sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chiều bên kia cái biết - Phần 4-1

Thầy đã nói cho chúng tôi điều xảy ra cho linh hồn trong khoảng vô thời gian giữa hai lần sinh.

Nhưng một số điểm vẫn còn chưa được giải quyết, liên quan tới linh hồn vô thân thể: trong trạng thái vô thân thể đó, liệu linh hồn còn tĩnh tại hay nó có thể di chuyển?

Và làm sao nó nhận ra các linh hồn khác?

Trong trạng thái đó liệu có khả năng đối thoại giữa các linh hồn hay không?

Trong mối liên quan này, hai hay ba điều có thể cần được nhớ. Trước hết, không có bất kì tình huống tĩnh hay động nào trong trạng thái đó. Đó là lí do tại sao điều đó trở thành khó hiểu hơn. Rất dễ cho chúng ta hiểu nếu không có động thì phải ở vào trạng thái nghỉ hay ngược lại. Trong suy nghĩ của chúng ta, đây là hai khả năng duy nhất cho mọi vật. Chúng ta nghĩ rằng trong việc thiếu vắng cái này, cái kia phải thịnh hành. Chúng ta cũng bị ấn tượng rằng hai trạng thái này là đối lập với nhau.

Cho nên điều đầu tiên, chúng ta nên hiểu động và bất động là không đối lập, mà là các khía cạnh khác biệt của cùng một điều. Khi động ở mức chúng ta không có khả năng thấy hay hiểu thấu nó, chúng ta gọi nó là bất động. Cũng như vậy, động là một trạng thái của bất động mà chúng ta không có khả năng hiểu thấu. Nếu cái gì đó chuyển động với vận tốc lớn, bạn sẽ thấy rằng nó dường như tĩnh tại.

Nếu cái quạt chuyển động với tốc độ cao, bạn sẽ không có khả năng thấy các cánh của nó. Với tốc độ đó, bạn thậm chí sẽ không có khả năng biết được quạt có mấy cánh, bởi vì khoảng trống giữa ba cánh đã bị lấp đầy trước khi chúng ta có thể thấy được nó. Quạt có thể chuyển động nhanh đến mức bạn không thể đặt được cái gì qua khoảng không giữa các cánh. Mọi vật có thể được chuyển động theo cách mà cho dù bạn có sờ vào chúng bằng tay, bạn sẽ cảm thấy rằng chúng không chuyển động. Đó là lí do tại sao khoa học nói rằng tất cả mọi thứ dường như tĩnh tại với chúng ta, cũng đang chuyển động, nhưng chuyển động này rất nhanh và tại mức độ vượt ra ngoài sự nắm bắt của các giác quan của chúng ta. Do đó, động và bất động không phải là hai điều. Chúng là các trạng thái khác nhau của cùng một điều chỉ khác về mức độ.

Trong cõi không có thân thể, cả hai tình huống này sẽ không có đó bởi vì chỗ không có thân thể, cũng chẳng có thời gian và không gian. Từ những điều chúng ta đã biết cho tới giờ, chúng ta không thể nào quan niệm nổi về cõi vượt ra ngoài thời gian và không gian bởi vì chúng ta chẳng biết cái gì ở cõi bên kia cả.

Thế thì chúng ta sẽ gọi tình huống đó là gì? Chúng ta thậm chí chẳng có từ nào để diễn đạt tình huống không có thời gian và không gian. Khi, trong một kinh nghiệm tôn giáo, các thông điệp về trạng thái như vậy lần đầu tiên được nhận thấy, khó khăn phát sinh liên quan tới cách mô tả nó. Tên của trạng thái đó là gì? Một lúng túng tương tự với điều này cũng được khoa học kinh nghiệm thấy khi nó gặp khó khăn để đặt tên cho một hiện tượng mới được phát hiện ra; khi một cái gì đó xảy ra khác với và ở ngoài tất cả mọi tri thức thích hợp của chúng ta, điều này trở thành rất khó khăn.

Chẳng hạn, vài năm trước đây, khi điện tử lần đầu tiên được phát hiện ra, vấn đề nảy sinh là cần gọi nó là hạt hay là sóng. Chúng ta không thể gọi nó là hạt được bởi vì vật chất bao giờ cũng tĩnh; mà chúng ta cũng không thể gọi nó là sóng được bởi vì sóng bao giờ cũng động và vô trọng lượng. Điện tử đồng thời là cả hai. Thế thì khó khăn nảy sinh - bởi vì theo hiểu biết của chúng ta, một thứ chỉ có thể là một trong hai dạng này, nhưng không là cả hai. Nhưng điện tử là cả hạt cũng như sóng. Đôi khi chúng ta hiểu nó là như hạt, đôi khi như sóng. Không có từ nào trong bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới diễn đạt được hiện tượng này.

Với các nhà khoa học quan sát hiện tượng này, điều đó dường như không thể nào quan niệm nổi. Nó trở thành một bí ẩn. Khi mọi người hỏi Einstein sao ông ấy mô tả điện tử vừa là hạt và sóng, họ cảm thấy rằng cách nghĩ của ông ấy đã trở thành phi logic và bí ẩn. Einstein, khi đáp lại, đã hỏi họ liệu ông ấy nên tin vào sự kiện hay logic. Sự kiện là ở chỗ điện tử đồng thời là cả hai, nhưng logic bảo chúng ta rằng một vật chỉ có thể là một dạng vào mỗi lúc. Một người hoặc đứng đấy hoặc bước đi. Logic bảo chúng ta rằng người đó có thể ở một trạng thái vào mỗi lúc; người đó không thể đồng thời đứng đấy và bước đi được. Do đó logic sẽ không đồng ý. Nhưng kinh nghiệm về điện tử yêu cầu rằng các nhà khoa học phải gạt logic sang bên và giữ lấy sự kiện. Điện tử là một thí dụ.

Kinh nghiệm của các cá nhân tôn giáo nói cho chúng ta rằng trong khoảng giữa việc rời bỏ thân thể này và nhận lấy thân thể khác, linh hồn vô thân thể không tĩnh cũng chẳng động. Điều này vượt ra ngoài cách hiểu của chúng ta. Đó là lí do tại sao một số tôn giáo nói linh hồn vô thân thể là tĩnh tại và số khác nói nó trong chuyển động. Nhưng đây chỉ là do khó khăn của việc giải thích - bởi vì biên giới không gian và thời gian mà trong đó việc chuyển động hay bất động được quan sát, không tồn tại trong khoảng đó. Với cả chuyển động và bất động, thân thể là cần thiết. Không có thân thể, không thể có chuyển động hay bất động. Thân thể là trung gian duy nhất qua đó các tình huống này có thể được quan sát.

Chẳng hạn, đây là bàn tay tôi. Tôi hoặc có thể di chuyển nó hay giữ nó đứng yên. Ai đó có thể hỏi, khi tôi không có cái tay thể chất này, thì liệu linh hồn của tôi có chuyển động hay không? Bản thân câu hỏi này là vô nghĩa bởi vì không có tay này linh hồn không thể di chuyển mà cũng không thể còn tĩnh tại. Chuyển động và bất động cả hai đều là phẩm chất của thân thể. Bên ngoài thân thể, từ chuyển động và bất động không có nghĩa.

Điều này là áp dụng được cho mọi nhị nguyên. Ta hãy lấy, chẳng hạn, tình huống về việc nói và tình huống vẫn còn im lặng. Không có thân thể, không có khả năng nói cũng chẳng có khả năng im lặng. Thông thường, chúng ta có thể hiểu rằng không thể nào nói mà lại không có thân thể, nhưng khó mà hiểu rằng thậm chí không thể nào im lặng nếu không có thân thể. Qua trung gian này người ta mới có thể nói, người ta có thể diễn đạt im lặng nữa. Việc trở nên im lặng là cách nói duy nhất, là một trạng thái nói. Im lặng không chỉ là một trạng thái không nói, mà là trạng thái nói nữa.

Chẳng hạn, một người bị mù. Người ta có thể cảm thấy rằng có lẽ người đó chỉ có khả năng thấy bóng tối. Điều này là ảo tưởng. Ngay cả để thấy bóng tối, mắt cũng là cần thiết. Không có mắt, thậm chí không thể nào thấy được bóng tối. Bạn có thể nhắm mắt và nghĩ điều đó bởi vì bạn đang thấy bóng tối, điều đó là có thể, nhưng bạn đang phạm sai lầm. Trong khi bạn nhắm mắt, mắt bạn vẫn không dừng ở đó; bạn không trở nên mù. Nếu bạn trở nên mù sau khi đã có mắt, thế thì bạn sẽ biết bóng tối là gì. Nhưng với người mù từ khi sinh, không thể nào biết được bóng tối là gì, bởi vì bóng tối cũng là kinh nghiệm của mắt. Bạn kinh nghiệm bóng tối với cùng một trung gian được dùng để kinh nghiệm ánh sáng. Người mù từ khi sinh không thể biết được bóng tối là gì.

Bạn nghe qua tai mình. Trong ngôn ngữ, chúng ta có thể nói rằng người không có tai là không nghe thấy. Nhưng trạng thái không nghe thấy đó cũng không được biết tới với những người điếc. Tai là cần thiết thậm chí để biết rằng bạn đã không nghe thấy. Nó cũng hệt như mắt là cần thiết để biết bóng tối là gì. Bất động là có thể chỉ thông qua giác quan mà trong đó có chuyển động. Nếu không có giác quan, không có kinh nghiệm về bất động. Trong trạng thái vô thân thể, linh hồn không thể nói cũng chẳng thể im lặng. Không có công cụ cho việc nói hay cho việc giữ im lặng. Mọi kinh nghiệm đều phụ thuộc vào công cụ - vào thân thể, vào giác quan.

Nhưng điều này không có nghĩa là linh hồn vô thân thể như vậy đã đạt tới giải thoát. Các mô tả về linh hồn trong giải thoát và linh hồn trong khoảng giữa cuộc sống và tái sinh có thể có vẻ tương tự nhau. Thế thì đâu là khác biệt giữa linh hồn đã được giải thoát và linh hồn đang trong khoảng giữa này? Khác biệt là ở tiềm năng, ở sự tồn tại hạt mầm.

Trong sự tồn tại vô thân thể, khoảng giữa hai thân thể, các kinh nghiệm và ấn tượng về tất cả mọi việc sinh vẫn còn lại với linh hồn này dưới dạng hạt mầm. Ngay khi linh hồn này thu được thân thể, chúng sẽ trở nên tích cực. Chẳng hạn, nếu chúng ta cắt chân của một người, kinh nghiệm của người đó về việc chạy sẽ không biến mất. Không có chân người đó không thể chạy cũng không thể dừng, bởi vì nếu người đó không thể chạy thì làm sao người đó có thể dừng được? Nhưng nếu người đó lại có chân, mọi kinh nghiệm và ấn tượng của người đó sẽ trở nên kích hoạt lại và người đó sẽ có khả năng chạy nếu người đó muốn.

Điều đó cũng giống như lấy đi chiếc xe ô tô từ một người bao giờ cũng lái xe. Bây giờ người đó không thể lái xe hay nhấn ga được - bởi vì người đó không có xe. Người đó cũng không thể nhấn phanh để hãm xe. Nhưng kinh nghiệm của người đó về lái xe vẫn còn lại với người đó dưới dạng hạt mầm. Nếu người đó kiếm được xe sau vài năm, thì người đó sẽ có khả năng lái nó ngay khi người đó đặt chân vào chân ga.

Linh hồn đã giải thoát trở nên tự do với những ấn tượng này, trong khi ở khoảng giữa hai thân thể thì linh hồn chỉ trở nên tự do với các giác quan, các công cụ. Trong giải thoát, mọi kinh nghiệm, ấn tượng và ham muốn đều bị phá huỷ. Trong cả hai tình huống của linh hồn, đều có sự tương tự - rằng không có thân thể. Nhưng có khác biệt. Trong giải thoát không có thân thể cũng không có chuỗi các kinh nghiệm thân thể. Trong khoảng giữa các lần sinh, mặc dầu không có thân thể nhưng có chuỗi lớn những kinh nghiệm liên quan tới thân thể tồn tại dưới dạng hạt mầm mà có thể trở nên tích cực vào bất kì lúc nào thu được thân thể.

Cho nên bất kì kinh nghiệm nào người ta có thể có trong khoảng giữa này đều sẽ là kinh nghiệm có thể có với việc không có thân thể. Như tôi đã nói, đây sẽ là những kinh nghiệm về thiền. Nhưng kinh nghiệm thiền chỉ rất ít người có. Trong hàng triệu người, chỉ một người có kinh nghiệm thiền. Những người còn lại có thể có kinh nghiệm gì? Kinh nghiệm của họ sẽ là kinh nghiệm về cuộc sống mơ. Trong mơ, không giác quan nào tham dự.

Có thể là nếu một người đang trong mơ, và nếu bạn có thể giữ người đó trong mơ và cắt chi anh ta đi, giấc mơ của anh ta có thể không bị quấy rối. Nhưng có khả năng là giấc ngủ của anh ta sẽ bị phá vỡ. Nếu như có thể cắt chi anh ta hết cái nọ đến cái kia mà không phá vỡ giấc ngủ của anh ta, thế thì giấc mơ của anh ta sẽ tiếp tục không bị quấy rối bởi vì không một chi nào của thân thể là cần cho giấc mơ cả. Thân thể không tích cực trong giấc mơ; không có việc dùng thân thể trong nó. Không có thân thể kinh nghiệm mơ sẽ vẫn còn. Trong thực tế, mọi kinh nghiệm sẽ vẫn còn dưới dạng mơ.

Nếu ai đó định hỏi hạn liệu bạn là tĩnh hay trong chuyển động trong giấc mơ, bạn sẽ thấy khó trả lời. Khi bạn thức dậy khỏi giấc mơ, bạn thấy rằng tất cả mọi cái đã cùng bạn đều nằm cùng một chỗ, nhưng bạn đã trong giấc mơ. Khi tỉnh dậy, bạn thấy rằng đã có những việc xảy ra sâu, dài trong giấc mơ, nhưng nhớ, không có chuyển động chút nào trong nó.

Nếu bạn hiểu đúng, bạn sẽ thấy rằng bạn thậm chí không phải là người tham dự vào trong giấc mơ. Theo một nghĩa sâu sắc, bạn chỉ có thể là một nhân chứng. Đấy là lí do tại sao người ta có thể thấy bản thân mình chết trong giấc mơ; người ta có thể thấy thân thể riêng của mình nằm chết. Trong giấc mơ, nếu bạn thấy mình bước đi, thế thì người bạn thấy đang bước đó là một hiện tượng mơ và bạn hiện hữu nhưng là một nhân chứng.

Đấy là lí do tại sao tôn giáo đã đưa ra ý tưởng rằng nếu một người có thể coi thế giới này tựa như giấc mơ, người đó sẽ có kinh nghiệm tôn giáo cao nhất. Chỉ từ điều này, khái niệm thượng đế học về việc gọi thế giới này là maya - ảo tưởng hay giấc mơ - đã được nêu ra. Nghĩa sâu sắc hơn của điều này là ở chỗ nếu người ta có thể coi thế giới này dường như trong giấc mơ, thế thì người ta trở thành nhân chứng. Trong giấc mơ, người ta bao giờ cũng là nhân chứng và không ai là người tham dự cả. Trong mọi hoàn cảnh bạn đều không là diễn viên. Mặc dầu bạn có thể thấy bản thân mình là diễn viên, bạn bao giờ cũng là khán giả, người thấy, người đang thấy.

Do đó, mọi kinh nghiệm vô thân thể sẽ giống như giấc mơ - tựa hạt mầm. Những người có kinh nghiệm đã tạo ra khổ cho họ thì sẽ thấy ác mộng và các giấc mơ về địa ngục. Những người có kinh nghiệm đã đem họ tới sướng thì sẽ mơ về cõi trời và sẽ hạnh phúc trong giấc mơ của mình. Nhưng những điều này tất cả đều là kinh nghiệm tựa giấc mơ.

Đôi khi các kiểu biến cố khác nhau cũng có thể xảy ra, nhưng những loại kinh nghiệm này sẽ khác. Đôi khi, có thể xảy ra là những linh hồn không tĩnh cũng chẳng động sẽ đi vào thân thể khác. Nhưng việc nói rằng linh hồn sẽ đi vào là nguỵ biện ngôn ngữ. Tốt hơn là nói rằng thân thể nào đó có thể hành xử theo cách mà nó sẽ gây ra cho một linh hồn đi vào trong nó. Thế giới của những linh hồn như vậy là không khác với thế giới của chúng ta. Thế giới đó cũng tồn tại ngay bên cạnh chúng ta, kề bên. Chúng ta tất cả đều sống trong cùng một thế giới. Mọi li không gian đang ở đây đều đầy những linh hồn. Không gian ngay đây trống rỗng với chúng ta cũng đầy tràn.

Có hai kiểu thân thể ở trong trạng thái nhạy cảm sâu sắc. Một là của những người đang trong sợ hãi lớn. Những người đang trong sợ hãi lớn làm cho linh hồn của họ co lại bên trong thân thể họ - nhiều đến mức họ bỏ trống hoàn toàn phần nào đó của thân thể. Một số linh hồn lân cận trôi dạt và vào trong chỗ trống rỗng đó như nước tràn vào hố. Nhiều lần, những linh hồn này kinh nghiệm những điều mà chỉ linh hồn có thân thể mới có thể kinh nghiệm được.

Thứ hai là, một linh hồn có thể đi vào một thân thể khi nó ở trong khoảnh khắc cầu nguyện sâu sắc. Trong những khoảnh khắc cầu nguyện sâu sắc đó, linh hồn cũng co lại. Nhưng trong những khoảnh khắc sợ hãi, những linh hồn, trôi dạt trong khổ và phiền não lớn, chỉ thấy ác mộng. Đấy là những linh hồn mà chúng ta gọi là tâm linh ác. Bởi vì người kinh hoàng ngẫu nhiên ở trong trạng thái xấu và bẩn, không linh hồn cao hơn nào đi vào người đó.

Người sợ hãi cũng giống như cái rãnh: chỉ những linh hồn đang đi xuống mới có thể đi vào được. Người cầu nguyện giống như đỉnh: chỉ những linh hồn đi lên mới có thể đi vào được. Người cầu nguyện trở nên tràn đầy với nhiều hương thơm bên trong và nhiều cái đẹp bên trong đến mức chỉ những linh hồn cao nhất mới quan tâm tới người đó. Và linh hồn cao hơn như vậy sẽ đi vào chỉ bởi điều chúng ta gọi là cầu khẩn, lời mời hay cầu nguyện.

Cả hai kiểu kinh nghiệm này từ các linh hồn như đã nói chỉ có thể có với thân thể. Vậy, có một khoa học đầy đủ để cầu khẩn devatas - các thần. Những devatas này không giáng xuống từ trên cõi trời, những linh hồn mà chúng ta có thể gọi là linh hồn ác cũng không tới từ địa ngục hay thế giới quỉ nào đó. Chúng tất cả đều hiện diện ngay ở đây, cùng tồn tại với chúng ta.

Thực tại, trong cùng không gian này, có sự tồn tại nhiều chiều. Chẳng hạn, căn phòng này nơi chúng ta đang ngồi đầy những không khí. Nếu ai đó đốt hương, đốt chất thơm nào đó, căn phòng sẽ tràn ngập hương thơm. Nếu ai đó hát lên bài ca du dương, sóng âm cũng sẽ tràn ngập căn phòng. Nhưng khói của hương sẽ không va chạm với sóng của bài ca. Căn phòng này vẫn tràn đầy với âm nhạc cũng như với ánh sáng, nhưng không sóng ánh sáng nào sẽ va chạm với bất kì sóng âm nào. Mà ánh sáng cũng không phải dời đi để làm cho căn phòng có lối vào cho sóng âm thanh.

Trong thực tế, chính không gian này tràn ngập trong một chiều bởi sóng âm thanh, trong chiều khác bởi sóng ánh sáng và trong chiều thứ ba bởi sóng không khí. Giống thế, hàng trăm thứ tràn ngập căn phòng này trong hàng trăm chiều khác nhau. Chúng không cản trở lẫn nhau theo bất kì cách nào, mà cũng chẳng thứ gì phải dọn đi để nhường chỗ cho cái gì khác. Do đó, tất cả không gian này là đa chiều.

Chẳng hạn, tại chỗ này chúng ta có cái bàn, nhưng chúng ta không thể để cái bàn khác vào cùng chỗ bởi vì các bàn là cùng một chiều. Nhưng sự tồn tại của một chiều khác sẽ không thấy bàn là rào chắn. Tất cả các linh hồn này đều ở rất gần chúng ta; bất kì lúc nào đều có thể có việc đi vào. Khi các linh hồn đi vào, thế thì chúng sẽ có kiểu kinh nghiệm thân thể, và những kinh nghiệm này là kinh nghiệm chỉ có thể có qua thân thể.

Một nhân tố nữa liên quan tới cách thức mà qua đó những linh hồn này đi vào thân thể sống, là trao đổi. Trao đổi là có thể chỉ giữa linh hồn đi vào và linh hồn hiện đang tồn tại trong thân thể. Đó là lí do tại sao, cho tới bây giờ trên trái đất này, không tâm linh nào, ác hay thiện, đã có khả năng truyền trao trực tiếp với chúng ta, ngay trước mắt chúng ta. Nhưng không có bất kì truyền trao nào thì cũng không đúng. Việc truyền trao vẫn xảy ra. Thông tin mà chúng ta có về cõi trời và địa ngục không phải là cái gì đó từ trí tưởng tượng của mọi người, nhưng nó đã được truyền trao qua những linh hồn như vậy qua người trung gian.

Vậy, trong thời xa xưa, đã có một hệ thống. Chẳng hạn, với kinh Veda của người Hindu, không một hiền giả nào của Veda nói rằng mình đã là người viết cái này cái nọ của Veda; trong thực tế, người đó không phải là người viết chút nào. Không phải là vì khiêm tốn hay giản dị mà các hiền giả này đã không công bố là người viết. Chính thực tế là điều họ đã viết ra, theo một cảm giác nào đó, đã được họ nghe thấy. Đây là một kinh nghiệm rất rõ ràng: khi linh hồn nào đó đi vào trong bạn và nói, kinh nghiệm là rõ ràng đến mức bạn biết rất rõ mình đang ngồi bên cạnh trong khi ai đó khác không phải là bạn lại đang nói. Bạn nữa cũng là người nghe và không phải là người nói.

Điều này không dễ biết từ bên ngoài, nhưng nếu được quan sát với chú ý đúng đắn thì điều đó là có thể. Chẳng hạn, cách thức và kiểu cách nói sẽ khác, âm hưởng sẽ khác, cách phát âm và ngôn ngữ cũng sẽ khác. Với người chủ nguyên thuỷ của thân thể, mọi thứ sẽ rõ ràng như pha lê từ bên trong. Nếu tâm linh ác nào đó đã đi vào, thế thì người này có lẽ sẽ sợ hãi nhiều đến mức người đó sẽ trở thành vô ý thức. Nhưng nếu một linh hồn trên cõi trời đã đi vào, thế thì người đó sẽ nhận biết và được thức tỉnh đến mức người đó chưa bao giờ như trước nữa. Thế thì tình huống sẽ rõ ràng như pha lê với người đó.

Cho nên những người mà tâm linh ác đi vào thì sẽ rất rõ ràng về sự kiện là ai đó đã đi vào trong họ chỉ sau khi linh hồn ác đó rời bỏ thân thể - bởi vì họ trở nên sợ hãi tới mức họ chẳng biết gì cả và rơi vào vô ý thức. Nhưng những người mà linh hồn trên thiên đường đi vào sẽ có khả năng nói vào ngay chính khoảnh khắc mà "điều đang được nói là bởi ai đó khác, không phải bởi tôi."

Hệt như hai người có thể dùng chung một microphone, cả hai tiếng nói này sẽ dùng cùng một dụng cụ. Người này sẽ dừng nói trong khi người kia sẽ bắt đầu nói. Khi các giác quan của thân thể có thể được dùng như vậy, thì linh hồn vô thân thể có thể truyền trao được. Đó là cách thức cho bất kì cái gì được thế giới này biết tới về các thần và các tâm linh ác đều trở thành được truyền trao. Không có cách khác để biết về các điều này.

Với tất cả những điều này, khoa học đầy đủ đã được tiến triển. Một khi khoa học được tiến triển, mọi sự trở nên dễ hiểu hơn. Thế thì những điều này có thể được sử dụng với hiểu biết đầy đủ. Khi những loại biến cố này đã xảy ra trong quá khứ, các nguyên lí khoa học đã được suy diễn ra từ chúng. Chẳng hạn, nếu ngẫu nhiên và đột nhiên một linh hồn nào đó trên cõi trời đã đi vào ai đó, thế thì từ nghiên cứu về việc xảy ra đó, các nguyên tắc nào đó liên quan tới các điều kiện dẫn tới hiện tượng như thế sẽ được tiến triển ra. Thế thì có thể nói rằng nếu những điều kiện như vậy có thể lại được tạo ra, thì lần nữa những linh hồn như thế sẽ đi vào.

Chẳng hạn, người Mô ha mét giáo sẽ đốt lohban. Đây là phương pháp mời các tâm linh thiện bằng việc tạo ra một bầu không khí hương thơm đặc biệt. Người Hindu cũng đốt hương, và họ thắp ngọn lửa làm từ bơ sữa trâu lỏng (ghee). Những thứ này dường như là hình thức nghi lễ ngày nay, nhưng đã có thời chúng mang nghĩa sâu sắc.

Người Hindu sẽ tụng một mật chú đặc biệt trở thành lời cầu khẩn. Không nhất thiết là phải có nghĩa cho mật chú. Thông thường thì không có nghĩa, bởi vì mật chú có nghĩa trở nên bị bóp méo với việc chuyển thời đại. Nhưng mật chú vô nghĩa không trở nên bị bóp méo. Với mật chú vô nghĩa chẳng cái gì phụ có thể đi vào theo việc chuyển thời đại. Đó là lí do tại sao tất cả các mật chú có chiều sâu đều vô nghĩa. Chúng không có nghĩa, cho nên chúng vẫn còn không bị thay đổi. Chúng chỉ là âm thanh. Có những phương pháp cho việc tụng những âm thanh này. Nếu có một phách đặc biệt, mạnh mẽ và nhịp điệu, thì linh hồn được cầu khẩn sẽ đi vào ngay lập tức. Và nếu linh hồn mà mật chú này đã được phát minh ra, đã tan biến vào niết bàn, linh hồn khác với sự thuần khiết tương tự sẽ đi vào.

Tất cả các tôn giáo trên thế giới đều có những mật chú nào đó. Người Jaina có Namokar.

Con cúi lạy những người đã tiêu diệt mọi kẻ thù.

Con cúi lạy những người đã đạt tới giải thoát.

Con cúi lạy những thầy dạy tôn giáo.

Con cúi lạy nhưng người là tu sĩ.

Con cúi lạy tất cả những người khao khát tôn giáo.

Nó có năm đoạn. Mỗi đoạn có một lời cầu khẩn mà trở nên ngày một sâu sắc hơn.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx