mi.

- Anh yêu chúng lắm. Còn em thì không hả?

- Hoàn toàn không. Em thấy chúng vướng víu và khó chịu.

- Rồi em sẽ thay đổi ý kiến thôi.

- Em không tin. - Nàng lạnh lùng đáp.

Anh trả đứa bé cho mẹ nó.

- Tôi khen cô đấy, cô Giannet, chú bé con trai đỡ đầu của tôi mỗi ngày một thêm đẹp.

Người thiếu phụ đỏ mặt vì sung sướng.

- Tôi xin đi gọi nhà tôi lên hầu ông.

Phrăngxoa dìu Lêa ngồi vào bàn. Ngọn nến lung linh như làm sống động hình mấy con rồng in trên bình phong, và nét mặt cô gái như có một vẻ dịu dàng khác hẳn với ánh mắt nàng. Phrăngxoa im lặng ngắm nhìn nàng.

- Anh đừng nhìn em như thế...

- Suốt mấy tháng nay, anh luôn luôn cố hình dung ra nét mặt em như vậy...

Anh con trai nhà chủ bước vào, cầm một chai rượu:

- Thưa ông Phrăngxoa, tôi có mặt, xin ông tha lỗi cho, tôi đã để ông phải chờ, nhưng tối nay đông khách quá.

- Chào Rơnê, ổn chứ?

- Thưa ông Phrăngxoa, ổn. Để bắt đầu, ông dùng gì: một ít gan ngỗng béo, giăm bông và cổ ngỗng nhồi thịt có được không?

- Rất tốt.

- Sau đấy, mẹ tôi sẽ dọn món thịt gà xé trộn nước lèo với nấm và ít khoai tây rán mỡ ngỗng; món xà lách trộn dầu hồ đào. Tráng miệng thì sẽ có món sôcôla đánh kem.

- Ồ! Phải! - Lêa vội lên tiếng.

- Kem sôcôla, được. Cậu cũng cho tôi một chai vang Caho nữa nhé.

- Thưa ông Phrăngxoa, vâng. Mời ông nếm cốc Chablix này. - Cậu ta vừa nói vừa nâng cao chai rượu.

- Chà chà! Khá lắm!

- Phải thế không ạ?

Rơnê rót rượu cho Lêa, rót thêm đầy cốc cho Phrăngxoa rồi đi ra.

Hai người im lặng uống một lát.

- Em nói cho anh biết dạo này em thế nào. Nhưng trước hết, cho anh biết tin tức về bà đờ Acgila.

- Cô ấy rất khỏe, sinh cháu trai đặt tên là Saclơ.

- Thế còn ông chồng bà ấy?

- Anh ấy bỏ trốn hai lần, lần thứ hai trốn thoát, và đã tìm gặp tướng đờ Gôn ở Luân Đôn.

Lêa đưa tin đó, vẻ vừa kiêu hãnh vừa thách thức, nhưng ngay sau đó thì ân hận. Phrăngxoa Tavecniê hiểu tâm trạng nàng qua nét mặt.

Anh ta uống hai cốc vang liền. Anh ta phải nói chuyện với nàng. Nhưng có thể nói gì? Anh ta không sao chịu nổi vẻ sợ hãi và ngờ vực của nàng. Làm thế nào cho nàng hiểu...

- Lêa...

Nàng từ từ ngước mắt.

- Vâng...

- Lôrăng đi tìm gặp tướng đờ Gôn là rất phải, rất dũng cảm. Nhưng em không nên nói, ngay cả với anh nữa.

- "Ngay cả với anh", anh muốn nói thế nào?

Phrăngxoa mỉm cười, dáng mệt mỏi.

- Không, em có thể nói hết với anh, không có hại gì. Trái lại, hôm qua, anh lo cho em khi thấy em đi cùng lão Raphaen Man đê tiện ấy.

- Một người bạn lâu năm chứ? Sao anh lại bảo ông ấy đê tiện? Dẫu sao ông ấy cũng giao du với những người anh giao du kia mà.

- Được. Về điểm ấy, em nói đúng. Nhưng chỉ một điểm ấy thôi. Hắn là kẻ đê tiện vì nhiều lẽ. Một trong những lẽ ấy là: vì tiền, hắn sẵn sàng tố giác bạn bè với Giextapô.

- Em không tin lời anh.

- Điều anh can ngăn em ấy, nếu gặp lại hắn, thì em cứ hỏi hắn. Là một đứa hết sức sa đọa, lại là một đứa loạn dâm cố hữu, chắc chắn hắn sẽ trả lời em; và là một đứa thích cụ thể, hắn sẽ trả lời một cách chi tiết.

- Không thể được, nếu thế thì quá bẩn thỉu.

- Với hắn thì cái gì cũng có thể được. Hắn chẳng đã nhận nuôi dưỡng một đứa bé Do Thái...

- Anh thấy chưa, anh ta đâu đến nỗi quá xấu.

-... Mà chỉ mấy tháng sau hắn mang tới cô nhi viện vì thấy thằng bé không có thiên tài. Hắn đã tước đoạt của cải của những người bỏ sang vùng tự do; hắn buôn vàng, ngoại tệ, ma túy. Cảnh sát Pháp bắt hắn hai lần, nhưng cả hai lần đều phải thả hắn ra.

- Anh ấy được đón tiếp trong các thính phòng, sách anh ấy được xuất bản, vậy anh giải thích những việc ấy thế nào?

- Hắn chẳng được đón tiếp ở đâu hết, trừ phi ở nhà những kẻ tối qua, nơi mà người ta sử dụng hắn, và ở nhà những tay buôn bán chợ đen. Còn sách của hắn thì xuất bản trước chiến tranh. Em hãy tin anh, em nên tránh mặt hắn. Hắn bôi bẩn tất cả những ai đến gần hắn.

- Nhưng ở Boócđô, anh ấy đã báo cho em biết là bác em...

Lêa bỏ dở câu nói và uống một chút vang để lấy lại bình tĩnh.

- Anh biết Ađriêng làm những gì, nhưng em thì không nên biết.

- Ai nói với anh về bác Ađriêng? Anh biết gì về bác ấy?

- Không biết gì hết. Thôi, cho qua. Còn em nói tiếp đi. Ông bạn Raphaen của em đã làm những điều tốt đẹp gì nào?

- Ở Boócđô, anh ấy đã nhường chỗ cho thân sinh của Xara Muynxtanh trên tàu Maxilia.

- Đúng thế, cô ấy có nói với anh. Quả là anh ngạc nhiên. Xara cũng giống em, cô ấy rộng lượng đối với hắn. Cô ấy bảo không phải mọi cái ở hắn đều xấu cả.

- Xara vẫn còn ở Pari hả?

- Vẫn còn. Cô ấy không muốn đi. Cô ấy chán không muốn bỏ trốn nữa.

- Điên à?

- Anh biết, mỗi lần gặp, anh đều nói với cô ấy. Nhưng từ khi ông cụ cô ấy mất, có một cái gì đó tan nat trong lòng cô ấy.

- Thế mà em không biết ông cụ mất.

- Ở Ange, cảnh sát của chính quyền Visy bắt giam ông cụ.

- Vì sao?

- Vì là người Do Thái và là người nước ngoài. Ông cụ không chịu nổi cảnh giam cầm. Ông già mệt mỏi ấy chỉ sống vì âm nhạc thôi. Một buổi sáng, người ta thấy ông chết trong xà lim.

- Anh yêu ông cụ lắm sao.

- Đúng, một con người đặc biệt. Một phần ưu tú nhất của nhân loại đã chết theo ông cụ.

Gianet bưng hai đĩa đầy thức ăn bước vào.

- Chúc ông bà ăn ngon miệng.

Lêa nhìn đĩa thức ăn. Hơi buồn nôn, nàng đặt tay lên trán.

- Lêa, anh biết em cảm thấy gì rồi. Lúc này, anh chưa thể nói gì với em hết. Em có yêu anh một cách mù quáng mới có thể tin anh được. Nhưng anh thấy rõ như thế là đòi hỏi em quá nhiều. Và quá sớm. Thôi em ăn đi! Ngày nay, ăn đã trở nên là một niềm vui hiếm hoi rồi.

- Nhưng không hiếm hoi đối với anh, rõ ràng như thế rồi.

- Em uống tiếp Chablix hay uống Caho?

- Caho?

Phrăngxoa đứng dậy, lấy cốc trên tủ bát đĩa và rót rượu vang đỏ cho cô gái.

Lúc đầu, Lêa chỉ nhấm nháp, nhưng dần dà, món gan ngỗng béo và rượu vang khiến nàng ăn ngon miệng.

Lấy một mẩu bánh mì chấm sạch thức ăn trong đĩa xong, ánh mắt nàng trở lại có phần dịu dàng như trước.

- Lêa, em giống như một con thú nhỏ, chỉ cần cho em ăn, vuốt ve em là em quên hết hiện tại.

- Anh đừng tưởng dễ dàng đến thế. - Nàng lầm bầm, miệng còn đầy thức ăn.

Mactơ Ăngđriơ bước vào, hai tay lau vào chiếc tạp dề màu trắng, theo sau là cậu con trai bưng một chiếc khay trên có đậy một cái chuông bằng bạc. Với một cử chỉ kiêu hãnh, bà nâng chuông lên.

- Thưa ông Phrăngxoa, mời ông ngửi xem. Đối với tôi thì cái hương vị này làm tôi xao xuyến, cả quê hương của tôi hiện lên trong ký ức. Tôi hình dung bà mẹ tội nghiệp của tôi đứng trước cái lò sưởi to tướng của trang ấp, xào nấu các món nấm. Không ai khéo làm các món ăn bằng nấm như mẹ tôi.

- Trừ bà, bà Mactơ tốt bụng ạ.

- Ồ! Thưa ông Phrăngxoa, không đâu, các món nấm của mẹ tôi ngon hơn nhiều.

Phrăngxoa Tavecniê mỉm cười trước biểu hiện ngây thơ của tấm lòng hiếu thảo, và thưởng thức món nấm được nấu nướng vừa với tài khéo tay vừa với tình yêu thương.

- Thưa bà, tôi chưa bao giờ ăn một món ngon đến thế. - Lêa vừa nói vừa lau cằm dính đầy mỡ.

Mactơ mỉm cười, thỏa mãn, và nói, cốt cho Phrăngxoa nghe, với vẻ đồng lõa và tinh nghịch:

- Khi một cô gái xinh đẹp thích ăn ngon là dấu hiệu tốt đây... Tôi xin tạm biệt ông bà, khách đang chờ tôi.

Một mình Lêa ăn ngấu hết cả con gà, nấm và khoai tây. Nàng uống cũng nhiều. Khoan khoái ngồi ăn, nàng quên hết cả lo âu và chỉ biết thưởng thức. Lêa không phản đối khi hai chân người đàn ông ôm lấy chân nàng cũng như khi ngón tay anh ta vuốt ve phía trong cổ tay nàng.

Nhà hàng đưa ra một chiếc đĩa pho mát cùng với xà lách. Lêa ăn ngấu nghiến pho mát trước ánh mắt hoan hỉ của Phrăngxoa. Chai Caho thứ hai gần cạn.

Ăn hết món sôcôla đánh kem bóng nhẫy, đặc quánh, nàng thấy đời thật đẹp.

Hơn một lần, Phrăngxoa cố kìm mình để khỏi nhảy bổ vào nàng và bế thốc nàng vào chiếc giường phía sau bình phong. Giờ đây, nàng hút một điếu xì gà nhỏ, nửa người ngả trên lưng ghế mà nàng đã đẩy ra xa bàn, đôi chân dài bắt chéo lên cao, để hở hàng đăng ten viền quần lót. Lim dim mắt nàng thưởng thức trọn vẹn những giây phút êm đềm này.

Nàng ghé mắt quan sát người tình. Nàng yêu mến sức mạnh toát ra từ người anh ta, ánh mắt khi trong sáng, khi âm u, khi âu yếm khi nghiêm khắc, khi khoan dung khi nghiệt ngã; nàng ngắm nhìn khuôn mặt có những nét đặc biệt, cái miệng rất đẹp, rất sành sỏi trong những nụ hôn. Nhớ lại đêm hôm trước, nàng rùng mình. "Mình thèm khát anh ấy." - nàng nghĩ bụng.

- Chúng ta... với nhau anh nhé!

Phrăngxoa mỉm cười. Thực ra anh chờ lời đề nghị ấy nhưng vì khôn ngoan, anh ta không muốn nói. Trên con đường tình ái của mình, anh ta ít gặp những người đàn bà có một thiên hướng ái ân một cách tự nhiên như nàng. Nàng yêu hết sức bột phát và theo lối hành lạc vui vẻ mà chắc hẳn mẹ nàng và các bà xơ ở tu viện Xacrê-Cơ tại Boócđô không hề truyền đạt lại cho nàng. Hơn nữa không bao giờ nàng mảy may sợ hãi phải mang thai. Nàng không biết gì hay không có ý thức gì về cái đó?

Phía sau tấm bình phong, một chiếc giường tối om. Anh ta nhẹ nhàng đặt nàng nằm xuống, âu yếm hôn mắt, hôn môi, hôn cổ nàng. Nàng thụ động để mặc. Bỗng nhiên, nàng ôm chặt anh ta, cắn ngập răng vào miệng anh ta.

- Anh làm cho em đau đi, chiếm đoạt em như ở Môngmôriông ấy.

Anh ta sung sướng cưỡng hiếp nạn nhân tự nguyện của mình.

Phrăngxoa đã chuẩn bị một chiếc giỏ chất đầy những đồ hộp ngon nhất của gia đình Ăngđriơ. An ta đưa cho Lêa mang về cho hai bà cô.

- Em trao cho hai bà giúp anh.

- Cảm ơn anh.

- Bao giờ anh gặp lại em?

- Em không biết, hai ngày nữa em sẽ về.

- Đã về rồi!

Giọng nói của anh ta làm nàng xúc động. Nàng đáp dịu dàng hơn:

- Sức khỏe ba em, sau khi má em mất, không cho phép em để ông lâu một mình.

- Anh hiểu. Nếu gặp lại bác Ađriêng, em chuyển giúp anh lời thăm hỏi tốt đẹp nhất của anh.

Câu nói làm nàng nhớ lại lời dặn của ông bác: "Nếu gặp vấn đề gì nghiêm trọng, thì cháu gọi điện hay báo tin cho Phrăngxoa Tavecniê". Anh ta có thể giúp được gì cho nàng khi anh ta có vẻ ăn ý hết mức như vậy với bọn Đức?

- Em sẽ nhớ, nhất là bác đã từng bảo em là khi cần thì tìm gặp anh.

Một nụ cười khoan khoái rạng rỡ trên khuôn mặt Phrăngxoa.

- Ông ấy nói đúng, em cũng nói với ông là không có gì thay đổi hết.

- Chào anh, em sẽ nói. Cám ơn anh về bữa ăn tối ngon tuyệt vời và cả về cái này nữa. - Nàng vừa nói vừa nhìn giỏ thức ăn - Bà Lida sẽ vui lòng lắm.

Ngày hôm sau, lên một cơn đau gan, Lêa nằm tịt trong buồng.

Hôm sau nữa, còn hơi xanh xao và choáng váng, nàng tới bảo tàng Grêvin. Mọi việc diễn ra đúng như Ađriêng dự kiến. Khi nàng trở về nhà ở đường Đại Học thì Xara Muynxtanh đang ngồi chờ.

- Phrăngxoa Tavecniê cho tôi biết là cô ghé qua Pari. - Chị nói và ôm hôn nàng - Tôi muốn gặp cô lắm.

Ôi! Xara thay đổi biết chừng nào! Chị vẫn đẹp, có lẽ còn đẹp hơn trước, nhưng trải qua một sự thay đổi nội tâm sâu xa làm biến đổi hoàn toàn nét mặt và ánh mắt chị. Lêa có cảm giác kỳ lạ là trong con người chị như có một con người khác. Như để khẳng định điều đó với nàng, Xara nói:

- Gần đây, tôi thay đổi tới mức tôi không nhận ra chính tôi nữa.

- Phrăngxoa cho em biết về ông cụ...

- Đúng, chúng ta đừng nhắc tới nữa, cô có muốn thế không?

- Thế còn anh ấy?

- Tôi mong cho nhà tôi là lúc này anh ấy đã mất.

Miệng Lêa bỗng đắng ngắt.

- Sau khi hành hạ anh ấy, chúng giam anh ấy vào trại tập trung. Tôi không rõ là trại nào.

Cả hai người im lặng một lúc lâu.

- Phrăngxoa bảo tôi là cô mến Raphaen Man; tôi cũng vậy; mặt dù tất cả những điều tôi biết về y. Nhưng cô phải cẩn thận, y có thể làm hại cả những người y yêu mến.

- Thế nhưng chị vẫn tiếp tục gặp ông ta?

- Trong hiện tình của tôi thì y có thể làm gì tôi? Tôi gặp y và y làm cho tôi băn khoăn, vì tôi muốn biết do đâu y lại có cái ác tâm và sự sáng suốt ấy. Vì sao lại tự tìm cách tự hủy hoại mình, tự khinh miệt mình, vì sao lại vừa thích nhún mình vừa tỏ vẻ hết sức kiêu ngạo? Tôi biết y có thể làm điều thiện, không có lý do, chỉ vì thích thú và ngay sau đó, chế giễu việc mình làm như thể muốn tự trừng phạt mình đã có một khoảnh khắc nhân hậu.

- Vì sao chị không rời bỏ nước Pháp?

- Tôi không rõ, tôi yêu đất nước này, tôi chán việc bỏ trốn. Vả lại, tôi không muốn đi quá xa nước Đức vì tôi cứ nghĩ bụng, mặc dù hoàn toàn phi logich, là nhà tôi có thể được giải thoát.

- Ít ra thì chị nên qua vùng tự do.

- Đúng, có lẽ như thế. Phrăngxoa muốn tôi đến ở nhà bạn bè anh, trong vùng Limudanh.

- Không, ở Âymôchiê, một thành phố nhỏ, không xa lắm.

- Mai đi Limôgiơ, chị có muốn đi với tôi không?

- Cháu đi làm gì ở Limôgiơ? - Bà Anbectin bỗng kêu lên.

Lêa ân hận về sự dại dột của mình, nhưng đã quá muộn. Nàng ứng khẩu:

- Ba cháu có một ông khách hàng thiếu tiền, ba cháu bảo cháu đến gặp.

- Nhẽ ra cháu phải nói với hai bà.

- Cháu xin lỗi hai bà, cháu quên khuấy mất. - Và nàng quay sang Xara - Thế nào Xara, chị đi cùng em chứ?

- Sao lại không? Ở đây hay ở chỗ khác, cũng thế thôi.

Có tiếng chuông ngoài cổng, cả bốn người im lặng.

Cánh cửa phòng khách nhỏ mở ra. Phrăngxoa Tavecniê bước vào.

- Anh làm chúng tôi sợ quá. - Xara kêu lên. - Tôi cứ tưởng là bọn Giextapô.

- Chính vì chúng mà tôi tới đây. Chị không thể quay về nhà Đônati: họ vừa bị bắt.

- Không!

- Chị phải đi thôi. Tôi mang theo đây cho chị giấy tờ và thông hành để chị qua vùng tự do.

- Nhưng tôi không thể ra đi như thế này được; quần áo không có, sách vở cũng không...

- Chị Xara, tôi biết, nhưng chúng ta không còn cách nào khác. Tối nay không còn chuyến tàu nào đi Limôgiơ nữa; sáng mai, đến bảy rưỡi mới có chuyến đầu tiên. Phải đi chuyến đó thôi. Đến Limôgiơ, sẽ có chuyến xe thư đi Âymôchiê. Bây giờ chị phải tìm một chỗ ngủ.

- Bà Muynxtanh có thể nghỉ lại đây. - Bà Anbectin lên tiếng - Rồi quay sang bà em, hỏi - Có phải thế không, Lida?

- Tất nhiên, rất sẵn sàng.

Phrăngxoa nhìn hai bà già độc thân với một nụ cười trên môi.

- Hai bà rộng lượng quá! Nhưng tôi phải nói là có thể nguy hiểm đấy.

- Thưa ông, xin đừng nói tới chuyện đó.

- Để tôi đi dọn giường. - Bà Lida bảo.

- Thưa bà, không cần đâu ạ. Cháu sẽ ngủ với Lêa, nếu cô ấy vui lòng. Như thế chúng cháu sẽ thức giấc dễ dàng hơn và không bị nhỡ tàu.

- Lêa đi Limôgiơ hả? - Phrăngxoa ngạc nhiên hỏi.

- Vâng, tôi bàn với chị Xara cùng đi với tôi khi anh chưa tới.

- Hai cô cùng đi với nhau, tôi càng yên tâm. Gay go nhất là lúc kiểm soát giấy tờ ở đường giới tuyến. Có hai người thì dễ dàng hơn. Lêa, tôi có thể nói riêng với cô một lát được không?

- Mời anh vào phòng.

Lêa ngồi trên giường, quấn mình trong mền.

- Anh không hỏi em, em sẽ làm gì ở Limôgiơ vì anh nghĩ em chẳng nói đâu. Nhưng anh van em, em phải thận trọng. Em có muốn giúp anh một chút việc không?

- Nếu em có thể.

- Anh muốn em cùng đi với Xara tới nhà mấy người bạn anh ở Âymôchiê. Chị ấy nói rất sõi tiếng Pháp, nhưng anh sợ giọng chị ấy làm cảnh sát Đức và cảnh sát Pháp nghi ngờ.

-Vì sao chúng muốn bắt chị ấy?

- Vì chúng bắt tất cả người Do Thái nước ngoài. Em nhận lời chứ?

- Vâng.

- Cảm ơn em.

Ngoài cổng lại vang lên tiếng chuông. Lêa vụt dậy, ra mở cửa. Raphaen Man ẩy nàng để vào.

- Xara đâu?

Sửng sốt Lêa đứng tựa vào tường. Miễn sao Exten vừa mới tới không nói gì hết.

- Ông muốn hỏi ai?

- Dĩ nhiên là tôi hỏi Xara Muynxtanh.

- Từ 1940, tôi không gặp chị ấy. Vì sao ông đến tìm chị ấy ở đây?

- Chị ấy mến cô lắm. Tôi có nói với chị ấy là cô đang ở Pari, tôi nghĩ là chị ấy tới thăm cô. Đã hai tiếng nay, tôi đi tìm chị ấy khắp nơi.

- Để làm gì?

- Để bảo chị ấy đừng về nhà, bọn Giextapô đang rình rập.

Lêa cố sức làm vẻ ngạc nhiên:

- Ồ! Lạy Chúa!

Raphaen ngồi phịch xuống chiếc ghế dài ngoài cửa.

- Chị ấy có thể ở đâu? Thế mà tôi không sao đứng tình trước cửa để báo cho chị ấy được. Như thế này cũng đã phiền phức cho tôi lắm rồi.

- Tôi ngờ là ông rất thân thiện với các ngài ấy cơ mà.

- Đúng, chừng nào tôi còn giúp ích được cho họ. Nếu họ biết được, chẳng hạn, là tôi tìm cách cho cô con gái Ixraen Ladadơ thoát khỏi nanh vuốt của họ, thì chính tôi sẽ là người phải vào trại tập trung thay cho chị ấy.

- Ông Raphaen tội nghiệp, tôi rất tiếc cho ông. Dầu sao, cũng là bạn bè của ông.

- Cô nói đúng. - Hắn đáp và đứng dậy - Cô đừng tiếc cho tôi, tôi chẳng xứng đáng đâu. Xin chào cô, tôi phải tiếp tục đi tìm. Nếu tình cờ gặp Xara, cô bảo giúp chị ấy đừng về nhà. Còn cô, cô gái xinh đẹp, cô vẫn về quê chứ?

- Vâng.

- Vậy xin chúc cô thượng lộ bình an. Thỉnh thoảng cô nhớ tôi chút ít. Tạm biệt cô.

- Tạm biệt ông Raphaen.

Trầm ngâm, nàng từ từ khép cánh cửa lại và nghe tiếng bước chân hắn xa dần trên bậc tam cấp.

- Hoan hô. - Phrăngxoa vừa nói vừa quàng vai nàng. - Em ghê thật.

- Anh thấy là anh ta không đến nỗi xấu như anh bảo.

- Có thể, nhưng anh vẫn ngờ lắm. Biết đâu lại chẳng là giăng bẫy?

- Không, em tin chắc anh ta thành thực.

- Tôi cũng vậy. - Xara bước ra khỏi phòng khách nhỏ và lên tiếng.

- Được, được. Dẫu sao, chúng ta vẫn phải thận trọng. Ngày mai, sẽ có người đến gặp và đưa các cô ra ga. Đến sáu rưỡi, người đó sẽ bấm chuông và nói: "Xe tắc xi đang chờ". Đấy là người đàn ông chở tắc xi mà thi thoảng tôi sử dụng. Ông ta sẽ lấy vé tàu cho các cô và ở ngoài ga với các cô cho đến khi tàu chạy... Xara, tôi phải đi. Chị hãy hứa với tôi là không mạo hiểm.

- Phrăngxoa, tôi sẽ cố gắng, tôi xin hứa với anh - Chị vừa nói vừa hôn anh - Cảm ơn, cảm ơn anh về mọi việc.

- Chừng nào hai người còn cùng đi với nhau, thì chị hãy chú ý tới Lêa. - Anh nói nhỏ với chị.

- Tôi xin hứa.

Đầu óc Lêa cực kỳ hoang mang: Phrăngxoa Tavecniê và Raphaen Man thực sự là ai? Và ngay cả Xara Muynxtanh nữa? Tất cả ba người này đều làm trò gì? Và cả bản thân nàng nữa, người ta cất giấu sách trong rạp chiếu bóng, nhặt tờ quảng cáo sách ở bảo tàng và sắp đáp tàu đi Limôgiơ cùng với một người đàn bà Do Thái bị Giextapô truy nã để đến một hiệu sách hỏi cuốn Bí mật thành Pari? Tất cả cái đó đều là điên rồ. Vì sao, nàng không khước từ nhiệm vụ bác Ađriêng phó thác? Nàng đang trầm ngâm suy nghĩ thì tiếng Phrăngxoa làm nàng giật nảy mình:

- Lêa, em đừng nghĩ ngợi nhiều quá. Không có câu giải đáp chắc chắn cho những câu hỏi của em đâu. Tất cả đều vừa đơn giản vừa phức tạp hơn nhiều, chứ không phải như em tưởng tượng đâu. Tạm biệt em, anh sẽ nhớ em lắm đấy.

Lêa cảm thấy như nhức nhối trong lồng ngực. Hết sức kinh ngạc, nàng nghĩ bụng: "Hình như xa anh ấy, mình đau khổ hay sao?". Bực dọc, nàng chìa má cho anh ta. Anh ta đặt một nụ hôn nhẹ tới mức hầu như nàng không cảm thấy.

Trời đã tối mịt khi người lái taxi đến gõ cửa.

Bây giờ binh sĩ Đức ở những nơi có đường giới tuyến trong vùng đều biết Lêa. Họ gọi nàng là: Das Madchen mit dem blauen Jahrrad, khi nàng từ vùng chiếm đóng trở về với một chiếc giỏ chất đầy trái cây trên cái đèo hàng: dâu tây, anh đào, đào hay mơ, mà không bao giờ nàng quên biếu bọn lính gác. Thông thường, dưới đống trái cây nàng giấu thư từ vừa mới lấy từ hòm thư lưu ở Xanh-Pie-đờ-Oriăc.

- Ê, ê! Cô có thư tình đây. - Người bưu tá già vẫn nói vui với nàng.

Để đảm bảo hơn, có khi nàng cuộn thư lại chồi vào trong cọc yên hay trong tay lái. Một hôm, một tên lính Đức đa nghi hơn đồng bọn, bảo nàng:

- Mở xắc và túi xách ra, cô mang thư từ chứ gì?

Lêa bật cười và mở túi ra:

- Nếu mang thư thì tôi giấu dưới yên xe, chứ làm gì có trong xắc.

Lêa sợ và bước lên xe, hai chân loạng choạng. Chưa bao giờ cái dốc Môngtônoa, nàng thấy dựng đứng đến thế. Thế nhưng nàng vẫn thích những buổi đạp xe như vậy qua các cánh đồng để thoát khỏi bầu không khí ở Môngtiac ngày thêm ngột ngạt vì tình trạng gần như mất trí của Pie Đenmax., vì sự giục giã ngày thêm khó chịu của Phaya để mua bằng được khu đất, vì những lời than vãn của Becnađet Butsactô về cậu con trai, vì sự có mặt ngày càng ít giữ gìn của hai sĩ quan Đức, và nhất là tính khí không sao chịu nổi của Phrăngxoadơ. Tiền bắt đầu thiếu một cách nghiêm trọng. Có bao nhiêu đồng dành dụm, bà Ruýt đã đưa hết cho nàng. Trước đó, Lêa gặp Luych, một ông bác giàu có. Ông bác luật sư, mà ai cũng biết thuộc phái thân Đức này, khuyên nàng nên bán cơ ngơi đi cho Phaya, vì cha nàng không còn chăm sóc được nữa và không có con trai để thừa kế.

- Nhưng còn cháu, và cả chị cháu, em gái cháu!

- Một người đàn bà!... Cháu nói như thể một người đàn bà có thể điều khiển nổi trang trại trồng nho ấy! Nếu muốn giữ Môngtiac thì cháu nên kiếm một tấm chồng có thể cáng đáng nổi công việc. Đối với một cô gái xinh đẹp như cháu thì không khó lắm đâu, dù không có hồi môn đi nữa.

Tái mặt vì tủi nhục. Lêa vẫn khẩn khoản:

- Thưa bác, chúng cháu còn trang trại của mẹ cháu ở Mactinic. Hết chiến tranh, chúng cháu có thể bán đi.

- Cháu ơi, tất cả cái đó rất bấp bênh. Biết đâu những vùng đất ấy lại không bị cộng sản chiếm đoạt, hay bọn Da đen cướp phá... Bác xin lỗi, bác có buổi hẹn gặp. Cháu chuyển lời bác thăm hỏi bố cháu. Tuần sau, bác tổ chức một buổi dạ tiệc cho chị họ cháu. Lôrơ và Phrăngxoadơ sẽ đến, còn cháu, cháu có định dự với bố con bác không?

- Không, cháu cảm ơn bác Luych. Cháu không ưa những người cháu gặp ở nhà bác.

- Cháu bảo sao?

- Bác biết rõ chứ! Bác tiếp tên chỉ huy quân bảo an Boócđô, và...

- Im đi! Bác muốn tiếp ai thì tiếp chứ. Bác thấy cháu chịu ảnh hưởng của cái ông Ađriêng khốn khổ rồi. Vừa hôm trước đây thôi, cha tu viện trưởng của ông ấy còn bảo bác: "Tôi cầu chúa cho ông linh mục khốn khổ của chúng tôi vào con đường ngay và mở mắt cho ông ấy thấy quyền lợi đích thực của nước Pháp là ở chỗ nào". Bác cho rằng Ađriêng phản bội đất nước và Giáo hội. Đối với gia tộc thì thật là nhục nhã có một người liên quan với bọn khủng bố! Nhờ ơn Chúa, không một ai ở đây rằng bác có thể đồng tình với những tư tưởng tai hại ấy. Vả lại, bác cũng đã nói với bạn bè là nếu tên phản bội ấy đến đây thì bác không ngần ngại tố giác hắn. Đối với bác, người anh trai ấy đã chết rồi.

- Đồ khốn nạn!

Luych Đenmax bước về phía Lêa, vẻ đe dọa:

- Mày có biết mày nói với ai không?

- Đối với tôi, ông cũng chết rồi, tôi nhổ vào xác chết của ông.

Nói là làm. Lêa nhổ vào mặt ông bác.

Với số tiền của bà Ruýt, nàng có thể cầm cự cho tới mùa nho.

Đến tháng bảy, Lôrơ trở về nhà, vẻ giận dỗi. Từ sau cuộc cãi vã giữa Lêa và ông bác Luych, cô bé không còn được ông ta đón về ngôi nhà đẹp đẽ nữa. Suốt ngày, cô đóng kín cửa buồng, ngồi một mình trong đó hoặc đi Lănggông, đến nhà cô bạn cùng ở một ký túc xá, con một ông công chứng viên.

Lêa cố gần gũi cô em gái mà nàng quý mến, nhưng cô bé khước từ mọi sự tiếp xúc. Với thái độ khiêu khích, Lôrơ đi dạo chơi trên các cánh đồng nho với Phrêđêric Hăngcơ, cười như nắc nẻ và cư xử với anh ta như một cô giá lẳng lơ.

Cùng trong tháng bảy 1942 ấy, Cami đưa đứa con nhỏ đến Môngtiac. Bọn Giextapô trục xuất mẹ con chị khỏi Rôsơ-Blăngsơ. Lôrăng bị tố giác là tay sai của Luân Đôn, trại ấp và tài sản bị tịch biên. Tên trung úy Đức quốc xã Phriêđric Vinhem Đôdơ đã hỏi cung chị rất lâu ở Boocđo. Hắn muốn biết chồng chị ở đâu. Hết sức bình tĩnh, chị nói là chị nhận được tin tức của các cơ quan Nhà nước. Đôdơ không bị đánh lừa, nhưng cho là cứ để cho chị đi vì hắn nghĩ sớm muộn Lôrăng đờ Acgila cũng tìm cách gửi thư hoặc về gặp chị.

Hằng tuần, ở bưu diện Xanh-Pie-đờ-Oriăc, Lêa nhận được thư của Xara Muynxtanh. Trong thư, chị kể lại một cách hài hước cuộc sống của mình ở Limôgiơ. Chị miêu tả với một vẻ hoạt kê đến não lòng vẻ mặt của dân cư Âymôchiê khi gặp chị đi dạo trên đường trong các thành phố nhỏ này với hình ngôi sao màu vàng thêu trên áo để tỏ lòng đoàn kết với những người Do Thái trong vùng bị chiếm.

"Giá tôi có trần truồng đi dạo thì họ cũng không có vẻ khó chịu hơn. Phần đông ngoảnh đầu di. Duy chỉ có một ông già cụt tay, bộ ria màu muối tiêu rậm rì như số lớn nông dân ở đây, ngực đeo huân chương, là bỏ chiếc mũ đen rộng vành ra và nói với tôi, giọng không vui: Già sẽ kiêu hãnh hơn nhiều nếu được đeo một ngôi sao như của cô thay cho tất cả những thứ vô tích sự mà già đã kiếm được ở Vecđoong này".

Trong một bức thư khác, chị chế giễu những biện pháp đối xử tàn tệ đối với người Do Thái:

"Sau khi cấm không cho chúng tôi có máy thu thanh, điện thoại, nay người ta lại cấm không cho chúng tôi đến tiệm cà phê, quán ăn, nhà hát, rạp chiếu bóng, buồng gọi điện thoại, bể bơi, bãi tắm, bảo tàng, thư viện, triển lãm, chợ búa và hội chợ, khu thể thao và cắm trại, trường đua, công viên... Tôi nghĩ họ cấm cả việc làm tình với một người không phải là dân Do Thái. Thực tế, bọn Đức quốc xã chỉ mơ ước một điều: cấm không cho chúng tôi hít thở, như thể sợ không khí chúng tôi thở ra làm cho giống người Đức thuần chủng bị Do Thái hóa".

Trong thư, chị thường nhắc tới Phrăngxoa Tavecniê, tới tình bạn của họ trước chiến tranh, tới lòng tin hoàn toàn của chị đối với anh ta. Chị tán thành việc Lêa muốn giữ Môngtiac lại và khuyên nàng nên thận trọng khi nói năng với Phaya.

Ngày 27 tháng bảy, Lêa nhận được lá thư cuối cùng của Xara. Nàng dừng chân dưới một gốc cây và xé phong bì.

"Khi em đọc thư này thì chị đã trở về Pari. Những sự kiện trong mấy ngày qua không cho phép chị giấu mình khi nhiều người trong chủng tộc chị bị đưa tới lò sát sinh. Có thể em không hiểu được tình hình, vì bộ máy kiểm duyệt hoạt động có hiệu quả. Sau đây là những sự việc mà chị được biết qua lời kể của một người bạn Do Thái và chị vợ anh, nhân viên của Vụ Do Thái.

Trong đêm thứ tư rạng ngày thứ năm, khoảng từ ba rưỡi đến bốn giờ, cảnh sát Pháp đã đập cửa hàng ngàn gia đình Do Thái người nước ngoài, đủ mọi nguồn gốc, và bắt họ. Một vài gia đình trốn thoát được, nhờ sự đồng lõa của những nhân viên cảnh sát thông cảm hoặc ăn tiền - Tiếc rằng số này quá ít. Những người khác, phụ nữ, trẻ em, người già, đàn ông, thậm chí cả người ốm, đều bị bắt đi với chút ít hành lý nhỏ nhoi được phép mang theo, những người yếu nhất thì đi bằng xe buýt, những người khác thì đi bộ. Khi họ đi qua, dân Pari quay đầu đi. Họ bị nhốt ở Trường đua xe đạp Mùa đông: 7000 trong đó có 4051 trẻ em! 6000 người khác bị dẫn đến trại Đrăngxy. Cảnh sát Pháp đã bắt 13000 người chỉ vì họ là người Do Thái!,,, Hình như các nhà chức trách Đức thất vọng: họ những mong ngóng bắt được 32000!... Để thoát khỏi cuộc lùng bắt ấy, nhiều con người khốn khổ đã tự tử. Nhớ lại những vụ sát hại người Do Thái lúc họ còn nhỏ ở Nga hay Ba Lan, nhiều phụ nữ đã bế con nhảy qua cửa sổ.

Người ta không chuẩn bị gì hết để đón đám người kia trong bảy ngày liền, họ chen chúc dưới mái tôn và mái kính dưới trời nắng chang chang, không có một ô cửa sổ, trong mùi hôi hám ngày càng khó chịu. Hố xí vốn không đủ, rất nhanh chóng trở nên vô dụng, những con người khốn khổ bì bõm trong một thứ bùn dơ dáy, nước dãi chảy dọc các bậc tam cấp. Sợ hãi và tủi nhục! Nhiều người bị bệnh chết vì không được chăm sóc. Chỉ có hai thầy thuốc được phép vào Trường đua xe đạp Mùa đông, nhưng mặc dù có mấy nữ y tá của Hội chữ thập đỏ, họ không sao đối phó nổi những vụ sảy thai, kiết lỵ, bệnh tinh hồng nhiệt... Chỉ có mười hai người là thoát chết. Ngày chủ nhật 19 tháng bảy, 1000 người, phần lớn là đàn ông, bị nhốt trong những toa tàu chở súc vật, đưa sang Đức.

Chị biết số phận chờ đón họ, nhưng kinh khủng quá, không ai muốn tin chị, kể cả những bạn bè Do Thái của chị, khi chị nói với họ. Thế mà mọt vài người bạn cũng đã từng đọc như chị cuốn Mein Kampf, và cuốn Sách trắng của Anh, cuốn này công bố năm 1939 ở Pháp, nói về trại tập trung Busenoan và về guồng máy hoạt động của nó bằng những chi tiết khủng khiếp. Họ cứ ngỡ như là những chuyện khoa học viễn tưởng ấy! Vả lại, họ đã vốn hết lòng tin tưởng ở nước Pháp!

Vì sao người Pháp lại là những kẻ đồng lõa với cái đời đời sẽ là một trong những nỗi sỉ nhục của nhân loại? Vì sao?

Qua các cuộc du lịch, qua các thứ tiếng chị nói, qua tri thức văn hóa bốn phương chị thu lượm được, không tin tưởng mà cũng không hành động trước tất cả những sự kiện ấy, trước kia chị cảm thấy mình là nữ công dân tự do của một thế giới. Bây giờ, chị là một người đàn bà Do Thái, và chỉ là một người đàn bà Do Thái mà thôi. Vì vậy chị đi gặp chủng tộc mình, biết rằng mình đi tới cái chết. Chị chấp nhận nó. Nếu có thể chiến đấu để cứu thoát một vài người trong số những người Do Thái ấy khỏi sự diệt vong, thì chị sẽ chiến đấu. Lúc đó, có thể chị sẽ cầu viện đến em. Chị biết là em sẽ không làm chị thất vọng.

Em thân mến, em phải hết sức giữ gìn, em còn trẻ lắm. Thỉnh thoảng, em hãy nghĩ tới chị, ý nghĩ của em sẽ động viên chị thêm can đảm. Chị yêu và hôn em. Xara".

Ở trang cuối cùng có viết thêm:

"Chị gửi kèm theo đây cho em một bài viết bẩn thỉu đăng trong tờ báo chống Do Thái Ô Pilôri ngày 23 tháng bảy 194, để không bao giờ em quên những gì mà Rơbatê, Xêlin, Stôbriawng, Bradiăc... đã dám viết... Em cũng chớ quên Phrăngxoa Tavecniê, bạn chị. Chị biết anh ấy yêu em và chị nghĩ chị không nhầm khi nói rằng em cũng yêu anh ấy, tuy em chưa biết. Em sinh ra là cho anh ấy cũng như anh ấy sinh ra là cho em".

Cột báo chị bạn gửi tới rơi xuống đất! Nó chỉ là một đoạn trong bài báo ký tên Giắc Buarô, đã thừng được phát đi.

14 tháng bảy 1942. Một tin tuyệt diệu được lan truyền trên các đường phố Pari. Đài phát thanh và truyền hình quốc gia cho biết: tên Do Thái cuối cùng vừa chết. Thế là chấm dứt cái chủng tộc nhơ nhớp ấy mà đứa đại diện cuối cùng sống từ khi ra đời ở vườn bách thú cũ trong rừng Vanhxen, trong một túp lều ổ chuột dành riêng cho hắn, và là nơi con cái chúng ta đã được nhìn thấy nó vùng vẫy như thể tự do, không phải cho vui mắt mà là để rèn luyện tinh thần cho chúng. Hắn đã chết. Xét cho cùng, như thế là hơn. Riêng bản thân tôi luôn lo sợ nó bỏ trốn, và ai mà biết được hết những tai họa mà một tên Do Thái có thể gây nên! Hắn sống một mình - cứ cho là thế đi từ khi vợ hắn chết, may sao mụ này vô sinh, nhưng với con vật dơ bẩn ấy, biết thế nào được. Tôi phải đến vườn thú để biết chắc tin đã đưa có xác thực không.

Một buổi sáng mùa hè tuyệt diệu, nóng vừa phải, bầu trời trong xanh, gió thổi nhẹ, đồng nho và ruộng lúa tạo thành trên cánh đồng một bức tranh màu xanh với những hình hình học. Trên cánh đồng cỏ chấm pha những nét sáng của đàn gia súc. Xa xa, gác chuông nhà thờ và mái nhà trong làng xóm tạo nên một phong cảnh hài hòa nhấp nhô những thung lũng chạy dài.

Lêa thức dậy, chưa vội đọc lá thư của bác Ađriêng. Nàng đạp xe mang thư từ đến Múac. Vecđơle và Liloay.

Trở về Môngtiac, nàng vào phòng trẻ em, đọc thư. Một lần nữa, ông bác khen ngợi nàng đã làm tròn nhiệm vụ ở Pari và Limôgiơ. Ông bảo nàng tối ào cũng đón nghe đài ở Luân Đôn: sẽ có lời nhắn nàng tìm gặp ông ở Tuludơ. Ở nhà hành chính, nàng sẽ nhận được thư chỉ chỗ gặp. Hai ngày sau khi nhận được mật hiệu trên đài: "Hoa viôlet nở trên đồi giá chữ thập." thì nàng sẽ khởi hành.

Lêa vừa đốt thư xong thì Cami bước vào.

- Tôi xin lỗi đã quấy rầy chị. Có thư từ gì gửi cho tôi không?

- Không, chỉ có thư của bác Ađriêng. - Nàng vừa nói vừa chỉ lá thư đã cháy hết - Và thư của Xara Muynxtanh báo tin chị ấy đã rời Âymôchiê.

- Để đi đâu?

- Đi Pari.

- Đi Pari! Chị ấy điên rồi!

- Đây, cô đọc đi, cô sẽ hiểu chị ấy hơn.

Ngày 2 tháng tám, Lêa nghe mật hiệu trên máy thu thanh. Trong những ngày nàng đi vắng, Cami sẽ đảm nhận việc thư tín.

Ở bưu điện Tuludơ, nàng nhận được mấy chữ ngắn gọn bảo nàng năm giờ chiều thì đến nhà thờ lớn Xanh Xecnanh sau khi dừng chân ở Nhà thờ Đức Bà ở Tôrơ.

Trời nắng ngột ngạt. Lêa vừa đói vừa khát. Nàng chỉ uống một chai nước chanh ấm ở quầy giải khát nhà ga. Rất ít người trên đường phố Baya và Rêmuysa, và cả trên quảng trường Capitôn. Lêa thấy ngôi nhà thờ trên đường Tôrơ như một ốc đảo trong một bãi sa mạc với những viên gạch nóng bỏng. Đôi mắt nàng mãi mới quen với cảnh tranh tối tranh sáng trong nhà thờ. Nàng bước tới gần bàn thờ bên cạnh một ngọn đèn con đỏ quạch. Trong đầu óc nàng lẫn lộn những lời cầu nguyện: Đức Chúa ở chốn thiên đường... Đức Bà Maria khoan dung... Đấng Cứu thế toàn năng... sống lại từ những người sống và những người chết... Đức Chúa Giêsu... Cầu xin giải thoát chúng con khỏi tai nạn...

Nàng đặt chiếc va li da vốn là của mẹ nàng và quỳ xuống, trong lòng vẫn thiết tha tin Chúa và mong được Chúa che chở. Nhưng nàng chỉ cảm thấy một nỗi buồn sâu lắng. Mới bốn giờ! Một bà già lê chân bước vào nhà thờ. Bà dừng lại trước mặt Lêa, nhìn chằm chằm nàng một lúc lâu rồi bỏ đi, miệng lầm bầm:

- Không được ăn mặc như thế trong nhà thờ.

Nắng hè gay gắt khiến nàng không nghĩ tới chiếc áo màu xanh để hở cổ. Nàng lục va li lấy ra một chiếc phu la quấn lên đầu và che bớt đôi vai. Như thế, nàng ít bị chú ý hơn.

Bốn rưỡi, Lêa ra khỏi nhà thờ và đi về phía đại giáo đường Xanh - Xecnanh. Trời vẫn nắng gay gắt, không có một hơi gió. Tiếng gót giày vang lên trên hè phố chật hẹp gập gềnh. Bỗng từ một cánh cửa khách sạn vụt mở, một người đàn ông bước ra, kéo nàng và ẩy xuống dưới vòm cửa.

- Nhưng...

Một bàn tay bịt miệng nàng lại.

- Im đi, cô đang gặp nạn đấy...

Trên đường Tôrơ, có tiếng chân người chạy, rồi tiếng người nói, rất gần:

- Bọn khốn kiếp, chúng không thoát nổi nữa đâu...

- Đừng vội khoe thành công đến thế, bọn Do Thái chết tiệt ấy láu lỉnh lắm.

- Đồng ý, nhưng ông chủ còn láu lỉnh hơn chúng.

- Có đúng là những lão tu sĩ giúp chúng không?

- Người ta bảo tớ thế, nhưng tớ thì biết chắc chúng chỉ là những tên cộng sản cải trang thành cha cố.

- Thế nhưng lão tu sĩ dòng Đôminic bị bắt hôm qua là một cha cố đích thực.

Vẫn đứng sát người đàn ông giữ chặt mình, Lêa bắt đầu run rẩy.

- Để còn xem. Nếu quả là một tên cộng sản thì dù có là cha cố, hắn cũng phải đi đời thôi. Đã giúp bọn Do Thái thì đừng có tu hành.

Một hồi còi dài vang lên trên phố.

- Thôi đi!

Hai gã đàn ông tiếp tục chạy. Rồi có tiếng kêu, tiếng chửi, tiếng súng và... im lặng.

Hai mắt nhắm tịt, Lêa dựa vào cánh cửa.

- Đi, chúng ta sẽ qua hầm rượu.

- Tôi van ông, ông nói cho tôi biết có phải bác tôi bị chúng bắt không.

- Tôi không rõ. Hôm qua Lêcuyxăng và bọn tay sai giăng bẫy bắt những người Do Thái cùng những người dẫn đường. Tôi biết có một linh mục cùng đi với họ.

- Ông ấy như thế nào?

- Tôi không rõ. Thôi ta đi, khu phố sắp bị bao vây đấy.

- Một câu hỏi nữa. Làm sao ông biết là tôi qua đây?

- Tôi được lệnh bảo vệ cô từ nhà thờ Đức Bà ở Tôrơ cho tới lúc đi qua đại giáo đường, tôi nhận ra Lêcuyxăng và hai tên tay sai; tôi nghĩ có thể chúng có mặt ở đấy là vì cô. Cô hiểu rồi chưa? Bây giờ cô đi thôi nhé!

- Vâng.

- Cô đưa va li cho tôi. - Người đàn ông vừa nói vừa cặp vào nách khẩu súng ngắn.

Hai người bước vào tòa biệt thự qua một ô cửa nhỏ, bước xuống bậc tam cấp và đến trước một ô cửa khác. Người đàn ông lấy chìa khóa mở cửa. Trong một thời gian mà Lêa cảm thấy như vô tận, họ đi qua những cái hành lang ngoắt ngoéo sụt lở, những cầu thang ọp ẹp, lên lên, xuống xuống, chui dưới những cái vòm lộng lẫy có ánh sáng điện. Hổn hển, Lêa dừng bước.

- Chúng ta ở đâu thế này?

- Ở dưới lầu Capitôn. Trong vùng Tuludơ cổ, rải rác có nhiều tầng hầm. Một số mang tiếng xấu vì trong thời Tôn giáo pháp đình, người ta dùng chúng làm phòng tra tấn. Nhưng trải qua các thế kỷ, nhiều hầm được dùng làm nơi trú ẩn. Từ đầu chiến tranh, cùng với vài ba đồng chí, chúng tôi đã củng cố, sửa sang, dọn dẹp lại và mở cửa thông với nhau.

Hai người im lặng đi một lúc nữa. Rồi, theo một lối hẹp mà khi đi qua phải cúi đầu, họ bước vào một căn phòng thênh thang xây gạch màu hồng với những cái vòm nhọn tuyệt đẹp và những bó đuốc sáng rực cắm trong nền cát. Sững sờ, Lêa đứng bất động, ngẩng đầu lên nhìn cái vòm theo kiểu cấu trúc gôtích, và từ từ quay tròn. Không thấy một ô cửa nào khác ngoài ô cửa họ mới đi qua. Ánh sáng lung linh càng làm tăng thêm vẻ bí ẩn và lộng lẫy của căn phòng.

Khi cúi xuống, Lêa nhìn thấy dọc các bức tường những chiếc bàn, những cái hòm, những tấm phản trên đó có một số người đàn ông đang nằm, quần áo xoàng xĩnh, có những người rất trẻ.

- Cô ngắm xong chưa? - Người bạn đồng hành hỏi Lêa.

- Tuyệt thật!

Một người bước tới gần.

- Sao anh đưa cô ấy tới đây?

- Thưa đồng chí chỉ huy, tôi nghĩ không có cách nào khác: tôi không thể để cô ấy rơi vào tay Lêcuyxăng. Đồng chí biết chúng làm gì đối với đàn bà chứ?

- Misen, anh khỏi lo, tôi xin đảm bảo cho cô ấy.

Ôi! Giọng nói...

- Ông bạn, nếu ông chịu trách nhiệm thì được.

- Tôi xin chịu trách nhiệm.

- Lôrăng!...

Hai bàn tay nắm lại và áp lên môi, Lêa vừa hoan hỉ vừa bàng hoàng nhìn người đàn ông mà nàng yêu thương tiến lại phía mình. Anh thay đổi biết chừng nào!

- Đúng, anh đây, Lêa!

- Lôrăng! - Nàng nhắc lại.

Anh kéo nàng lại và ôm vào vòng tay mình.

Giờ đây, đối với Lêa, không còn có gì tồn tại trên đời này ngoài cái sức ấm đang lan tỏa trên người nàng, cái hơi thở mơn man trên cổ nàng, cái giọng nói thầm chỉ gọi tên nàng. Nỗi hân hoan vẫn nguyên vẹn, khi Misen bảo họ:

- Đêm nay, cô ấy có thể ở lại, nhưng từ ngày mai, cô ấy phải đi thôi.

Ngày mai có quan hệ gì đối với nàng; cái quan hệ là giờ đây, vì giờ đây, nàng biết là anh yêu nàng, mặc dù anh hỏi:

- Cami và bé Saclơ có khỏe không?

- Khỏe. Như anh đã biết đấy, hai mẹ con cô ấy đến ở Môngtiac từ khi Giextapô kiểm soát Rôsơ- Blăngsơ. Bé Saclơ rất dễ thương, cháu giống anh lắm. Nó rất yêu em, em nghĩ thế.

- Ai mà chẳng yêu em? Làm sao anh có thể nói hết nỗi lòng anh cảm ơn em về tất cả những gì em làm giúp bọn anh?

- Thôi đi anh, tất cả những gì của em đều là của anh. Và mãi mãi như thế.

- Anh sợ sẽ phiền lụy tới em đấy.

- Chừng nào đại úy Crame còn ở trong nhà thì chẳng phiền lụy gì hết.

- Sao em có thể tin như thế được? Đã từng có bao nhiêu vụ tố giác?

- Ai sẽ tố giác chúng ta? Mọi người đều quen biết và yêu mến chúng ta.

- Em cả tin thật! Ngày nào cũng có những đồng chí bị xóm giềng, thậm chí cả bạn bè tố giác.

- Trong lúc ẩn náu ở phố Tôrơ, em nghe nói là có một tu sĩ dòng Đôminic bị bắt.

- Em yên tâm, không phải bác em đâu, mà là một người bạn của ông ấy, linh mục Bông đấy.

- Nhưng có thể lúc nãy chúng bắt bác em ở trong nhà thờ lớn.

- Chúng không bắt ai hết. Nhưng chắc chắn là có kẻ tố giác ông ấy.

- Thế bây giờ em phải làm gì?

- Trước mắt, em cứ nghỉ ngơi.

- Em vừa đói vừa khát.

- Em ngồi đây.

Lôrăng để Lêa ngồi vào bàn trên một chiếc thùng. Lát sau, anh mang một liễn xúp lớn, một ổ bánh mì, một giỏ đào, một chai vàng và hai chiếc cốc. Lêa vồ lấy ổ bánh mì đã ăn dở và hít sâu hương thơm ngọt ngào của bánh.

- Làm sao các anh có bánh thế này? Bánh của bọn em vừa đen vừa dai nhằng.

- Về cái ăn, bọn anh rất gặp may. Các bà nông dân ở chợ quảng trường Capitôn cung cấp thịt, bánh nhân mặn, rau xanh, pho mát và trái cây. Một ông già làm bánh ở Caraman cung cấp bánh mì và một người trồng nho trong vùng Vilơmuya thì cung cấp rượu vang. Lúc nào có tiền thì bọn anh trả. Đường dây của bọn anh không có mấy tiền bạc. Rồi đây đông thêm người thì sẽ thành vấn đề.

- Có tiếng ồn gì thế anh?

- Máy của bọn anh đấy. Bọn anh in phần lớn báo chí bí mật của vùng Tacnơ, Garon, Hêron và Ôđơ, lại thêm cả truyền đơn, phiếu thực phẩm giả và các thứ giấy tờ giả mạo.

- Nhưng nguy hiểm lắm!

- Bọn anh rất thận trọng và ở đây thực tế không có gì đáng ngại cả.

- Nhưng ở đây, các anh hoàn toàn bị bưng bít; chẳng khác nào một nhà giam.

- Em đừng nghĩ như vậy. Đây là cả một hệ thống đường đi lối lại vô hình, đường ngầm, bẫy sập, và cả hầm có nắp đậy nữa. Lòng đất Tuludơ, một trong số người trong bọn anh biết từ thuở nhỏ.

- Nếu họ biết, - Lêa cắt ngang lời Lôrăng - thì những người khác cũng có thể biết.

- Đúng thế, và chính vì vậy nên bọn anh đã bịt những chỗ ra vào quen thuộc nhất, dễ dàng nhất.

- Thế còn lối ra vào ở phố Tôrơ?

- Đêm nay, người ta sẽ đánh sụt đất để bịt lại.

Vừa nói chuyện, Lêa vừa cắt một lát bánh mì to tướng và phết patê lên.

- Ngon quá.

- Anh chưa hề thấy ai ăn như em. Có thể nói tất cả ở em, vật chất lẫn tinh thần, đều tham gia vào bữa ăn.

- Anh thì không à? - Lêa hỏi lại, miệng vẫn nhồm nhoàm.

Lôrăng bật cười.

- Không, anh chắc là không.

- Thế là anh sai lầm. Mặc dù lúc này anh đang gặp may thì phải. Anh cũng giống như Cami. Cô ấy hầu như chẳng ăn gì hết. "Tôi không đói", nghe thật khó chịu khi bụng thì lép kẹp.

Nàng mỉm cười và chìa cốc ra.

- Anh rót cho em và chúng ta chạm cốc nào.

- Chạm cốc chúc mừng cái gì?

- Chúc mừng chúng ta. - Nàng vừa nói vừa nâng cốc.

- Chúc mừng chúng ta... và chúc mừng thắng lợi.

- Thế còn tôi, không ai mời tôi uống à?

Một người đàn ông, quần áo lôi thôi, đứng cạnh họ.

- Bác Ađriêng!

- Cha Đenmax!

Ađriêng bật cười trước vẻ sửng sốt của họ.

- Chào hai cháu. - Ông vừa nói vừa ngồi xuống một mặt hòm.

Lêa đưa ông một cốc vang, ông uống hết một hơi, và nói tiếp:

- Bác sợ khiếp vía khi thấy nhà thờ lớn bị theo dõi. Nếu chúng bắt được cháu thì bác đến ân hận suốt đời.

- Giắckê ghê thật. - Lôrăng nói thêm. - Cậu ta đã kịp đón cô ấy về tận đây.

Lêa không ngớt chăm chăm nhìn ông bác.

- Nếu gặp bác trong bộ quần áo thế này thì chắc hẳn cháu không sao nhận ra được và phải bỏ chạy thôi.

- Cháu không thích bác cải trang như thế này sao? Tuyệt vời đấy chứ. Bác hòa lẫn hoàn toàn vào đám đông những người khốn khổ đứng xin bố thí trên sân nhà thờ Xanh-Xecnanh.

Quả là không sao nhận ra được nhà truyền giáo thanh nhã mà những lời giáo huấn được tín đồ trên thế giới truyền tụng, ông tu sĩ dòng Đôminic mà mọi người dân Boócđô đều biết: ông cải trang thành một tên du đãng, cáu bẩn, râu ria lem luốc, chiếc quần kỳ dị buộc bằng một sợi dây, chiếc mũ phớt nhợt nhạt, méo mó, chân không tất xỏ trong đôi giày lính khủng khiếp.

- Thưa bác, cháu chưa thấy bác để râu bao giờ.

- Chính bác cũng ngạc nhiên kia đấy, bác chưa bao giờ nghĩ là mình già nua đến thế này. Cháu hãy nghe kỹ bác nói: bác không thể nán lại đây lâu, bác phải đi, đêm nay có bố trí một vụ nhảy dù. Bác bảo cháu tới đây vì nhiều lý do. Lôrăng, cháu cứ ở lại, không có gì là bí mật với cháu đâu. - Ông quay sang nói với Lôrăng rồi lại tiếp tục bảo Lêa - Càng ngày cháu càng phải thận trọng. Bọn chúng sẽ tăng cường việc kiểm soát các đường giới tuyến. Cháu lại phải đi tận Côđrô để chuyển thư. Chủ sự và cô gái ở bưu điện đều là người của chúng ta. Cami và cháu sẽ đi lần lượt và năm lần thì đi cùng với nhau một lần. Thỉnh thoảng, phải trao thư tận tay. Trong trường hợp ấy, ông bà Đơbray sẽ chỉ dẫn cho cháu. Nếu ngày mai cháu nghe trên đài Luân Đôn câu: "Xinvi thích món nấm Pari", thì câu đó nghĩa là đừng đi Côđrô nữa. Cháu sẽ nhận được báo và truyền đơn qua bưu điện để mang đi phân phát. Cháu có mang tới đây một chiếc va li con phải không?

- Nó kia. - Lêa vừa nói, vừa chỉ va li.

- Tốt lắm. Những thứ cháu sắp mang đi là thứ nguy hiểm đấy. Cháu có thể từ chối không mang. Nếu có một người khác thay cháu thì bác không nhờ tới cháu.

- Thứ gì thế hả bác?

- Một cái đài thu-phát mà cháu phải mang đến tiệm Ôlive ở Lănggông.

- Ở đấy nhan nhản sĩ quan Đức cơ mà!

- Chính vì thế mà đấy là địa điểm lý tưởng. Sau khi ở đấy trở về một hôm, cháu sẽ bỏ máy vào chiếc giỏ cháu vẫn thường dùng đi mua sắm và buộc lên cái đèo hàng sau xe đạp. Hôm ấy là phiên chợ. Cháu sẽ đi sớm và có thể mua đủ thứ: rau xanh và hoa quả. Cháu sẽ như thể tình cờ gặp Coocđô, ông già lo công việc tiếp phẩm của tiệm Ôlive mà cháu đã biết. Ông ấy sẽ hỏi thăm tin tức cha cháu và bảo cháu là ông có chút quà mọn cho con gái người bạn cố tri của ông. Hai người vừa nói chuyện vừa đi tới khách sạn. Tới đấy, ông ấy sẽ mang giỏ của cháu đi. Khi ông ấy trả lại thì giỏ sẽ nhẹ hơn nhưng thấy nó vẫn đầy như cũ. Dĩ nhiên cháu sẽ thấy ba cái âu thịt vịt ướp mỡ và một âu đựng nấm.

- Nghe bác nói, cháu thèm đến rỏ dãi. Vì thịt vịt ướp mỡ. - Lêa vừa đáp vừa mỉm cười - Cháu sẵn sàng làm bất cứ việc gì.

- Cháu sẽ cảm ơn Coocđô nhiệt liệt và ra về. Khó nhất là ở ga Lănggông. Trưởng ga là một người có cảm tình với chúng ta, nhưng bác vẫn không muốn nói rõ với ông ta.

- Cháu quen ông ấy, cháu vẫn thường mang thư của con trai ông tới cho ông. Hễ trông thấy cháu là ông ấy tìm cách làm cho bọn hiến binh và hải quan đi ra chỗ khác. Chắc sẽ ổn cả thôi. Ông ấy sẽ gửi xe đạp cho cháu và giúp cháu buộc va li.

- Bác thấy có thể ổn đấy. Lôrăng, cháu nghĩ thế nào?

- Cháu cũng thấy như thế.

- Nhưng dẫu sao người sẽ sử dụng máy phát cũng không phải là ông lão Coocđô, phải không bác?

- Không, một nghệ sĩ dương cầm đã từ Luân Đôn nhảy dù xuống tối qua.

- Một nghệ sĩ dương cầm?

- Đúng, đó là cách gọi người phát tin.

- Người đó ở đâu?

- Cháu không cần biết. Cháu chỉ cần tiếp xúc với Coocđô. Nếu cần truyền đi một tin tức mà cháu cho là quan trọng thì cháu báo cho ông lão, ông ấy sẽ tin cho bác và sẽ nói lại với cháu cháu phải làm gì. Cháu đã hiểu rõ chưa.

- Đã.

- Nếu bị bắt, cháu đừng làm kiểu anh hùng, mà cố gắng hết sức kéo dài công việc hỏi cung ra để bác có thì giờ bàn cách hành động.

- Cháu sẽ cố gắng.

- Việc khác: trong vòng bất hợp pháp, tên bác là Anbe Đuyvan. Bây giờ bác phải đi có việc.

Ađriêng Đenmax đứng dậy và nhìn chòng chọc một lát vào mắt cô cháu gái.

- Bác Ađriêng, bác khỏi lo, mọi việc sẽ đâu vào đấy. - Lêa nói và sà vào vòng tay ông.

- Cầu Chúa phù hộ cháu. - Ông bảo và quay sang Lôrăng - Tạm biệt Lôrăng.

- Tạm biệt cha.

Sau khi ông tu sĩ đi ra, Lêa và Lôrăng im lặng một lúc lâu, Lêa ghé sát tai Lôrăng:

- Hố xí đâu anh?

- Em sẽ thấy là không sao đâu. Em cầm lấy chiếc đèn điện này. Đi hết hành lang thứ hai bên phải, rồi lại rẽ phải, thì gặp một căn buồng: hố xí đấy. Chiếc xẻng trong đó dùng để xúc cát lấp lại, giống như kiểu mèo ấy.

Khi Lêa trở lại thì Lôrăng đang thử cò cây súng ngắn.

- Những căn hầm kỳ lạ thật. Anh đưa em đi xem nào.

Lôrăng lấy một cây đuốc và hai người bước qua các lỗ trong tường.

- Phòng này chỉ có một lỗ ra vào thôi à? - Lêa hỏi.

- Không, còn một lỗ nữa, nhưng đến bước đường cùng mới được dùng.

- Em thích có nhiều chỗ ra vào cơ, em có cảm giác bị nhốt thực sự. Còn anh thì không thấy thế à?

- Quen đi thôi. Nhưng anh ít khi ở đây. Em đến đây nhìn các bức tường này.

- Những dòng chữ ghi trên tường để làm gì thế?

- Căn phòng này đã được dùng làm nhà giam ở nhiều thời kỳ khác nhau.

Lêa đọc:

"1763, đã năm năm rồi; 1848, Anêli, anh yêu em; nhà vua muôn năm, cái chết muôn năm".

Rồi hỏi:

- Lúc nãy anh nhắc tới Lêcuyxăng là ai thế?

- Là một cựu sĩ quan Hải quân, quê ở thượng Garon. Ngày đình chiến, hắn sang Anh. Sau vụ Mexen-Kêbia, hắn bị người Anh bắt giam, sau đó trở về Pháp. Hắn là một tên ngạo mạn, cực kỳ chống Anh và chống cộng, nhưng vẫn không có nghĩa lý gì so với tinh thần chống Do Thái cuồng nhiệt của hắn. Anh kể cho em nghe câu chuyện này thì em sẽ rõ: bọn sinh viên chống Do Thái ở trường Đại học y khoa Tuludơ đã tặng hắn một chiếc huy hiệu Đavit lằm bằng da thuộc lấy trên xác người Do Thái.

- Khủng khiếp thật.

- Khi say rượu, hắn thích thú chỉ chiếc huy hiệu và bảo: "Da ở mông đấy". Chính hắn đã được Xaiviê Valat bổ nhiệm làm giám đốc Do Thái vụ Tuludơ. Đã một năm nay, cùng với một lũ cũng dơ bẩn như hắn và được hắn nuôi dưỡng cực kỳ sang trọng, hắn săn đuổi người Do Thái và những người khủng bố.

Hai người im lặng bước đi một lát.

- Anh ở chỗ này đây: mấy cuốn sách, một ít chăn nệm và một cây đèn dầu. Anh đến đây khi cảm thấy cần tĩnh tâm hay sao một công việc khó khăn. - Lôrăng vừa nói vừa kéo một tấm màn gió đã bạc màu.

Một căn phòng rất bé, chỉ trổ một cái cửa hình vòng cung nhọn, nền đất rải một lớp cát mịn. Lỗ chỗ trên tường bằng gạch màu hồng có những vết đạn bắn. Chỗ ngủ của Lôrăng trong một góc. Lêa quỳ xuống trên đống chăn nệm, ánh mắt bỗng nhiên chăm chú nhìn anh cắm cây đuốc vào cát: anh bỗng có vẻ bối rối, khổ sở.

- Anh lại đây với em.

Anh lắc đầu.

- Anh lại đây, em van anh.

Miễn cưỡng, anh bước tới. Lêa kéo anh và anh ngã quỳ xuống cạnh nàng.

- Từ khi tới đây em chỉ ngong ngóng được ở một mình với anh.

- Không nên.

- Vì sao? Anh yêu em và em yêu anh. Có thể ngày mai, anh bị bắt, bị thương hay... Em không thể chịu được là không hoàn toàn thuộc về anh, là chỉ có vài nụ hôn làm kỉ niệm. Không... anh đừng nói gì hết, vì anh chỉ nói những điều dại dột hoặc tệ hơn nữa, những điều chán ngấy. Chỉ là nhân tình của anh không thôi, em thấy cũng chẳng sao. Em muốn anh là người yêu của em vì anh không muốn là chồng của em.

- Em đừng nói nữa...

- Vì sao em lại không nói? Thèm muốn anh và nói với anh điều đó, em thấy chẳng có gì xấu hổ. Chiến tranh đã làm thay đổi nhiều lắm thái độ của bọn con gái chúng em. Trước kia, có lẽ em không dám nói thế với anh... Mặc dù... Không, có lẽ em cũng không khác mấy đâu: có lẽ cũng như hôm nay, em vẫn nói với anh là em yêu anh, em muốn làm tình với anh, và không một ai, không có gì có thể ngăn cản em.

Lêa cởi tấm áo dài màu xanh nước biển.

Lôrăng không sao dời mắt khỏi cái thân hình lộng lẫy kia, cái bộ ngực có sức thu hút đôi bàn tay kia. Làm sao có thể cưỡng lại những ngón tay khéo léo kia đang mở khuy áo sơ mi anh rồi đến thắt lưng anh? Anh đứng dậy và nhẩy lùi ra phía sau.

- Lêa, chúng ta không nên.

Nàng trườn trên đầu gối đến cạnh anh.

Ánh sáng ngọn đuốc, cái vòm tò vò muôn thuở, lớp cát nàng chậm rãi trườn trên đó như một con thú nắm chắc con mồi, mái tóc xõa tung, cặp vú khẽ đung đưa, lưng uốn cong lại với cặp đùi thon thả, tất cả khiến người đàn ông trước mặt nàng có cảm giác đang ở buổi bình minh của lịch sử khi người đàn bà nguyên thủy chọn bạn đời của mình.

Khi hai bàn tay mạnh khỏe và run rẩy bíu chặt lấy anh, Lôrăng không cưỡng lại nữa.

Anh những muốn sự vuốt ve ấy kéo dài mãi mãi nhưng vẫn dứt ra khỏi. "Không đâu!" Lêa kêu lên.

Nhưng tiếng kêu phản đối nhường ngay cho tiếng kêu hoan lạc khi anh thâm nhập thịt da nàng.

Lớp cát trắng dính vào cơ thể im lìm của họ khiến hai người như những pho tượng đá. Lêa mở mắt đầu tiên, quay sang nhìn người yêu vừa âu yếm vừa kiêu hãnh: anh đã thuộc về nàng, thực sự thuộc về nàng. Cami tội nghiệp! Cô ấy có nghĩa lý gì đối với tình yêu của nàng và chàng! Từ nay, không có gì có thể chia rẽ họ nữa. Thế nhưng nàng như cảm thấy một nỗi thất vọng mà nàng không sao hiểu nổi vì đâu. Chưa bao giờ nàng hoàn toàn phó thác tới mức đấy. Không phải nàng chỉ hiến dâng thể xác cho Lôrăng, mà là cả linh hồn nàng nữa. Không phải như đối với Phrăngxoa hay Machiax. Với họ, chỉ thịt da nàng hiện diện, nhưng với người đàn ông nàng yêu thương này, chỉ có con tim nàng được thỏa mãn. Sau cơn hoan lạc, anh tỏ ra dịu dàng, âu yếm quá âu yếm, quá dịu dàng nên không thỏa mãn được dục vọng của nàng. Một lần nữa, nàng lại muốn được anh chiếm đoạt, muốn bàn tay anh mang lại vừa khoái cảm vừa đớn đau, muốn thịt da anh khuấy động thịt da nàng không thương tiếc; nhưng một nỗi thẹn thùng đột ngột không cho phép nàng đòi hỏi anh.

Chàng đẹp biết chừng nào với mái tóc màu hung, với những đường nét thanh tú trên khuôn mặt, với sắc da láng bóng. Hai mắt nhắm lại, trông chàng như một đứa trẻ. Khi chàng mở mắt, nàng hết sứ hoan hỉ.

- Em yêu, em tha lỗi cho anh. - Chàng thì thầm, đôi môi lướt nhẹ trên cổ nàng.

"Tha lỗi cho anh? Sao? Anh điên rồi!". Nàng nằm dài bên người chàng trong lòng dâng lên một niềm hạnh phúc vô biên. Hai ánh mắt bắt gặp nhau trong say sưa, chìm đắm. Một niềm khoái cảm khiến Lêa rùng mình.

Bỗng có tiếng gọi, đưa họ trở về thực tại.

- Tôi đến ngay. - Lôrăng đáp lại và khẽ ẩy Lêa ra.

Nàng vẫn bíu chặt lấy chàng.

- Em yêu, anh phải đi đây. Em có thể nghỉ lại đêm ở đây không? Em có sợ không?

- Không. Nhưng anh có nhất thiết phải đi không?

- Phải đi.

Lôrăng vội vã mặc quần áo, một bộ quần áo giống như của một công nhân nông nghiệp: màu xanh lẫn màu nâu, và một chiếc mũ bêrê. Không còn một chút dấu vết của chàng trai trang nhã mùa hè 39 đã từng cùng nàng dạo chơi trên những nẻo đường vô tận trong khu rừng ở Lăngđơ.

- Anh đẹp trai lắm.

Anh mỉm cười, cúi xuống sát nàng.

- Em yêu, anh muốn em biết rằng không bao giờ anh có thể quên những giờ phút chúng ta vừa sống với nhau, mặc dù anh cảm thấy xấu hổ đã lợi dụng tình thế và tình cảm của em đối với anh.

- Nhưng, chính em,...

- Anh biết, nhưng anh không nên, đối với cả em lẫn Cami.

- Nhưng anh không yêu cô ấy; chính em mới là người anh yêu.

- Đúng, anh yêu em. Anh nghĩ là em không thể hiểu tình cảm của anh đối với Cami. Cô ấy vừa là em gái anh, con gái anh, vừa là vợ anh. Cô ấy yếu đuối, cô ấy cần có anh và anh biết là anh không thể sống thiếu cô ấy. Em đừng nhìn anh như thế. Anh muốn em hiểu rằng Cami và anh cùng một loại người, cùng yêu mến những điều giống nhau, cùng thích những cuốn sách như nhau, cùng có một cách sống như nhau...

- Anh đã từng bảo em như vậy. Anh sẽ thấy, em sẽ đổi thay: em sẽ yêu những gì anh yêu, em sẽ đọc những cuốn sách anh đọc, sẽ sống theo cách của anh, em cũng sẽ là em gái anh, con gái anh, vợ anh và người tình của anh. Em sẽ là một người đàn bà làm việc thiện nếu anh thích. Em có thể làm mọi việc để giữ anh lại với em.

- Em đừng nói nữa, em làm anh sợ.

- Anh hèn nhát hay sao?

- Đối với em thì đúng.

- Em không muốn thế, em muốn anh dũng cảm, muốn bao giờ cũng được chiêm ngưỡng anh.

- Anh sẽ cố gắng không làm em thấy vọng. Em ngủ đi, sáng mai, em sẽ phải dậy sớm. Em hứa với anh là không làm điều gì khinh suất đi.

- Em xin hứa. Giờ đây em là bất khả chiến thắng! Anh cũng vậy, anh phải thận trọng, em sẽ không tha thứ cho anh đâu nếu anh xảy ra chuyện gì.

Hai người chỉ hôn nhau một nụ hôn, nhưng gửi gắm vào trong đó tất cả những gì họ không nói thành lời.

Đặt tay lên tấm màn gió, Lôrăng đứng lại, quay về phía Lêa nhưng không nhìn nàng.

- Em chớ quên là anh phó thác Cami cho em. Em hãy trông nom cô ấy. Anh có thể trông cậy vào em, phải không em?

Lôrăng đi trên cát không nghe tiếng chân bước. Bầu không khí im phăng phắc, trước đây, Lêa chưa nhận thấy tới mức này. "Sự im lặng trong nấm mồ". - Nàng thầm nghĩ, rồi rúc vào mền.

Khi được đánh thức, nàng có cảm giác như vừa mới ngủ và sẽ không bao giờ dậy nổi nữa vì người đau như dần!

Giăckê, chàng trai dẫn đường Lêa hôm trước, đưa nàng ra ga, mang giúp nàng va li và túi du lịch. Anh dễ dàng tìm cho nàng một chỗ ngồi trong toa tàu hạng ba. Anh chuồi va li dưới gầm ghế và bỏ túi vào tấm lưới trên đầu.

Họ đến sớm nên có thì giờ để đi lại trong hành lang và hút thuốc. Đã vài tháng nay, Lêa quen hút, một phần vì Phrăngxoadơ để thuốc là khắp nơi: nàng kiếm được thuốc không khó khăn gì.

- Tôi không cho va li lên giá vì tôi sợ cô không bỏ xuống nổi, còn nếu có người giúp thì họ sẽ thấy nó nặng một các khác thường. Trong túi du lịch, dưới lớp pho mát và xúc xích, có truyền đơn và những số báo Giải phóng và Liên minh của chúng ta. Cô sẽ cho lưu hành trong vùng. Đây là số ngày 23 tháng 6, trong đó có in lời tuyên bố của tướng đờ Gôn. Nếu cô chưa đọc thì nên đọc, có ích đấy.

- Thế anh muốn chúng bắn chết tôi à?

- Nếu xảy ra như vậy đối với một cô gái xinh đẹp như cô thì tiếc lắm. Trên tàu, có hai đồng chí chúng tôi, họ sẵn sàng can thiệp trong trường hợp lâm nguy. Nếu thấy có nguy cơ bị bắt thì cô bỏ mặc hành lý. Họ sẽ đánh lạc hướng để tẩu tán đi. Nếu bị hỏi thì cô cứ bảo là cô bị mất trộm. Cô hiểu chứ?

- Tôi hiểu.

Một tiếng còi vang lên.

- Tàu khởi hành đấy. Chúc cô may mắn.

Chàng trai nhảy lẹ xuống.

Cúi người qua cửa sổ, Lêa vẫy tay một lúc lâu.

- Phải xa người tình thì buồn thật! - Một giọng nói người Đức cất lên sau lưng nàng.

Lêa quay lại, hai chân bỗng mềm nhũn.

Nhưng viên sĩ quan người Đức tươi cười bước qua sàn tàu bề bộn không nói gì thêm. Tim đập rộn ràng, nàng quay lại ngồi vào ghế.

"Đến ga Lănggông rồi". Loa phóng thanh nhà ga vang lên "Đây là đường giới tuyến. Tàu dừng bánh bốn lăm phút. Mời tất cả hành khách mang hành lý xuống".

Lêa để mọi người xuống trước. Chiếc va li nặng quá! Giá ông trưởng ga Lôriô có mặt trên sân ga! Đứng trên bậc lên xuống, nàng cố tìm xem có ai quen trong đám đông đang chen chúc không; và tay cầm giấy tờ, nàng chờ người ta kiểm soát. Bỗng nàng thấy mấy nhân viên hải quan Đức bước lên những toa tàu đã hết khách để lục soát. Một sĩ quan cùng đi với họ.

- Trung úy Hăngcơ.

- Cô Lêa! Cô làm gì ở đây?

- Chào trung úy. Tôi nhìn xem có ai quen không để nhờ giúp tôi xách chiếc va li rất nặng này.

- Để tôi giúp cô. Quả là nặng thật. Cái gì ở trong va li vậy, nặng như chì ấy?

- Ông nói gần đúng. Một khẩu đại bác tháo rời ra đấy!

- Cô đừng đùa những chuyện như thế, ngày nào người ta cũng bắt được những kẻ chuyên chở những thứ bất hợp pháp.

- Thế sách có thuộc những thứ bất hợp pháp không?

- Có một số.

- Hôm sau tôi phải hỏi ông là những cuốn nào.

Đang nói thì họ ra đến cửa ga. Lêa làm như muốn đi về phía người ta đang lục soát hành khách nữ.

- Es ist nutzlich, Fraulein, das Madchen ist mit mir. - Hăngcơ bảo một trong hai người phụ nữ kiểm soát.

Lôriô bước tới trên sân ga:

- Chào cô Đenmax, để tôi đi lấy xe đạp cho cô. Chào ông trung úy.

- Chào ông Lôriô. Tôi phải trở ra sân ga. Ông giúp cô Đenmax cho hành lý lên xe đạp - Hăngcơ vừa nói vừa trao va li cho ông...

Trung úy Hăngcơ đã nói sõi tiếng Pháp.

Chiếc xe đạp mất thăng bằng vì chiếc va li và cái túi du lịch, chòng chành không ngớt. Thở hổn hển, mặt đỏ gay gắt, Lêa bước xuống xe và đẩy về nhà. Người nàng gặp đầu tiên là ông bố. Ông như đang trong tâm trạng cực kỳ bối rối: nàng cố dựa xe vào tường để lấy lại hơi thở.

- Quân khốn nạn... đồ dòi bọ... Idaben sẽ đuổi cô đi thôi...

- Gì thế ba!

- Má con đâu? Ba phải nói chuyện với bà ngay lập tức.

- Nhưng thưa ba...

- Không có "nhưng thưa ba" gì hết, con đi tìm má đi. Ba cần nói với bà một điều quan trọng.

Lêa đưa tay lên vầng trán đẫm mò hôi, trong người bỗng rã rời vì cơn mệt mỏi vừa trải qua: ông bố đòi mẹ nàng đã quá cố, chiếc va li nặng trình trịch, Lôrăng với cuộc ái ân, trung úy Hăngcơ mang hành lý giúp nàng, cái vòm hầm kiểu gôtich ở Tuludơ, ông bác ăn mặc rách rưới, chiếc huy hiệu bằng da người Do Thái và Cami đang dang tay về phía nàng... Nàng khuỵu xuống dưới chân Pie Đenmax.

Lêa mở mắt, thấy đầu mình đặt trên gối bà Ruýt, còn Cami thì đang vỗ vỗ bên thái dương nàng với một chiếc khăn ướt chị thấm nước lã trong một cái thau trên tay Lôrơ. Hai mắt nàng trừng trừng vì kinh hoàng, cha nàng vừa khóc vừa hỏi Phaya:

- Sao, con bé con tôi không chết chứ? Nếu nó chết thì mẹ nó sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi đâu.

- Xin ông đừng lo. - Bà Ruýt nói - Chỉ là say nắng thôi. Ai lại trời nắng thế này đi xe đạp không nón mũ gì cả!

- Không sao cả đâu, ba, ba đừng lo. Lôrơ, em chăm sóc ba cho chị.

Lêa chỉ khó chịu một lát. Cami dìu nàng dậy rất nhanh.

- Tôi ân hận đã làm mọi người lo sợ. Bà Ruýt nói đúng: chỉ vì nắng thôi mà. Va li và xắc của tôi đâu rồi?

- Phaya mang vào nhà.

- Nhanh lên, phải theo kịp ông ta.

Họ gặp ông lão trong bếp.

- Cô Lêa, tôi không biết hành lý cô có những gì mà nặng thế. Để tôi mang lên phòng cho cô.

- Không, cảm ơn ông để tôi tự mang lấy.

- Nhưng, nó quá nặng đối với cô đấy.

Lêa không dám nói thêm sợ ông lão nghi ngờ. Nàng đi theo lão vào trong phòng trẻ con.

- Cảm ơn ông Phaya, cảm ơn nhiều lắm.

- Có gì đâu, thưa cô.

Cami và Ruýt bước vào. Ruýt mang theo một cái cốc.

- Cô uống cái này đi cho đỡ mệt.

Lêa im lặng uống.

- Bây giờ cô đi nằm nghỉ.

- Nhưng...

- Đừng bàn cãi gì cả, có lẽ cô bị say nắng đấy.

- Bà đừng sợ, bà Ruýt, để tôi lo cho chị ấy. Bà xem ông Đenmax thế nào rồi.

Lêa nằm trên giường, mắt nhắm lại để khỏi nhìn thấy Cami:

- Từ khi chị đi, tôi sợ quá, không ngủ được. Hễ thiếp đi là thấy chị và Lôrăng gặp tai nạn, khủng khiếp quá!

Vừa nói, Cami vừa cởi tất và vuốt ve đôi chân Lêa. Nàng muốn kêu lên và đứng dậy:

- Tôi có gặp Lôrăng ở Tuludơ.

Cami đứng bật dậy.

- Chị may mắn quá. Anh ấy có khỏe mạnh không? Chị nói những gì với anh ấy?

Một ý nghĩ độc ác dâng lên trong lòng Lêa. Có nên nói hết, nói rõ nàng và Lôrăng yêu nhau không? Vẻ mệt mỏi và căng thẳng trên gương mặt nhỏ nhắn của Cami ngăn nàng lại.

- Anh ấy rất khỏe. Anh nhờ tôi nói với cô là anh ấy rất nhớ cô và bé Saclơ, dặn cô đừng lo lắng gì cho anh.

- Làm sao tôi không thể lo lắng cho anh ấy được.

- Tôi cũng gặp bác Ađriêng. Bác ấy giao cho tôi một nhiệm vụ và có những chỉ thị mới cho tôi về chuyện thư tín.

- Tôi có thể giúp chị trong công việc được không?

- Không.

- Tôi lo lắng về ba chị. Từ tối hôm qua, bác thay đổi hẳn: đe dọa, chửi bới... Tôi cố nói chuyện với bác, hỏi bác xem có chuyện gì, nhưng bác chỉ nhắc đi nhắc lại: "Idaben sẽ bảo cho". Tôi ngỡ có lúc bác cãi vã với Phaya, như vẫn thường xảy ra, nhưng Phaya cam đoan với tôi là cuộc cãi vã cuối cùng xảy ra từ tuần trước. Cả bà Ruýt lẫn bà Becnađet đều không biết gì hết; còn Phrăngxoadơ thì trực ở bệnh viện đã ba ngày nay. Hình như chỉ có một mình Lôrơ biết tình hình, nhưng cô bé không chịu nói gì hết và nấp kín trong buồng, tôi nghe cô ấy khóc.

- Để tôi đi gặp nó xem sao.

- Chị hãy nghỉ đã.

- Không, tôi linh cảm có điều gì nghiêm trọng. Tôi sợ cho ba tôi.

Lêa đi tìm em gái khắp nhà nhưng không thấy đâu hết.

Mãi đến bữa ăn tối, Lêa mới gặp Lôrơ. Hai mắt cô bé đỏ ngầu. Không có ai thấy đói. Lêa không ngớt nhìn bố, ông có vẻ bình tĩnh hơn, nhưng một vẻ bình tĩnh hầu như đáng lo ngại hơn cả sự hốt hoảng buổi chiều. Vừa ăn xong, Lêa khoác tay em gái kéo đi.

- Em đi một vòng với chị, chị muốn nói chuyện với em.

Lôrơ lúc đầu muốn thoái thác nhưng rồi đành nghe lời. Hai chị em bước ra mái hiên. Cả vùng thung lũng như im lìm trong ánh nắng mặt trời còn rất nóng. Họ ngồi lên bức tường nhỏ dưới bóng cây đậu tía.

- Có việc gì xảy ra mà ba bị kích động đến thế?

Lôrơ cúi đầu. Hai giọt lệ rơi xuống hai bàn tay đặt lên đầu gối.

- Em đừng khóc nữa. Em nói cho chị biết tình hình gì đã xảy ra.

Lôrơ ôm choàng lấy cổ chị gái và nức nở.

- Không bao giờ em dám nói đâu, nhất là với chị.

- Vì sao, nhất là với chị.

- Vì chị không thể hiểu đâu.

- Hiểu cái gì?

Lôrơ càng nức nở.

- Em nói đi, chị van em,, em hãy nghĩ tới ba.

- Ồ! Cái nghiêm trọng nhất không phải là về ba.

"Con bé muốn nói gì?". Bực mình, Lêa lắc mạnh em.

- Thế là thế nào? Có gì nghiêm trọng hơn vậy.

- Phrăngxoadơ - Cô bé lúng túng.

- Phrăngxoadơ...

- Phrăngxoadơ và Ôttô.

- Phrăngxoadơ và Ôttô? Em nói cho rõ nào, chị không hiểu gì cả.

- Hai người muốn cưới nhau.

- Cưới nhau?

- Vâng. Hôm qua, ông đại úy đã tìm đến ba.

- Chị hiểu. Và dĩ nhiên ba từ chối chứ gì.

- Em chắc như vậy, em biết là chị sẽ không hiểu đâu và Phrăngxoadơ không hy vọng được chị giúp đỡ gì đâu. Em bảo chị ấy như vậy nhưng chị ấy nhắc đi nhắc lại: "Em nhầm rồi, Lêa có kinh nghiệm dấy, chị ấy biết thế nào là tình yêu đấy". Em bảo không phải thế, vì chị chưa biết gì về tình yêu cả, còn nếu muốn được khuyên nhủ và giúp đỡ thì Phrăngxoadơ nên gặp chị Cami.

Thái độ táo bạo của Lôrơ làm Lêa kinh ngạc.

- Ngoài mảnh đất Môngtiac ra, em biết chị chẳng yêu gì hết. Anh Machiax tội nghiệp biết rõ điều đó. Và cũng chính vì vậy mà anh ấy đã ra đi.

- Em đừng để Machiax dính dáng gì vào đây hết. Đây là chuyện yêu đương bẩn thỉu của Phrăngxoadơ với một tên Đức.

- Về điều này nữa, em cũng biết chắc... Chị chỉ tin tướng đờ Gôn của chị và những kẻ khủng bố mà ông ta phái từ Luân Đôn về để phá hoại đường dây điện thoại, đánh sập xe lửa và giết hại những người vô tội.

- Giết hại những người vô tội! Kẻ thù xâm chiếm nước ta, làm cho dân ta đói khát, cầm tù, lưu đày họ, mà mày bảo là vô tội ư? Nếu không có quân "vô tội" ấy thì má đã không chết, ba không điên, bác Ađriêng và Lôrăng không phải trốn tránh...

- Chính lỗi tại họ, họ là những kẻ phản loạn.

- Những kẻ phản loạn? Những người chiến đấu vì danh dự của nước Pháp mà là phản loạn?

- Đấy là những từ, những từ to tát trống rỗng. Hiện thân của danh dự nước Pháp là ngài Thống chế.

- Im đi, mày chỉ là một con bé dại dột, ngu ngốc. Thống chế của mày là kẻ đồng lõa với Hítle.

- Không đúng, ngài hy sinh cho nước Pháp.

- Hay ho thật, cái mà nước Pháp cần, là một quân đội trang bị đầy đủ và một thủ lĩnh tiếp tục cuộc chiến đấu.

- Chị thóa mạ một ông già.

- Thì đã sao? Nếu xử sự như một đứa khốn nạn thì một người già có quyền được tha thứ không? Trái lại, chị thấy như thế thì tội lỗi đến hai lần. Ông ta đã lợi dụng uy tín của vị anh hùng trong chiến tranh 14 để chịu cái nhục đình chiến hôm nay.

- Không có đình chiến thì hàng trăm nghìn người sẽ chết dưới bom đạn như má.

- Nói tới "Má", Lôrơ lại nức nở. Lêa ôm đầu em vào lòng.

- Có lẽ em nói đúng, chị không biết sẽ ra sao nữa. Trong trường hợp như thế này, giá có má thì má sẽ xử sự thế nào?

Hai chị em im lặng, đau đớn, đầu cúi thấp, hai chân buông thõng.

- Lôrơ này, Phrăngxoadơ mà lấy một người Đức em không thấy chướng hay sao?

- Có chút ít. - Cô bé công nhận. - Nhưng vì họ yêu nhau.

- Thì họ chờ cho hết chiến tranh.

- Không được.

- Sao không được.

- Vì Phrăngxoadơ chờ một đứa bé ra đời.

- Ồ! Không...

- Có.

Lêa đứng vụt dậy. Xa xa, dải đất đen sẫm vùng Lăngdơ chắn ngang chân trời. Từ dòng sông Garon bốc lên một làn sương mỏng nhẹ lan tỏa đến Lănggông.

- Tội nghiệp Phrăngxoadơ. - Nàng lẩm bẩm.

Lôrơ nghe thấy tiếng nàng.

- Chị Lêa, chị hãy giúp chị ấy. Chị hãy nói với ba; ba sẽ nghe chị đấy.

- Chị không tin. Bây giờ ba xa chúng ta quá rồi.

- Chị cứ thử xem, em van chị, chị cứ thử xem.

- Giá Phrăngxoadơ có nhà, chị có thể nói chuyện với chị ấy, hỏi xem thực sự chị ấy muốn gì.

- Chị hãy nói với ba đi. Cần được ba cho phép, nêu không, chị Phrăngxoadơ sẽ tự tử đấy.

- Em đừng nói những điều dại dột.

- Không phải dại dột đâu. Em cam đoan với chị là chị ấy tuyệt vọng đấy.

- Chị hứa với em là sẽ làm hết sức mình. Bây giờ, em để chị suy nghĩ. Em đi tìm chị Cami cho chị.

- Em đi đây.

Rồi, sau một thoáng ngập ngừng, Lôrơ hôn má chị.

- Cảm ơn Lêa.

Lát sau, Cami đến gặp. Lêa nói vắn tắt tình hình với chị.

- Tôi thấy mình có lỗi. - Cami lên tiếng - Chúng ta đã không làm gì cả.

- Chúng ta có thể làm gì?

- Âu yếm chị ấy, để chị ấy thổ lộ tâm tình.

- Tôi biết tính chị ấy, dù thế nào đi nữa, chị ấy cũng chẳng thay đổi đâu. Mai, tôi đi chợ Lănggông; lúc về, tôi sẽ ghé thăm chị ấy ở bệnh viện, và theo những lời chị ấy cho biết, tôi sẽ nói chuyện với ba tôi. Tối nay, tôi mệt quá. Tạm biệt Cami.

- Tạm biệt, Lêa thân mến.

- Cô Lêa, cô nếm thử món thịt ướp này rồi cho tôi biết ngon dở ra sao. - Ông lão Coocđô vừa nói vừa trao chiếc giỏ cho Lêa.

- Cám ơn ông nhiều lắm, ba tôi chắc sẽ rất vui, ông cụ vốn thích ăn ngon mà.

- Cô cho tôi gửi lời chào ông cụ, tôi sẽ rất sung sướng nay mai được gặp cụ.

- Tôi sẽ nói. - Một lần nữa, rất cảm ơn ông. - Tạm biệt, ông Coocđô.

Lêa bước ra khỏi quán ăn, tay xách chiếc giỏ lớn trên đậy một tấm vải có sọc đỏ. Bên cạnh chiếc xe đạp của nàng dựng vào tường, có một người lính Đức.

- Cô để chiếc xe đạp đẹp thế này ở đây là không cẩn thận đấy. Nhiều kẻ trộm lắm, phải coi chừng.

- Cảm ơn.

Hai tay nàng run rẩy khi buộc giỏ vào cái đèo hàng, trong lúc người lính Đức tốt bụng giữ giúp xe.

Ngồi lên xe, nàng đạp thẳng tới bệnh viện.

Sân bệnh viện đầy xe cứu thương và xe nhà binh. Đến văn phòng, nàng xin gặp chị. Người ta bảo nàng là Phrăngxoadơ đang ở trong phòng cấp cứu, phía trong là bệnh viện. Nàng lại lên xe. Người nàng gặp đầu tiên là đại úy Crame. Anh ta đứng thẳng người chào nàng.

- Chào cô Lêa. Tôi sung sướng được gặp cô và nói lời vĩnh biệt.

- Vĩnh biệt?

- Phải. Tôi phải đi ngay Pari và ở lại trên đó. Một tiếng nữa thì tôi đi. Người hầu sẽ lo công việc cho tôi. Tôi nhờ cô chuyển lời chào của tôi tới bà đờ Acgila. Bà ấy là một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi không muốn lòng yêu nước dẫn bà ấy tới những hành động thiếu thận trọng. Nhờ cô thưa với ba cô là tôi lấy làm vinh dự được biết ông và hy vọng ông sẽ từ bỏ những thiên kiến của mình. Cũng nhờ cô cho tôi gửi lời chào cô bé Lôrơ dễ thương, bà Ruýt tận tụy và các bà cô nữa.

- Ông không quên ai cả đấy chứ?

- Tôi vừa mới từ biệt Phrăngxoadơ. Cô ấy cần tất cả tới tình yêu thương của cô. Tôi có thể trông cậy vào cô được không?

"Cả anh ta nữa! Đàn ông thật kỳ cục, họ cứ phó thác vợ hay người yêu cho mình." Lêa thầm nghĩ.

- Tôi sẽ cố hết sức mình, nhưng tình hình không tùy thuộc vào riêng một mình tôi.

- Tôi cảm ơn cô. Phrăngxoadơ không có ý chí như cô: cô ấy là người mềm yếu và chịu ảnh hưởng người khác. Cô đừng chê trách cô ấy. Tôi vẫn muốn được biết cô nhiều hơn, nhưng cô không cho phép tôi trao đổi một lời nào. Tôi hiểu cô. Ở địa vị cô, tôi cũng làm như vậy. Nhưng tôi muốn cô biết rằng tôi yêu nước Pháp mà tôi luôn luôn coi là một nước lớn ngang hàng với nước Đức. Sẽ có ngày hai quốc gia ấy hợp lại hòa bình cho thế giới. Chính vì thế mà chúng ta phải đoàn kết.

Lêa hầu như không nghe anh ta nói. Tệ hại nhất là anh ta thành thực.

- Cô không tin sao?

- Có thể tôi tin nếu các ông không chiếm đóng đất nước tôi và không săm đuổi những người không suy nghĩ giống các ông. Vĩnh biệt, đại úy Crame.

Lêa xách giở bước vào phòng y tá. Mọi người đang ngồi ở cuối phòng. Lêa tiến lại.

Ngồi giữa đám bạn bè, hai tay ôm đầu và khuỷu tay chống lên mặt bàn, Phrăngxoadơ đang khóc.

- Cô cần gì? - Một cô y tá hỏi.

- Tôi muốn gặp Phrăngxoadơ Đenmax, chị gái tôi.

- Chị ấy kia. Nếu cô an ủi được chị ấy thì chúng tôi biết ơn cô lắm.

- Hai chị em chúng tôi ngồi một mình được chứ?

- Dĩ nhiên. Nào, các cô, đã đến giờ làm việc lại rồi đấy. Cô Đenmax sẽ chăm sóc chị gái cô ấy.

Các cô y tá bước ra ngoài. Lêa đến cạnh Phrăngxoadơ vẫn ngồi im không nhúc nhích.

- Chị Phrăngxoadơ, chúng ta về nhà thôi.

Nàng đã nói đúng điều cần nói. Hai vai Phrăngxoadơ không rung lên nữa; một bàn tay rụt rè nắm lấy tay nàng.

- Chị không thể về, ba sẽ bảo sao.

Giọng nói như của một đứa trẻ lầm lỗi khiến Lêa xúc động hơn là nàng nghĩ.

- Chị khỏi sợ, em sẽ lo liệu. Chúng ta về thôi.

Lêa giúp Phrăngxoadơ đứng dậy.

- Chị phải thay quần áo đã.

- Quần áo chị để đâu?

- Trong ngăn tủ kia kìa!

Lêa đi lại mở ngăn kéo, lấy ra chiếc áo dài lụa hoa, túi xác và đôi giày đế liền của cô chị. Phrăngxoadơ vừa thay xong quần áo thì bà y tá trưởng bước vào.

- Cô cứ về, cô bé, tôi để cô nghỉ ngày mai.

- Cảm ơn bà.

Hai chị em đi ba cây số từ Lănggông đến Môngtiac, không nói với nhau một lời. Khi leo dốc, Lêa xuống xe còn Phrăngxoadơ thì tiếp tục đạp, người oằn bên này sang bên kia. "Chị ấy sẽ chờ mình." Lêa nghĩ bụng.

Trong bếp, Cami và bà Ruýt vừa dọn xong bữa ăn trưa.

- Có thấy Phrăngxoadơ đâu không?

- Có, cô ấy bảo để cô ấy lên đi ngủ - Bà Ruýt vừa đáp vừa rán khoai tây.

- Bà nhìn xem tôi mang cái gì về đây này để ăn với khoai tây.

- Thịt ướp! - Cả bà Ruýt lẫn Cami đều reo lên.

- Quà của ông lão Coocđô? - Bà Ruýt hỏi - Ông ta đâu có thói quen hào phóng như thế.

- Được, cứ thưởng thức cái đã. Chắc ba tôi sẽ bằng lòng lắm.

- Cái gì sẽ làm ba bằng lòng thế, con gái của ba? - Pie Đenmax cất tiếng hỏi khi bước vào bếp.

Trông thấy bố, Lêa giật mình. Ông thường rất chăm chút hình thức bề ngoài. Thế mà râu ông không cạo, áo sơ mi cáu bẩn và nhàu nát bỏ ngoài quần áo lấm bụi bẩn. Từ hôm qua, ông đã đổi thay biết chừng nào! Ông không còn ánh mắt xưa kia nữa. Ông có vẻ tuyệt vọng, tuy vẫn sáng suốt.

"Ba mình hiểu đã là má mất rồi." Lêa thầm nghĩ.

Nàng muốn ôm bố trong vòng tay, an ủi ông, nói với ông không phải là như vậy, bà Idaben sẽ ngày một ngày hai trở về, với một giỏ đầy hoa xách ở tay và với chiếc mũ rơm rộng vành. Nhưng nàng kìm mình lại được. Sức mạnh của kí ức dữ dội tới mức Lêa quay mình nhìn ra cửa. Thế là nàng bỗng hiểu ra rằng từ trong đáy lòng sâu thẳm nhất của mình, nàng đã từng phủ nhận cái chết ấy, và giờ đây khi cha nàng chấp nhận sự thực thì nàng hiểu ra rằng mình sẽ vĩnh viễn xa mẹ.

Lọ thịt tuột khỏi tay nàng, rơi xuống sàn nhà. Mọi người giật nảy mình.

- Con gái yêu của ba, sao con vụng về thế! - Pie Đenmax nói và cúi xuống nhặt các mảnh vỡ.

- Ông để đấy. - Bà Ruýt lên tiếng - Để tôi làm.

Lêa không nén nổi những giọt lệ lăn trên má. Bố nàng nhìn thấy.

- Có gì nghiêm trọng đâu con, sẽ nhúng lại thịt đi là được. Con lại đây hỉ mũi như lúc con còn nhỏ ấy.

"Trở lại thời bé nhỏ xưa, ngồi trên đầu gối bố, rúc vào áo bố như để trốn tránh, hỉ mũi vào chiếc mùi xoa của bố, cảm thấy hai cánh tay to lớn của bố và hít thở mùi thuốc, mùi hầm rượu, mùi da thuộc và mùi tóc quen thuộc của bố, trong đó quyện mùi thơm của mẹ."

- Ba...

- Xong rồi, con gái bé bỏng của ba. Có ba đây.

Đúng, bố nàng có đấy, rốt cuộc ông đã trở về giữa những người sống.

Nhưng sống trong những tấm thảm kịch nào và trong thời gian bao lâu.

Mọi người thưởng thức món thịt ướp mà bà Ruýt đã nhặt kỹ hết mảnh thủy tinh, trừ Phrăngxoadơ vẫn nằm trong phòng.

Trước bữa ăn trưa, Pie Đenmax đã cạo nhẵn mặt và thay quần áo. Trong suốt bữa ăn, cả nhà đã nhận thấy ông đã đột ngột trở lại là chính ông.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx