sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chiều bên kia cái biết - Phần 1-1

Tôi đã đọc sách của Thầy;

Tôi đã nghe Thầy.

Ngôn ngữ của Thầy duyên dáng quyến rũ và rất rõ ràng.

Đôi khi Thầy nói về Mahavira,

đôi khi Thầy nói về Phật

và đôi khi Thầy kể về Jesus và cả Mohammed nữa.

Thầy tiết lộ các bí mật của Gita theo cách thức cảm hứng nhất,

Thầy cho các bài nói về Upanishads và Vedas,

và Thầy sẽ không ngần ngại đi vào đền chùa

hay nhà thờ để cho bài nói.

Tuy thế, Thầy vẫn kiên định rằng Thầy không bị ảnh hưởng

bởi bất kì nhân cách nào được nhắc tới ở trên.

Thầy nói rằng Thầy chẳng liên quan gì tới họ

và Thầy không đồng ý với họ

Liên tục, Thầy phê bình và làm tan tành

từng mảnh những niềm tin và kinh sách tôn giáo cổ đại.

Mục đích của Thầy là gì?

Thầy có muốn thiết lập tôn giáo của riêng mình không?

Thầy có muốn chứng tỏ rằng Thầy có tri thức vô giới hạn không?

Hay Thầy muốn làm lẫn lộn mọi người?

Thầy nói và giải thích trong lời,

nhưng đồng thời Thầy lại nói rằng

"Các bạn sẽ chẳng đạt tới đâu bằng níu bám vào lời."

Thầy nói, "Đừng tin vào tôi cũng đừng níu bám lấy tôi;

bằng không các bạn sẽ phạm phải cùng sai lầm."

Thầy cũng nói rằng bản thân phủ định này là lời mời.

Xin Thầy giải thích Thầy là ai và là cái gì

và Thầy muốn làm và nói gì.

Ý định của Thầy là gì?

Trước hết, tôi không bị ảnh hưởng bởi Mahavira, Phật, Christ hay Mohammed. Chính cái đẹp của tôn giáo theo một nghĩa nào đó là nó bao giờ cũng cổ. Chính theo nghĩa này mà kinh nghiệm tôn giáo mới được biết tới cho nhiều người. Không kinh nghiệm tôn giáo nào theo cách người ta có thể nói rằng "Nó là duy nhất của tôi."

Có hai lí do cho điều này. Thứ nhất, với việc có kinh nghiệm tôn giáo, cái cảm giác về cái "của tôi" chết đi. Đó là lí do tại sao, trong thế giới này, công bố về cái "của tôi" có thể được đưa ra cho mọi thứ, nhưng không cho kinh nghiệm tôn giáo. Đây là kinh nghiệm duy nhất rơi ra ngoài quĩ đạo của cái "của tôi," bởi vì kinh nghiệm này có thể có chỉ trên cái chết của cái "của tôi." Đó là lí do tại sao lời công bố về cái "của tôi" có thể có đó cho mọi thứ, nhưng không cho kinh nghiệm tôn giáo. Không ai có thể nói rằng một kinh nghiệm như vậy là mới, bởi vì chân lí không mới không cũ.

Chính theo nghĩa này mà tôi nói về Mahavira, Jesus, Krishna, Christ và những người khác: họ có kinh nghiệm tôn giáo. Khi tôi nói rằng tôi không bị ảnh hưởng bởi họ, tôi chỉ ngụ ý rằng điều tôi nói bắt nguồn từ kinh nghiệm và tri thức riêng của tôi. Tôi nói về họ, tôi dùng tên họ, bởi vì điều tôi đã biết ăn khớp với điều họ đã biết. Nhưng với tôi tiêu chuẩn là kinh nghiệm của riêng tôi.

Với tiêu chuẩn đó tôi thấy họ đúng, và đó là lí do tại sao tôi dùng tên họ. Tôi đang nói điều tôi nói ra từ kinh nghiệm riêng của mình. Họ cũng chứng tỏ là đúng theo kinh nghiệm của tôi; do đó, tôi nói về họ. Họ là nhân chứng của tôi; họ là nhân chứng của kinh nghiệm của tôi nữa. Nhưng kinh nghiệm này không thể nào được gọi là mới. Vâng, theo một nghĩa khác, nó có thể được gọi là mới. Đây là điều khó hiểu và bí ẩn nền tảng của tôn giáo.

Kinh nghiệm tôn giáo có thể được gọi là mới bởi vì với bất kì ai mà kinh nghiệm này bừng lên, nó cũng tuyệt đối mới và xảy ra lần đầu tiên. Nó còn chưa xuất hiện trước đây. Nó có thể đã xuất hiện cho ai đó khác, nhưng cho người đã kinh nghiệm nó lần đầu tiên thì nó là mới. Nó cũng mới với người đó tới mức người đó không thể nào quan niệm nổi rằng một kinh nghiệm như vậy có thể đã xuất hiện cho ai đó khác.

Chừng nào mà kinh nghiệm này có quan hệ với tâm thức của một người, thì kinh nghiệm đó là lần đầu tiên. Kinh nghiệm đó mới lạ, tươi tắn đến mức bất kì ai kinh nghiệm nó cũng đều không bao giờ cảm thấy rằng nó có thể là cũ. Nó cũng giống như tươi tắn của bông hoa nở ra vào buổi sáng, cánh hoa ướt sương, những tia mặt trời đầu tiên rơi lên chúng. Nhìn vào bông hoa này, người có thể thấy nó lần đầu tiên không thể nói được rằng hoa này là cũ, cho dù mọi sáng hoa mới lại nở ra.

Mọi sáng giọt sương và tia mặt trời lại rơi vào bông hoa mới. Mắt ai đó có thể đã thấy những bông hoa này hàng ngày, nhưng bất kì ai đã thấy bông hoa này lần đầu tiên trong sự sắp đặt này đều thậm chí không thể nào nghĩ rằng hoa này có thể đã được thấy trước đây. Nó mới đến mức nếu người đó nói rằng chân lí không bao giờ có thể cũ, rằng nó bao giờ cũng mới và nguyên gốc, thì người đó cũng không sai.

Chúng ta nói rằng tôn giáo là cổ kính và vĩnh hằng bởi vì chân lí là vĩnh viễn. Nhưng tôn giáo cũng mới, bởi vì bất kì khi nào chân lí được nhận ra, kinh nghiệm đó là mới, tươi tắn, trong trắng. Nếu một người tin rằng tôn giáo là cũ hay nếu người đó tin rằng tôn giáo là mới, thì người đó sẽ không bị bất nhất với chân lí. Nếu người đó nói rằng chân lí là vĩnh hằng và kiên định rằng nó không thể mới, bạn sẽ không thấy người đó là bất nhất. Người khác, mặt khác, có thể gìn giữ rằng chân lí bao giờ cũng mới.

Gurdjieff, nếu được hỏi, sẽ nói rằng tôn giáo là vĩnh hằng và cổ đại; Krishnamurti, nếu được hỏi, sẽ nói rằng nó là tuyệt đối mới, rằng nó không bao giờ có thể là cũ. Nhưng cả hai người đều nhất quán.

Câu hỏi mà bạn hỏi tôi không thể được hỏi cho cả Gurdjieff lẫn Krishnamurti. Câu trả lời của họ sẽ chỉ là nửa chân lí. Nửa chân lí bao giờ cũng có thể nhất quán, nhưng toàn bộ chân lí bao giờ cũng bất nhất bởi vì trong chân lí toàn bộ thì cái đối lập cũng được bao hàm.

Một người có thể nói rằng ánh sáng và chỉ ánh sáng mới là chân lí. Thế thì người đó dốt nát về bóng tối và coi nó là giả. Nhưng chỉ bằng việc gọi bóng tối là giả, sự tồn tại của bóng tối không được phủ nhận. Người đó có thể nhất quán bởi vì người đó phủ nhận bóng tối và không bận tâm về sự tồn tại của nó. Triết lí của người đó có thể rõ ràng, trực tiếp và nhất quán như toán học. Trong triết lí của người đó sẽ không có điều bí ẩn. Tuy nhiên, người nào đó khác nói rằng có bóng tối và chỉ bóng tối ở mọi nơi, rằng ánh sáng chỉ là ảo tưởng, thì cũng có thể nhất quán.

Khó khăn nảy sinh với người nói rằng có bóng tối và có ánh sáng nữa. Người chấp nhận sự tồn tại của cả hai thì chấp nhận sự kiện rằng bóng tối và ánh sáng chỉ là hai đầu của cùng một điều. Nếu bóng tối và ánh sáng là hai thứ khác nhau, thế thì bằng việc tăng ánh sáng bóng tối phải không bị giảm đi, và bằng việc giảm ánh sáng thì bóng tối không được tăng lên. Nhưng thực tế là bằng việc tăng hay giảm ánh sáng, bóng tối có thể bị giảm hay tăng. Ý nghĩa là rõ ràng: rằng ánh sáng ở đâu đó là một phần của bóng tối và ngược lại. Cả hai là hai đầu của cùng một thứ.

Do đó, khi tôi cố gắng nói về chân lí toàn bộ, khó khăn là ở chỗ tôi dường như bất nhất. Tôi đang nói đồng thời hai điều dường như mâu thẫn. Tôi nói rằng chân lí là vĩnh hằng và cũng sai để gọi nó là mới; đồng thời tôi cũng nói rằng chân lí bao giờ cũng mới và không có ý nghĩa trong việc gọi nó là cũ. Khi tôi nói cả hai điều này cùng nhau, tôi đang cố gắng bắt lấy chân lí toàn bộ ngay một lúc trong tính đầy đủ hoàn toàn của nó.

Bất kì khi nào chân lí được nói trong tính đầy đủ của nó, trong nhiều nghĩa của nó, thế thì những phát biểu đối lập, bất nhất sẽ phải được tạo ra. Lí thuyết của Mahavira về syatavada chỉ là nỗ lực làm cân bằng các cái nhìn đối lập. Ngược lại với bất kì cái gì được nói trong câu đầu tiên, một phát biểu đối lập sẽ phải được đưa ra trong câu thứ hai. Theo cách này, cái đối lập, sẽ còn lại không được nói ra, cũng được bao hàm và được lĩnh hội.

Nếu cái đối lập bị bỏ đi, chân lí sẽ vẫn còn là không đầy đủ. Do đó mọi chân lí dường như rõ ràng và không mơ hồ đều là nửa chân lí. Bất nhất là cố hữu trong chân lí, và đó là cái đẹp và sự phức tạp của nó. Nhưng sức mạnh của nó nằm ở việc bao hàm các cực đối lập.

Điều thú vị là để ý rằng cái gì đó giả thì không thể bao gồm cái đối lập của nó được. Cái là giả chỉ có thể sống tại cực đối lập với chân lí, trong khi chân lí lại hấp thu trong nó các cái đối lập của nó. Đó là lí do tại sao cái giả không phải rất mơ hồ; nó là rõ ràng.

Cuộc sống như một toàn thể là dựa trên các cực đối lập. Trong cuộc sống không có gì xuất hiện mà không có tranh đấu của các cái đối diện, nhưng chúng ta cố gắng bằng tâm trí mình và lí trí của mình để xoá bỏ đi sự bất nhất. Lí trí của chúng ta là nỗ lực để trở thành nhất quán trong khi cái toàn bộ sẽ tỏ ra là bất nhất. Trong sự tồn tại, mọi bất nhất đều có đó. Chết và sống nhất định là cùng nhau.

Logic dường như mạch lạc bởi vì nó phân chia mọi thứ thành các cái đối lập. Với logic, sống là sống và chết là chết; cả hai không thể đi cùng nhau. Trong logic chúng ta nói rằng A là A, và nó không là B. Chúng ta nói sống là sống; nó không phải là chết. Tương tự, chết là chết; nó không phải là sống. Theo cách này chúng ta tạo ra khái niệm của mình mạch lạc và toán học, nhưng bí ẩn của cuộc sống bị mất đi. Đó là lí do tại sao bạn không thể đạt tới bằng lí trí. Một mặt là nỗ lực để nhất quán, và mặt kia, bởi chính bản chất của nó, lại bất nhất. Do đó bạn có thể đạt tới nhất quán qua lí trí. Bạn có thể lập luận giỏi, logic đến mức bạn không thể bị thất bại trong biện luận. Nhưng bạn sẽ lỡ chân lí.

Tôi không phải là triết gia hay nhà logic, nhưng tôi bao giờ cũng dùng logic. Tôi đang dùng điều này chỉ với mục đích đưa việc suy nghĩ của các bạn tới điểm mà bạn có thể bị đẩy ra khỏi nó. Nếu lí trí mà không vét cạn, người ta không thể vượt ra ngoài nó được. Tôi đang trèo lên chiếc thang, nhưng chiếc thang này không phải là mục tiêu của tôi; nó phải bị bỏ đi. Tôi dùng lí trí chỉ để biết cái ở bên ngoài nó. Tôi không muốn thiết lập bất kì cái gì bằng lí trí. Điều tôi muốn thay vì thế là chứng minh cái vô dụng của nó.

Phát biểu của tôi do đó sẽ bất nhất và phi logic. Chừng nào mà chúng còn có vẻ logic, xin hiểu rằng tôi đang chỉ dùng một hệ thống để làm cho chúng có vẻ như vậy. Tôi đang chuẩn bị căn cứ cho điều theo sau. Tôi đang chỉnh nhạc cụ, âm nhạc vẫn còn chưa bắt đầu.

Nơi lằn ranh giữa lí trí và vô lí trí bị mất đi chính là nơi cái nguyên bản, âm nhạc duy nhất của tôi bắt đầu. Ngay khi nhạc cụ đã hài hoà, âm nhạc sẽ bắt đầu. Nhưng chớ hiểu lầm việc chỉnh đàn là âm nhạc; bằng không điều đó sẽ gây ra khó khăn. Bạn sẽ hỏi, "Vấn đề là gì vậy? Trước đây thầy đã dùng cái búa cho trống. Sao thầy không dùng nó nữa?" Nhưng búa chỉ là để điều chỉnh trống, không phải để đánh trống. Một khi trống đã được chỉnh rồi, búa thành vô dụng. Trống không thể được đánh bằng búa.

Theo cùng cách này, lí trí chỉ là việc chuẩn bị cho điều bên ngoài lí trí. Một trong những khó khăn tôi gặp phải là ở chỗ những người chấp thuận lí trí của tôi sẽ thấy sau đó vài khoảnh khắc là tôi đang lôi họ vào vùng bóng tối. Chừng nào mà người ta còn có thể thấy lí trí, thì còn ánh sáng và mọi sự có vẻ sáng sủa và rõ ràng. Nhưng thế rồi ai đó sẽ nói rằng tôi đã đã hứa chỉ cho người đó ánh sáng mà bây giờ tôi đang nói về việc dẫn người đó và trong bóng tối. Do đó người đó sẽ không hài lòng với tôi và sẽ bảo tôi, "Tôi thích điều thầy đã nói cho tới giờ, nhưng tôi không thể đi thêm nữa với thầy được." Người đó đã tin cậy tôi lập luận ra chân lí cho người đó, và thế rồi tôi bảo người đó rằng người đó phải đi ra ngoài lập luận để đạt tới nó.

Những người tin vào tin cậy cũng sẽ không chấp nhận tôi, không theo tôi, không bước đi cùng tôi, bởi vì họ muốn tôi nói chỉ về những bí ẩn không thể nào hiểu nổi. Vậy, cả hai kiểu cá nhân này sẽ có vấn đề với tôi. Những người tin tưởng vào lí trí sẽ chỉ theo tôi cho tới điểm nào đó, trong khi những người tin vào tin cậy, người tin vào bất hợp lí, sẽ không theo tôi chút nào, chưa bao giờ hiểu rằng chỉ nếu họ theo đi quá một điểm nào đó thì tôi có thể đưa họ vào trong vô ý nghĩ.

Tôi hiểu điều này. Cuộc sống là giống vậy. Lí trí chỉ có thể là nhạc cụ, không phải là mục tiêu. Do đó tôi bao giờ cũng sẽ đưa ra những phát biểu phi logic sau khi nói về vấn đề toàn logic. Những phát biểu này sẽ dường như bất nhất, nhưng chúng đã được nghĩ kĩ và không được đưa ra mà không có lí do. Có lí do rõ ràng về phía tôi.

Tôi sẽ nói vào lúc nào đó rằng tôi không bị ảnh hưởng bởi Mahavira, Phật, Krishna hay Christ, rằng tôi không nói điều gì dưới ảnh hưởng của họ, rằng mọi thứ tôi nói, tôi chỉ nói sau khi tự tôi biết nó. Dẫu sao đi chăng nữa, khi tôi đi tới nhận biết của riêng mình, tôi đã biết rằng nó là đồng nhất với điều đã được đạt tới bởi những người khác đó trước tôi. Vậy, khi tôi nói về họ hay trích dẫn điều họ đã nói, bản thân tôi quên mất rằng tôi đã nói về họ. Tôi hội nhập với họ toàn bộ tới mức phát biểu của họ trở thành phát biểu của riêng tôi.

Trong thực tế, tôi chẳng thấy khác biệt gì giữa phát biểu của tôi và của họ cả. Khi tôi bắt đầu nói về họ thì có việc hiểu sâu sắc rằng tôi chỉ nói về mình. Do đó, khi tôi nhắc lại phát biểu của họ, tôi không tạo ra điều kiện gì. Tôi tan biến bản thân mình hoàn toàn trong họ và trong lời họ. Những người đã nghe tôi đều nói rằng tôi không bị ảnh hưởng bởi những người này còn những người khác sẽ tự hỏi, "Làm sao Thầy trở thành một với họ được? Thậm chí những người dưới ảnh hưởng hoàn toàn của họ cũng chẳng làm thế; họ vẫn duy trì một khoảng cách."

Những người bị ảnh hưởng bởi ai đó hay cái gì đó sẽ, do cần thiết, phải duy trì một khoảng cách nào đó giữa họ và nguồn ảnh hưởng. Những người bị ảnh hưởng đều là người dốt nát. Chúng ta bị ảnh hưởng chỉ trong dốt nát. Với việc tự biết mình thì chính từ 'ảnh hưởng' không có nghĩa.

Trong việc tự biết mình không có vấn đề về ảnh hưởng. Thay vì thế, có sự tương tự về kinh nghiệm, sự hài hoà tương tự, việc nghe thấy tiếng nói tương tự. Nếu tôi hát và cùng một nhịp điệu đang tới vào cùng lúc từ ai đó khác, thì nhịp điệu của tôi và nhịp điệu của ca sĩ kia là một với nhau đến mức không có chỗ giữa chúng tôi để bị ảnh hưởng. Để bị ảnh hưởng, để là đệ tử, khoảng cách là cần thiết, người khác là cần thiết.

Tuy nhiên, khi có liên quan tới tôi thì không có khoảng cách. Khi tôi bắt đầu giải thích một phát biểu của Mahavira hay khi tôi nói về Gita của Krishna, tôi chỉ giải thích ít nhiều những phát biểu của tôi. Krishna hay Christ hay Mahavira đưa ra cơ hội, cái cớ, một dịp để nói, nhưng tôi cũng sớm quên mất rằng tôi đang nói về họ. Tôi bắt đầu với họ, nhưng đến cuối chỉ có điều tôi đã biết. Tôi thậm chí không nhận biết khi nào tôi dừng nói về họ và bắt đầu giải thích phát biểu của riêng tôi, về khi nào tôi đã hội nhập toàn bộ với họ.

Có lẽ sẽ thú vị với bạn khi biết rằng tôi chưa từng đọc Gita thậm chí lấy một lần. Tôi thường hay bắt đầu đọc nó, nhưng khi đọc tám hay mười dòng tôi cảm thấy rằng thế là đủ và tôi gấp sách lại. Khi tôi nói về Gita, tôi thực sự nghe thấy nó lần đầu tiên khi tôi nói về nó. Vì tôi không có nền tảng trong nó, nên tôi không có cách nào mà phê bình nó. Người đã nghiên cứu Gita, người đã cân nhắc và suy nghĩ sâu sắc về các phát biểu của nó, chỉ thế thì mới có thể phê bình và định nghĩa điều mình đã đọc. Đã không đọc Gita, tôi không thể phê bình được.

Một điều thú vị nữa cần nói tới là ở chỗ khi tôi nhặt lấy cuốn Gita để đọc, tôi đặt trả lại nó sau vài khoảnh khắc, nhưng khi tôi bất chợt bắt gặp cuốn sách rất bình thường nào đó, tôi đọc nó từ đầu đến cuối bởi vì nó không phải là một phần kinh nghiệm của tôi. Điều này dường như là lạ với bạn. Tôi không thể nào cưỡng lại được bản thân mình khỏi đọc hết cuốn sách bình thường, bởi vì nó không ở trong phạm vi kinh nghiệm của tôi. Vâng, khi tôi bắt đầu đọc Gita, tôi đặt trả lại cuốn sách đó sau khi đọc chỉ vài dòng về nó, vì tôi cảm thấy rằng nó sẽ chẳng mở ra điều gì mới với tôi cả.

Nếu một tiểu thuyết trinh thám được trao cho tôi, tôi có thể đọc hết nó một hơi, bởi vì với tôi nó có thể là cái gì đó mới. Nhưng Gita của Krishna dường như là do tôi viết ra vậy. Tôi biết nó, bởi vì bất kì cái gì được viết trong nó đều được biết với tôi. Không cần đọc thì nó cũng đã được biết rồi.

Do đó, khi tôi nói về Gita, tôi thực sự không nói về Gita đâu; đấy chỉ là cái cớ. Tôi bắt đầu với Gita, nhưng tôi nói chỉ về điều tôi muốn nói và chỉ về điều tôi có thể nói. Nếu bạn cảm thấy rằng tôi đã nhấn nhiều vào Gita, đấy không phải bởi vì tôi bị ảnh hưởng bởi Krishna, mà bởi vì Krishna đã nói chính cùng điều tôi đang nói.

Vậy, điều tôi đang làm không phải là bình chú về Gita. Điều Tilak đã nói về Gita, điều Gandhi đã nói về Gita, đều là bình chú hay giải thích của họ về Gita. Chúng là dưới ảnh hưởng sâu sắc của Gita. Nhưng điều tôi đang nói không tới từ Gita chút nào. Giai điệu đã được Gita chạm tới thì cũng được chạm tới trong tôi. Chúng dẫn tôi tới giai điệu của riêng tôi; tôi bắt đầu giải thích bản thân mình. Gita chỉ cung cấp cho tôi cơ hội. Khi tôi nói về Krishna, trong chính những khoảnh khắc tôi khải lộ sâu sắc nhất Krishna, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy rằng tôi đang nói về bản thân mình. Chính trong những khoảnh khắc đó mà tôi nói chỉ về tôi.

Cùng điều đó cũng đúng cho Mahavira, Christ, Lão Tử hay Mohammed. Với tôi, điều tạo ra khác biệt giữa người này với người khác chỉ là khác biệt về cái tên. Họ là những ngọn đèn khác nhau, nhưng ánh sáng chiếu sáng bên trong họ là một. Dù ánh sáng đó đang cháy trong ngọn đèn của Mohammed hay trong ngọn đèn của Mahavira hay của Phật cũng không tạo bất kì khác biệt gì cho tôi cả.

Nhiều lần tôi sẽ nói chống lại Mohammed hay Mahavira hay Phật. Điều này tạo ra vấn đề. Tôi đang nói chống lại họ nữa. Bất kì khi nào tôi dường như nói chống lại họ, đều dường như là như vậy bởi vì thính giả đang coi ngọn đèn là quan trọng. Nhưng với tôi, khi tôi làm khải lộ ra cái gì đó rất sâu, việc nhấn mạnh là vào ánh sáng. Cho nên bất kì khi nào tôi dường như nói chống lại, đấy là vì việc nhấn mạnh là vào ngọn đèn chứ không vào ánh sáng.

Khi tôi thấy một người say mê ngọn đèn, say mê vật chất tạo nên nó, tôi bao giờ cũng nói chống lại ngọn đèn. Người đó sẽ bị lẫn lộn. Cũng tự nhiên là người đó sẽ bị lẫn lộn, bởi vì với người đó không có phân biệt giữa Mahavira và ngọn đèn và Mahavira và ánh sáng vĩnh hằng. Với người đó, ngọn đèn và ánh sáng là một. Đó là lí do tại sao, khi điều xuất hiện với tôi là ai đó đang đặt nhấn mạnh quá nhiều vào ngọn đèn, tôi bắt đầu nói chống lại nó. Khi tôi cảm thấy rằng chính ánh sáng được thảo luận, tôi trở thành một với nó. Đây là khác biệt.

Có khác biệt giữa ngọn đèn của Mahavira và ngọn đèn của Mohammed. Chỉ là do khác biệt này mà có khác biệt giữa người Jaina và người Mô ha mét giáo. Ngọn đèn được làm ra khác nhau. Ngọn đèn của Christ và ngọn đèn của Phật cũng khác nhau; chúng nhất định phải là như vậy. Nhưng những khác biệt này chỉ là ở thân thể, ở phụ cận và ở hình dạng.

Với những người cả tin vào hình dạng và phụ cận, ánh sáng đó sẽ không thấy được, bởi vì bất kì ai thấy ánh sáng sẽ quên đi ngọn đèn. Không thể có chuyện người ta sẽ vẫn còn nhớ tới ngọn đèn sau khi người đó đã thấy ánh sáng. Ngọn đèn chỉ được nhớ sau khi ánh sáng không còn được thấy nữa.

Hoàn cảnh của một tín đồ là ở chỗ người đó có thể chỉ ở lại trong bóng tối của ngọn đèn và nhìn ra từ đó. Từ đó người đó không thể thấy ánh sáng được; chỉ thấy được cái đáy của ngọn đèn thôi. Đáy của mọi ngọn đèn đều khác nhau, và có bóng tối sâu sắc dưới chúng. Các tín đồ của họ bắt đầu cãi nhau về cái đáy. Do đó, bất kì khi nào tôi thấy ai đó đứng trong cái bóng của người nào đó, tôi nói chống lại điều này khá cay nghiệt.

Đó là lí do tại sao tôi bao giờ cũng nói rằng tín đồ không bao giờ có thể trở nên hiểu được. Trở thành tín đồ, người đó phải đứng trong cái bóng, trong bóng tối, phía dưới ngọn đèn. Một người càng là tín đồ, người đó càng trong bóng tối dầy đặc. Những tín đồ đang đứng ở phần ngoại vi của bóng tối có thể hiểu người khác một chút, nhưng những người trực tiếp trong bóng tối dầy đặc chẳng bao giờ có thể hiểu được. Tuy nhiên, nếu ai đó thực sự muốn thấy ánh sáng, người đó sẽ phải đi hoàn toàn ra khỏi phần ngoại vi của cái bóng. Một khi người đó thấy ánh sáng rồi, những tranh luận về ngọn đèn không còn có ý nghĩa gì với người đó nữa.

Vậy, với tôi, không có khác biệt gì dù tôi nói về Christ hay Krishna hay Phật. Tôi đang nói về cùng ánh sáng - ánh sáng đã thắp sáng nhiều ngọn đèn. Nhưng tôi không bị ảnh hưởng bởi ngọn đèn. Tôi đang nói chỉ về cái mà tôi biết. Bất kì khi nào tôi cảm thấy sự cộng hưởng nào đó, bất kì khi nào tôi cảm thấy rằng cùng một nốt đang rung động, tôi không có khả năng phủ nhận nó, bởi vì phủ nhận nó sẽ tương đương với sai. Nó sẽ giống như đứng quay lưng vào ánh sáng. Tín đồ bị sai lầm là ngồi dưới đáy ngọn đèn. Việc quay lưng lại và việc ngồi dưới cái bóng cả hai đều là sai lầm tương tự. Nhưng nếu bạn hỏi Krishnamurti, thì ông ấy sẽ không chấp nhận sự cộng hưởng này. Ông ấy sẽ không chấp nhận rằng bất kì cái gì đã xảy ra cho ông ấy cũng đều có thể đã xảy ra cho Krishna. Ông ấy sẽ không chấp nhận rằng điều đã xảy ra cho ông ấy cũng có thể đã xảy ra cho người khác nữa. Ông ấy sẽ không thảo luận về điều này.

Điều này là sai bởi vì chân lí là khách quan toàn bộ. Cái vĩ đại của chân lí không hề giảm đi nếu người ta chấp nhận rằng nó cũng được khải lộ cho ai đó khác. Ngược lại, tính vĩ đại của nó lại được nâng cao; nó không giảm đi. Chân lí không yếu đuối đến mức nó trở thành nhàm chán đơn giản bởi vì nó cũng đã được ai đó khác kinh nghiệm. Do đó, ý định phủ nhận rằng chân lí có thể được chia sẻ cũng là sai.

Do đó khó khăn của tôi là thế này: rằng bất kì nơi đâu tôi thấy chân lí, tôi sẽ chấp nhận nó. Tôi không bị ảnh hưởng chút nào. Nhưng bất kì chỗ nào tôi thấy rằng nhân danh chân lí mà người ta đang thay đổi cái gì đó không là chân lí thì tôi sẽ phủ nhận nó và đối lập nó. Bất kì điều gì tôi làm, tôi đều làm một cách toàn bộ. Đó là lí do tại sao tôi trở nên khó hiểu. Tôi đang chống lại thoả hiệp bởi vì qua thoả hiệp không ai có thể đạt tới chân lí được.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx