sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chiều bên kia cái biết - Phần 1-3

Nó có cong không?

Nó là đường cong nhỏ tới mức chúng ta không thể thấy được nó. Nhưng nếu chúng ta cứ kéo dài nó theo một đầu, chúng ta sẽ thấy rằng nó thực sự là vòng tròn đi quanh thế giới. Chúng ta sẽ thấy rằng đường thẳng đã trở thành tròn; đó là lí do tại sao lại không thể vẽ ra được đường thẳng.

Khi chúng ta nghĩ về nó sâu sắc, vấn đề lớn nhất trong thiền là ở chỗ mọi ý nghĩ đều vòng tròn. Thậm chí tâm thức chúng ta cũng chuyển theo vòng tròn. Điều gian nan nhất, điều tapascharya vĩ đại nhất, khổ hạnh, là lấy cái nhảy ra khỏi chuyển động vòng tròn này. Nhưng dường như không có cách ra.

Lời cũng chuyển theo vòng tròn. Chúng ta chưa bao giờ có bất kì ý tưởng nào về cách thức lời có thể thành vòng tròn, nhưng lời quả là vòng tròn đấy. Khi bạn định nghĩa một từ, bạn dùng các từ khác. Nếu bạn mở từ điển ra và thấy từ 'người', bạn sẽ thấy nghĩa là 'con người'. Thế rồi nếu bạn lại tìm chữ 'con người', thì nghĩa là 'có phẩm chất của người'. Tất cả điều này là gì? Nó là điên khùng lớn lao. Chúng ta không biết cách định nghĩa người hay con người. Điều này có nghĩa gì?

Những người tham khảo từ điển đều không có ý tưởng gì về từ điển là vòng tròn. Từ này được dùng để định nghĩa từ thứ hai và từ thứ hai được dùng để định nghĩa từ thứ nhất. Người là con người và con người là người. Định nghĩa về người là ở đâu? Vậy, tất cả các định nghĩa đều vòng tròn; mọi nguyên tắc đều vòng tròn. Để giải thích một nguyên tắc này ban dùng nguyên tắc kia, và để giải thích nguyên tắc kia bạn dùng nguyên tắc này. Tâm thức chúng ta là vòng tròn. Đó là lí do tại sao trong tuổi già chúng ta cư xử như trẻ con. Vòng tròn hoàn chỉnh.

Dù bao nhiêu lời có thể được nói ra, chúng cũng chỉ chuyển theo vòng tròn. Lời đi vòng quanh; chúng không thể bước thẳng được. Nếu bạn bước thẳng, bạn sẽ bước qua chúng vào vô lời. Nhưng bởi vì chúng ta đang sống trong lời, nếu tôi có cái gì đó nói ra chống lại lời, tôi sẽ phải dùng lời để nói nó. Đây là một kiểu điên khùng, nhưng tôi không có lỗi. Tôi nói với hiểu biết rằng không lời thì bạn không thể hiểu được, và thế rồi tôi nói chống lại lời với hi vọng rằng bạn sẽ không níu bám vào chúng. Nếu điều này xảy ra, chỉ thế thì tôi mới có khả năng truyền đạt điều tôi muốn.

Nếu bạn hiểu chỉ lời tôi, bạn sẽ bỏ lỡ điều tôi đã nói. Bạn sẽ phải hiểu lời tôi, nhưng cùng với điều này, bất kì cái gì được chúng chỉ ra về thế giới vô lời cũng sẽ cần phải được hiểu. Do đó, tôi sẽ cứ nói chống lại kinh sách cho dù điều tôi đang nói bản thân nó có thể trở thành kinh sách. Mọi kinh sách đều được làm giống vậy. Không một kinh sách có giá trị nào mà trong đó bạn sẽ không tìm thấy những phát biểu chống lại lời. Điều đó có nghĩa là không có kinh sách nào không chứa những phát biểu chống lại bản thân kinh sách, dù nó là Gita hay Koran hay Kinh Thánh, hay thậm chí với Mahavira hay Phật.

Không có lí do để tin rằng cái gì đó khác sẽ xảy ra với tôi. Cùng hiệu quả không thể có sẽ tiếp tục. Trong khi cứ nói đi nói lại mãi chống lại lời, tôi sẽ phải nói nhiều lời. Người này hay người khác có thể bắt giữ chúng và làm ra kinh sách từ chúng. Nhưng tôi không thể dừng việc nói bởi vì có một cơ hội trong hàng trăm cơ hội trở thành kinh sách. Chỉ nếu tôi dừng việc nói thì mới có cái bảo vệ chống lại cơ hội này. Tuy nhiên, không có cơ sở cho nỗi hoảng sợ này, bởi vì ai đó sẽ tới sau một chút và người này sẽ nói chống lại lời tôi và kinh sách sẽ được làm ra từ chúng. Không cần phải hoảng sợ!

Nhưng một điều lạ xảy ra ở đây và nó là thế này: Trong tương lai, công việc của tôi trên thế giới này sẽ được làm thêm nữa bởi chính người nói chống lại tôi. Hôm nay điều đó giống thế này: Nếu một người muốn làm việc cho Phật, người đó sẽ phải nói chống lại Phật. Lời của Phật đã được nhiều người nhặt lấy như hòn đá cũ, và những hòn đá này không thể bị vứt đi chừng nào Phật còn chưa bị vứt đi. Với việc sùng bái Phật, những hòn đá này đã tự đặt mình vào ngực của những người đã nhặt chúng. Nếu đá này bị vứt đi, Phật cũng sẽ phải bị kéo xuống; bằng không đá cứ còn mãi.

Bây giờ bạn có thể hiểu bất lực của tôi. Bạn có thể hiểu tại sao tôi phải nói chống lại Phật, cho dù tôi biết rất rõ rằng tôi đang làm công việc của ông ấy. Nhưng bằng cách nào khác để những người níu bám vào cái tên Phật hay lời Phật có thể được chuyển? Chừng nào Phật còn chưa được chuyển, họ không thể được chuyển. Để chuyển họ chúng ta phải làm chủ rắc rối của việc làm rối loạn Phật một cách không cần thiết.

Chừng nào mà Veda còn chưa được vứt bỏ đi, không có cách nào chuyển những người như vậy. Họ níu bám lấy Veda. Chừng nào một người còn chưa được thuyết phục rằng Veda là vô dụng, người đó sẽ không vứt bỏ chúng. Nếu với một lần cho mọi lần, tâm trí có thể được làm trống rỗng, thì cái gì đó hơn nữa có thể được làm.

Nhưng sau tiến trình làm trống rỗng này tôi sẽ nói cùng điều như Veda đã nói. Thế thì khó khăn lại tăng thêm. Những người bạn giả và kẻ thù giả cứ hình thành một cách không cần thiết. Như mọi vật hiện hữu, chín mươi chín trong số một trăm người gặp bạn giả và kẻ thù giả. Bạn giả là người sẽ lấy điều tôi nói làm kinh sách, còn kẻ thù giả là người tin rằng điều tôi nói là chống lại kinh sách và rằng tôi là kẻ thù của kinh sách. Nhưng mọi sự đều giống thế này, nó sẽ tất yếu xảy ra như thế này, và không cần phải lo nghĩ về nó. Như thế là tình huống đấy.

Vậy Thầy không muốn viết sao?

Không, tôi không muốn viết. Có nhiều lí do tại sao tôi không muốn viết. Bởi một điều, viết là ngớ ngẩn và vô dụng. Nó là vô dụng bởi vì tôi sẽ viết cho ai? Với tôi, viết dường như là giống viết thư mà không biết địa chỉ. Làm sao tôi có thể đóng nó vào trong phong bì và gửi nó đi khi tôi không biết địa chỉ?

Một phát biểu bao giờ cũng có địa chỉ. Những người muốn nói cho quần chúng thì viết. Đây là cách họ đề cập tới đám đông không biết. Nhưng đám đông càng không biết, lại càng ít điều có thể được nói. Và các cá nhân được đề cập tới càng gần hay càng được biết, đối thoại càng có thể sâu sắc hơn.

Chân lí sâu sắc hơn chỉ có thể được nói cho người đặc biệt. Với đám đông, chỉ những điều đơn giản, tạm thời mới có thể được nói. Đám đông càng lớn, càng ít có hiểu biết, và đám đông càng không biết, người ta càng phải xuất phát với giả thiết trước rằng sẽ không có hiểu biết nào. Vậy, càng nhiều học vấn được dành cho đám đông, càng xuống thấp dưới đất và đơn giản nó sẽ hiện hữu. Bay trên trời là không thể được với loại học vấn này.

Nếu bạn tìm thấy sắc thái tinh tế của nghĩa trong thơ của Kalidas và bạn không thấy chúng trong thơ của các nhà thơ hiện đại, đấy không phải là do khác biệt nào giữa Kalidas và nhà thơ hiện đại đâu. Đấy là vì tính thơ ca của Kalidas được đề cập và trích dẫn trong sự hiện diện của hoàng đế hay vài người được lựa chọn, trong khi bài thơ hiện đại thì được in trong báo. Báo chí có thể được đọc trong khi uống trà trong tiệm trà, trong khi ăn lạc, trong khi hút thuốc. Bài thơ có thể chỉ được liếc nhìn qua. Vậy thì nó được viết ra cho ai? Nhà thơ hiện đại không quan tâm để biết. Người đó phải viết cho mọi người, cho mẫu số chung bé nhất. Người đó phải tính tới mọi người trong khi viết.

Khó khăn của tôi là ở chỗ cho dù những người là giỏi nhất trong chúng ta, cũng khó kể lại chân lí. Với những người kém hơn những người giỏi nhất đó, với người bình thường, vấn đề có liên quan tới chân lí không nảy sinh. Chỉ những người trong chúng ta nằm trong số vài người được chọn mới có thể hiểu vấn đề sâu sắc nhất. Nhưng ngay cả trong số ít ỏi những người được chọn này, chín mươi chín trong số một trăm người sẽ bỏ lỡ điều tôi đã nói. Cho nên không có nghĩa trong việc nói những điều như vậy cho đám đông, và việc viết được thực hiện cho đám đông.

Cũng có những lí do khác cho việc không viết. Tôi tin rằng khi phương tiện người ta dùng mà thay đổi, thì nội dung cũng thay đổi. Với việc thay đổi phương tiện, chủ đề không còn như cũ nữa. Phương tiện đặt ra những hoàn cảnh của riêng nó và làm thay đổi điều được nói.

Điều này không phải là dễ hiểu được. Khi tôi nói, đây là một kiểu phương tiện. Cả luồng trao đổi sống động. Thính giả đang sống và tôi cũng đang sống. Khi tôi nói, thính giả không chỉ nghe: người đó còn thấy. Cách diễn đạt thay đổi của khuôn mặt tôi, những thay đổi thoáng chốc được phản ánh trong mắt tôi, việc đưa lên và hạ xuống ngón tay tôi, tất cả đều được người đó thấy. Người đó không chỉ nghe lời tôi: người đó cũng còn thấy chuyển động của môi tôi. Đấy không chỉ là lời của tôi nói ra, nó cũng còn là môi tôi nói nữa. Mắt tôi cũng nói điều gì đó. Tất cả những điều này được thính giả đón nhận. Nội dung điều tôi đã nói sẽ khác trong tâm trí của thính giả hơn là trong tâm trí của độc giả bởi vì tất cả những điều này sẽ trở thành một phần của nó.

Khi ai đó đọc một cuốn sách, thế thì tại chỗ của tôi chỉ có chữ đen và mực đen, không cái gì khác. Tôi và mực đen là không tương đương. Không có cho và nhận. Theo một kiểu thì không có cử chỉ hay sự thay đổi cách diễn đạt nào xảy ra, không khung cảnh hay bức tranh nào được tạo ra cả. Không có cuộc sống; nó là thông điệp chết. Khi người ta đang đọc một cuốn sách, một phần rất có ý nghĩa của thông điệp, cái vẫn còn sống trong khi tôi nói bị mất đi. Trong tay độc giả chỉ có những phát biểu chết.

Điều thú vị là để ý rằng độc giả có thể ít chăm chú hơn thính giả phải thế. Khi một người nghe, thì mức độ chăm chú mà người đó bỏ ra còn lớn hơn nhiều khi người đó đọc. Trong khi nghe người ta phải chăm chú hoàn toàn và tập trung, bởi vì điều đã được nói ra sẽ không được lặp lại. Bạn không thể làm sống lại phần không hiểu hay phần đã hiểu; chúng mất đi rồi. Mọi khoảnh khắc tôi đang nói, điều được nói trở nên bị mất đi trong vực thẳm không đáy. Nếu bạn nắm bắt được nó, thì bạn nắm bắt được nó. Bằng không nó chảy đi mất và nó sẽ không quay lại.

Trong khi đọc một cuốn sách không có nỗi hoảng sợ như thế, bởi vì bạn có thể đọc đi đọc lại cùng trang mãi. Do đó không cần thiết phải rất chăm chú trong khi đọc sách. Đó là lí do tại sao cái ngày lời bắt đầu được viết ra thì cũng là ngày sự chăm chú trở nên kém đi. Nó nhất định phải là như vậy.

Với một cuốn sách, nếu bạn còn chưa hiểu điều gì đó, bạn có thể lật lại trang và đọc lại nó. Nhưng việc nói của tôi không thể nào đi lại được. Cái bị bỏ lỡ là mất. Tri thức về điều được nói ra bị mất mãi mãi nếu bị bỏ lỡ và không thể được lặp lại. Điều này giữ sự chăm chú của bạn tại đỉnh đầy đủ. Nó giúp giữ tâm thức của bạn ở tỉnh táo tối đa. Khi bạn đọc chuyện giải trí, nếu cái gì đó bị bỏ lỡ, cũng chẳng hại gì; bạn có thể đọc lại nó. Với một cuốn sách, việc hiểu là kém hơn và nhu cầu lặp lại tăng lên. Khi sự chăm chú giảm xuống, việc hiểu cũng giảm xuống.

Do đó, không phải là không có lí do mà Phật, Mahavira và Jesus tất cả đều chọn việc nói làm phương tiện cho truyền trao thông điệp của họ. Họ có thể viết chứ, nhưng họ đã chọn phương tiện này. Họ đã làm điều đó bởi hai lí do: Một, bởi vì lời nói ra là phương tiện bao quát được tất cả; nhiều điều có thể được nói. Có nhiều điều được gắn với lời mà lại mất đi trong viết.

Đó là lí do tại sao, nếu bạn nghĩ về nó, bạn sẽ chú ý rằng cái ngày phim bắt đầu, tiểu thuyết mất tầm quan trọng của chúng. Điều này là vì phim đã làm mọi sự sống lại. Ai sẽ đọc tiểu thuyết? Đấy là một thứ chết. Tiểu thuyết không thể sống lâu được. Nó có thể trở nên bị mất đi như một dạng nghệ thuật bởi vì chúng ta bây giờ đã có những phương tiện sống động hơn, điều McLuhan gọi là phương tiện "nóng". Ti vi và phim là những phương tiện sống, phương tiện nóng. Có nhiệt trong máu chúng.

Nhưng lời được viết là phương tiện lạnh, lạnh đến chết. Không có cuộc sống trong nó; không máu chảy trong nó. Thậm chí điện thoại của bạn cũng có thể trở nên lạc hậu ngay khi điện thoại hình xuất hiện, cũng như radio bắt đầu trở nên lạc hậu với việc đến của ti vi. Radio đã trở thành phương tiện tương đối lạnh hơn trong khi ti vi là phương tiện nóng. Và với tôi việc nói là phương tiện nóng; có máu và tim trong nó.

Cho tới giờ chúng ta vẫn chưa có khả năng tìm ra đủ cách để thêm nhấn mạnh cho lời được viết ra. Nếu tôi muốn nhấn mạnh điều gì đó khi tôi nói, tôi có thể nói to lên chút ít. Tôi có thể thay đổi sắc thái trong giọng tôi, nhịp điệu tiếng nói của tôi; thế thì nhấn mạnh được truyền đạt. Nhưng trong những từ của cuốn sách thì không có cách như vậy. Từ chỉ như chết. Trong một cuốn sách, từ tình yêu là tình yêu dù nó được viết ra bởi một người làm tình hay không làm tình, hay bởi người sống trong tình yêu hay bởi người không biết tình yêu là gì. Không có sắc thái, không có nhịp điệu, không có sóng, không có rung động. Nó là chết.

Khi Jesus nói lời cầu nguyện, nghĩa của nó không phải là một như khi ai đó viết cùng từ đó trong cuốn sách. Toàn bộ cuộc sống của Jesus là lời cầu nguyện, từ đầu cho tới cuối. Mọi mảnh của ông ấy đều là lời cầu nguyện; mọi li thân thể ông ấy đều tràn đầy với nó. Vậy, điều Jesus truyền đạt khi ông ấy nói lời cầu nguyện là rất khác với điều được truyền đạt bởi từ này trong từ điển.

Bất kì khi nào người ta nói, ngay lập tức điều đó tạo ra một loại điều chỉnh, đi vào tiếp xúc với thính giả. Linh hồn của diễn giả tiếp cận ngay tới linh hồn của thính giả. Cánh cửa được mở ra; sự phòng thủ của thính giả bắt đầu nhường chỗ.

Khi bạn nghe, nếu bạn tràn đầy chăm chú, suy nghĩ của bạn phải dừng lại. Bạn càng chăm chú khi bạn nghe, bạn sẽ càng ít nghĩ đi. Cánh cửa của bạn mở ra; bạn trở thành nhạy cảm nhiều hơn với người khác. Bây giờ điều gì đó có thể đi vào một cách trực tiếp không bị cản trở; bạn và diễn giả trở nên biết lẫn nhau. Theo một nghĩa rất sâu, mối quan hệ hài hoà được thiết lập. Việc nói tới từ bên ngoài, ấy vậy mà nó vang vọng sâu bên trong thính giả.

Mối quan hệ như thế không thể nào được thiết lập khi người ta đọc, bởi vì người viết vắng mặt. Khi bạn đọc, nếu bạn không tự động hiểu điều gì đó thì bạn phải làm nỗ lực để hiểu nó. Nhưng khi nghe bạn sẽ hiểu mà không có nỗ lực.

Nếu bạn đọc một cuốn sách dựa trên việc nói của tôi mà đã được thuật lại đúng nguyên văn, thế thì bạn sẽ quên mất rằng bạn đang đọc bởi vì bạn biết tôi. Sau vài khoảnh khắc, bạn cảm thấy rằng bạn không đọc - rằng bạn đang nghe. Nhưng nếu cách diễn đạt bị thay đổi hay phong cách bị hơi thay đổi trong tường thuật, nhịp điệu và hài hoà sẽ bị phá vỡ. Khi những người đã nghe tôi mà đọc những lời nói của tôi, việc đọc trở thành gần như nghe tôi. Nhưng có khác biệt bởi vì, dầu vậy, việc thay đổi phương tiện làm thay đổi ý định của điều được nói.

Khó khăn là ở chỗ điều tôi định nói sẽ thay đổi tương ứng với hình thức diễn đạt. Nếu tôi dùng thơ ca, nó sẽ áp đặt những điều kiện riêng của nó: sự thu xếp đặc biệt các lời, bác bỏ hay chọn lựa chủ đề đặc thù, phá vỡ hay cắt bỏ những điều đặc biệt. Nếu cần để diễn đạt cùng điều trong văn xuôi, nội dung sẽ khác hoàn toàn.

Đó là lí do tại sao, phần lớn, tất cả các sách vĩ đại trên thế giới đều đã được viết dưới dạng thơ ca. Điều được nói vượt ra ngoài logic đến mức khó mà diễn đạt nó dưới dạng văn xuôi. Văn xuôi là rất logic; thơ ca rất phi logic. Việc thiếu logic là được phép và được tha thứ trong thơ ca, nhưng không trong văn xuôi. Trong thơ ca, nếu bạn đi vượt ra ngoài một chút với việc hiểu logic tại nhiều chỗ, bạn được phép làm như vậy. Không được làm như vậy cho văn xuôi.

Bởi vì thơ ca chiều sâu là phi logic, văn xuôi chiều sâu phải logic. Nếu bạn định viết Upanishad hay Gita trong văn xuôi thì bạn sẽ thấy rằng cái làm cho nó sống động bị mất đi. Phương tiện đã thay đổi, và điều đẹp như thơ ca sẽ thành vụng về và chán ngán như văn xuôi. Chúng không logic, nhưng, văn xuôi sẽ cố gắng làm cho chúng như vậy bởi vì văn xuôi là việc bố trí logic.

Upanishad đã được trích dẫn dưới dạng thơ ca; Gita cũng vậy. Nhưng Phật và Mahavira đã không nói dưới dạng thơ ca. Có lí do cho sự thay đổi này. Kể từ thời của Upanishad và Gita được viết ra, thế giới đã thay đổi. Thời kì đó khi chúng được viết ra, theo một nghĩa nào đó, đã là thời thơ ca. Mọi người đều đơn giản và trung thực; không có yêu cầu về logic. Nếu họ được bảo, "Thượng đế hiện hữu," họ đơn giản nói có; họ đã không quay đi và hỏi, 'Thượng đế là gì? Ngài trông thế nào?"

Nếu bạn nhìn vào cách trẻ con hiện hữu, bạn sẽ có ý tưởng về kiểu người nào phải có đó trong những ngày đó. Đứa trẻ có thể hỏi một câu hỏi rất khó, ấy vậy mà nó sẽ hài lòng bởi một câu trả lời đơn giản. Đứa trẻ có thể hỏi em gái hay em trai nó từ đâu tới. Câu trả lời của bạn là em bé được con cò đem tới và nó được thoả mãn. Thế rồi nó chạy chơi. Nó đã hỏi một câu hỏi rất khó mà thậm chí người thông minh cao cũng không có khả năng đưa ra câu trả lời đúng. Đứa trẻ hỏi một câu hỏi cơ bản, tối thượng nhất: "Trẻ con từ đâu tới?" Bạn đã trả lời rằng con cò đem chúng tới, và vào lúc bạn nói điều đó thì đứa trẻ đã đi rồi. Nó hài lòng với một câu trả lời rất đơn giản. Và câu trả lời càng thơ ca, nó sẽ càng hài lòng. Đó là lí do tại sao trong sách cho trẻ nhỏ chúng ta phải dùng thơ ca. Thơ ca đạt tới trái tim đứa trẻ rất nhanh chóng. Có vần nhịp và giai điệu trong đó để đạt tới tâm trí nó nhanh chóng. Đứa trẻ sống trong thế giới của vần nhịp và giai điệu.

Phật và Mahavira hay dùng văn xuôi bởi vì vào thời kì họ sống mọi người đã quen làm nhiều việc suy nghĩ logic. Những câu hỏi chi li đã được hỏi, nhưng thậm chí với những câu trả lời rắc rối dài dòng mọi người cũng không thoả mãn. Thế rồi họ hỏi thêm hai mươi nhăm câu hỏi nữa. Đó là lí do tại sao Phật và Mahavira đã phải nói bằng văn xuôi.

Bây giờ không thể nào nói bằng thơ ca thêm nữa được. Bây giờ thơ ca được viết để giải trí. Có thời tất cả những vấn đề nghiêm chỉnh, cơ bản đã được nói dưới dạng thơ ca. Nhưng bây giờ vấn đề nghiêm chỉnh không thể được nói dưới dạng thơ ca nữa. Vài người có trò tiêu khiển và ham muốn giải trí, bạn vẫn còn viết thơ, nhưng tất cả những vấn đề có giá trị sẽ được nói chỉ trong văn xuôi. Con người không còn như trẻ con nữa; con người đã trở thành người lớn. Người đó nghĩ một cách logic về mọi vấn đề. Chỉ văn xuôi mới có thể được dùng một cách logic.

Mỗi phương tiện lại thay đổi nội dung. Với tâm trí, khi các phương pháp trao đổi phát triển, việc truyền đạt ý nghĩ qua bài nói sẽ quay trở lại. Có lúc từ được in ra là quan trọng nhất, nhưng bây giờ tiến bộ công nghệ đang đưa chúng ta trở lại với khả năng trao đổi trực tiếp qua phương tiện sống, qua ti vi.

Về sau, sẽ không ai còn sẵn sàng đọc sách thêm nữa. Tôi có thể nói cho toàn thế giới trên mạng truyền hình. Tất cả mọi người đều có thể nghe một cách trực tiếp. Do đó, tương lai của sách không tốt lắm. Bây giờ, đang trên đường rồi, sách sẽ không được đọc; nó sẽ được nhìn. Điều này phải được làm thành phổ biến; sách sẽ phải được biến đổi. Bây giờ micro phim đã được phát triển, cho nên có thể xem cuốn sách trên màn hình. Lời sẽ sớm được chuyển thành hình ảnh.

Trong cái nhìn của tôi việc viết đã phát triển tới sự bất lực. Không có con đường khác. Thậm chí bây giờ, những người muốn truyền đạt điều gì đó rất quan trọng phải dùng phương tiện lời nói. Tôi không biết tôi sẽ viết cho ai. Chừng nào không có ai trước tôi, không có ham muốn nào nảy sinh trong tôi để nói. Niềm vui nói chỉ để mà nói không có đó trong tôi.

Đây là khác biệt giữa nhà văn và người chứng ngộ. Nhà văn có mối quan tâm chỉ để diễn đạt điều gì đó. Người đó hài lòng nếu người đó có thể làm như vậy. Gánh nặng lớn dường như được vứt bỏ khỏi vai người đó khi người đó làm như vậy.

Trong tôi không có gánh nặng như vậy. Khi tôi nói cho các bạn, tôi không nhận được vui thích chỉ bởi vì tôi đang nói cho bạn điều gì đó. Trong việc nói điều gì đó, không có cảm giác về việc được bớt gánh nặng. Việc nói của tôi, theo một nghĩa nào đó, ít là diễn đạt mà nhiều là đáp ứng.

Không có cảm giác trong tôi rằng tôi phải nói điều gì đó. Nếu bạn muốn biết điều gì đó, chỉ thế thì điều đó mới xuất hiện cho tôi để nói cái gì đó. Hoàn cảnh của tâm trí tôi là ở mức nếu bạn ném chiếc gầu vào giếng của tôi, cái gì đó sẽ nổi lên từ nó. Sự việc đang dần trở thành khó cho tôi nói chừng nào mà câu hỏi còn chưa được hỏi. Trong tương lai, sẽ càng ngày càng khó hơn nữa để tôi nói. Do đó, tôi phải tìm ra cớ.

Tôi cần một cái cớ nếu tôi định nói về Gita. Nếu bạn tạo ra cái cớ như vậy, thế thì tôi sẽ nói. Nhưng vấn đề đang trở thành khó khăn cho tôi để nói nếu bạn không đưa ra cớ. Nếu không có đinh hay móc để treo cái gì đó, lấy gì mà treo nó và tại sao tôi phải treo nó là một vấn đề. Tôi vẫn còn im lặng - trống rỗng. Bạn đi ra khỏi phòng này và tôi trở thành trống rỗng.

Nếu ai đó có ham muốn nói, nhu cầu nói, thế thì người đó sẽ tự làm cho mình sẵn sàng nói thậm chí khi bạn không trong phòng. Tâm trí người đó sẽ chuẩn bị điều để nói cho dù chẳng có ai hiện diện. Khi tài liệu tích luỹ đủ trong người đó, người đó sẽ bị thúc ép để nói.

Với tôi điều này không đúng. Tôi hoàn toàn trống rỗng. Nếu bạn đưa ra câu hỏi và làm cho tôi nói, chỉ thế thì tôi sẽ nói. Đó là lí do tại sao viết lại khó. Viết là dễ hơn cho những người đã tràn đầy.

Sao Thầy không viết tự truyện của thầy?

Điều này cũng có thể được hỏi - tại sao tôi không viết tự truyện của tôi. Điều này dường như có vẻ rất hay, nhưng nói cho đúng thì sau khi tự hiểu bản thân mình chẳng có tự truyện gì cả. Mọi tự truyện đều là tiểu sử bản ngã. Điều chúng ta gọi là tự truyện không phải là truyện về linh hồn. Chừng nào mà bạn còn không biết linh hồn là gì, bất kì cái gì bạn viết ra cũng là tiểu sử bản ngã.

Điều thú vị là để ý rằng không Jesus, không Krishna, không Phật nào đã viết tự truyện của họ. Họ không kể về mình và cũng không viết về mình. Viết hay nói về bản thân mình là không thể được cho những người đã biết tới chính bản thân mình, bởi vì sau khi biết thì người này thay đổi thành cái gì đó vô hình dạng tới mức điều chúng ta gọi là các sự kiện trong cuộc sống của người đó - các sự kiện như ngày người ấy ra đời, ngày biến cố đặc biệt xảy ra - đều tan biến. Điều xảy ra là ở chỗ tất cả những sự kiện này đều dừng có ý nghĩa gì. Việc thức tỉnh của linh hồn là thảm hoạ đến mức sau khi nó xuất hiện, khi người ta mở mắt mình ra, người ta thấy rằng mọi thứ đều mất rồi. Chẳng cái gì còn lại cả; không ai còn lại để nói về điều đã xảy ra.

Sau khi người ta biết tới linh hồn của mình, tự truyện dường như là một phiên bản tựa giấc mơ của chính mình. Cứ dường như là người ta đã viết một truyện về giấc mơ của mình: Hôm nay người đó thấy giấc mơ này, hôm sau giấc mơ kia, rồi hôm sau nữa là giấc mơ thứ ba. Tự truyện như vậy không giá trị gì nhiều hơn câu chuyện thần tiên, tưởng tượng.

Đó là lí do tại sao lại khó cho người đã thức tỉnh viết ra. Khi trở nên thức tỉnh và nhận biết, người đó thấy rằng chẳng có gì đáng viết cả. Tất cả đều là giấc mơ. Vấn đề về kinh nghiệm trở nên nhận biết vẫn còn, nhưng điều được biết qua kinh nghiệm này thì không thể nào được viết ra. Điều này là như vậy bởi vì việc đưa một kinh nghiệm như vậy về lời dường như vô vị và ngớ ngẩn. Cho dù như vậy, bao giờ cũng có những nỗ lực để nói về kinh nghiệm này theo những cách khác nhau qua những phương pháp khác nhau.

Toàn bộ cuộc sống mình tôi sẽ đi nói về điều đã xảy ra. Chẳng có gì khác để nói ngoại trừ điều này. Nhưng điều này cũng không thể được viết ra. Ngay khi nó đã được viết ra, tôi cảm giác rằng nó chẳng đáng nói tới làm gì. Cái gì có đó mà viết? Người ta có thể viết, "Tôi có kinh nghiệm về linh hồn. Tôi đầy những niềm vui và an bình." Nhưng điều đó có vẻ ngớ ngẩn - toàn lời.

Phật, Mahavira và Christ cứ đi nói cả đời mình theo nhiều cách khác nhau về điều họ đã biết. Họ chưa bao giờ trở nên mệt mỏi cả. Họ bao giờ cũng cảm thấy cái gì đó vẫn còn bị bỏ lại, cho nên họ sẽ nói lại theo cách khác. Điều đó chẳng bao giờ kết thúc cả. Phật và Mahavira có thể kết thúc, nhưng điều họ phải nói thì vẫn còn không đầy đủ.

Vấn đề gồm hai phần: điều có thể được nói dường như giống giấc mơ và duy nhất điều không thể được nói lại dường như đáng nói. Bao giờ cũng còn việc che dấu trong tâm trí cảm giác rằng nếu tôi nói cho bạn điều đã xảy ra cho tôi, điều đó chẳng có tác dụng gì. Mục đích của tôi là đưa bạn tới con đường có thể dẫn bạn tới chính bản thân kinh nghiệm đó. Chỉ thế thì một ngày nào đó bạn mới có thể hiểu điều đã xảy ra cho tôi. Trước đó bạn không thể hiểu được nó, và việc kể của tôi cho bạn về điều đã xảy ra cho tôi sẽ chẳng phục vụ trực tiếp cho mục đích nào. Tôi không nghĩ bạn sẽ tin điều tôi nói. Và phỏng có ích gì mà làm cho bạn hoài nghi? Điều đó sẽ có hại. Cách tốt nhất là đưa bạn lên con đường đó, tới bờ đó mà từ đó bạn có thể được đẩy tới nơi một hôm nào đó bản thân bạn có thể có kinh nghiệm này. Vào ngày đó bạn sẽ có khả năng tin cậy. Bạn sẽ biết cách nó xảy ra. Bằng không không có cách nào để tin cậy.

Và lúc chết của Phật mọi người hỏi, "Thầy sẽ đi đâu sau cái chết?" Phật đã đáp lại cái gì? Ông ấy nói, "Ta đã không ở đâu cả, cho nên ta có thể đi đâu sau cái chết? Ta chưa bao giờ đi đâu cả và cũng chưa bao giờ ở bất kì đâu cả." Thậm chí sau điều này mọi người vẫn cứ hỏi ông ấy sẽ đi đâu, nhưng ông ấy đã nói chân lí bởi vì ý nghĩa của phật tính là không ở đâu cả. Trong trạng thái đó người ta ở không đâu cả, cho nên câu hỏi về việc ở đâu đó không nảy sinh.

Nếu bạn có thể yên tĩnh và im lặng, cái gì còn lại ngoại trừ việc thở? Chỉ việc thở còn lại; không cái gì khác. Giống như không khí bên trong bong bóng, việc thở còn lại. Nếu bạn có thể im lặng ít nhất một lần trong vài khoảnh khắc, thế thì bạn sẽ nhận ra rằng khi không có ý nghĩ, chẳng có gì ngoài việc thở. Việc thở vào và thở ra không khí là không khác gì nhiều hơn việc không khí đi vào đi ra bong bóng hay bóng hơi. Cho nên Phật nói, "Ta chỉ là cái bong bóng. Ta đã ở đâu? Bong bóng đã nổ và các ông đang hỏi nó đã đi đâu." Nếu ai đó như Phật mà biết rằng mình giống như bong bóng, làm sao người đó có thể viết tự truyện của mình hay nói về kinh nghiệm của mình được? Bất kì cái gì người đó có thể nói sẽ bị hiểu lầm.

Tại Nhật Bản có một vị thánh tên là Lin Chi. Một hôm Lin Chi ra lệnh vứt bỏ tất cả các tượng Phật. Chưa bao giờ có người như ông ấy. Chỉ mới hôm trước ông ấy còn tôn thờ chính những tượng Phật này, và bây giờ ông ấy lại ra lệnh vứt bỏ chúng đi. Ai đó đứng dậy và hỏi, "Thầy có còn minh mẫn không đấy? Thầy có biết thầy đang nói gì không?"

Lin Chi trả lời, "Chừng nào ta còn nghĩ rằng ta hiện hữu, ta tin rằng Phật hiện hữu. Nhưng khi bản thân ta không có đó, khi ta chỉ là cái bong bóng không khí, thế thì ta biết rằng ai đó giống Phật cũng không thể đã hiện hữu ở đó."

Đến tối Lin Chi lại tôn thờ Phật. Mọi người lại hỏi ông ấy ông ấy đang làm gì. Ông ấy nói, "Ta đã được giúp đỡ trong cái không hiện hữu của ta bởi cái không hiện hữu của Phật. Đó là lí do tại sao ta đã đưa ra lời cám ơn. Đó là việc tạ ơn từ bong bóng này cho bong bóng khác, không gì hơn." Nhưng những phát biểu này không thể nào được hiểu đúng. Mọi người cứ nghĩ rằng đã có cái gì đó sai với con người này và rằng ông ấy đã chống lại Phật.

Tự truyện không tồn tại. Nói một cách sâu sắc, linh hồn bản thân nó không tồn tại. Cho tới giờ, chúng ta chỉ hiểu rằng bản ngã không tồn tại. Trong hàng nghìn năm, chúng ta đã được bảo cho biết rằng bản ngã không tồn tại. Trong hàng nghìn năm, chúng ta đã được bảo cho biết rằng bản ngã không tồn tại khi người ta đạt tới tự hiểu bản thân mình. Nhưng để cho đúng hẳn, thì bản thân linh hồn cũng không tồn tại.

Trong hiểu biết về điều này người ta tràn ngập hoảng hốt. Đó là lí do tại sao chúng ta lại không thể hiểu được Phật. Ông ấy nói, "Linh hồn cũng không tồn tại; chúng ta trở thành vô linh hồn." Điều đó trở thành rất khó hiểu Phật trong thế giới này.

Mahavira đã nói chỉ về cái chết của bản ngã; nhiều đến mức đó thì có thể hiểu được. Không phải là Mahavira đã không biết rằng thậm chí linh hồn cũng không tồn tại, nhưng ông ấy lưu tâm về hiểu biết có giới hạn của chúng ta. Do đó, ông ấy đã nói chỉ về từ bỏ bản ngã, vẫn biết rằng linh hồn sẽ tự động tan biến.

Phật, lần đầu tiên, đã đưa ra một phát biểu là một bí mật. Upanishad cũng đã biết, Mahavira cũng đã biết, rằng linh hồn không tồn tại lúc cuối cùng, bởi vì chính ý tưởng về linh hồn là phóng chiếu của bản ngã. Nhưng Phật đã tiết lộ bí mật đã được giữ kín lâu thế. Điều đó đã tạo ra khó khăn. Những người mà bản thân họ đã tin rằng bản ngã không tồn tại bắt đầu cãi nhau. Nếu cả linh hồn cũng không tồn tại, họ nói, thế thì mọi thứ đều vô dụng. Chúng ta ở đâu?

Phật là phải. Thế thì làm sao có thể có tự truyện? Mọi thứ đều giống như chuỗi giấc mơ, giống như mầu cầu vồng được tạo ra trên bong bóng. Mầu sắc chết đi khi bong bóng nổ. Đó là kết quả rất hiển nhiên.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx