sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúng ta là những Kẻ dối trá - Phần I - Chương 01 - 02 - 03 - 04

PHẦN MỘT

Chào mừng

1

CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI nhà Sinclair xinh đẹp.

Không ai phạm pháp.

Không ai nghiện ngập.

Không ai thảm bại.

Nhà Sinclair là những con người khỏe mạnh, cao ráo và tốt đẹp. Chúng tôi là những đảng viên Dân chủ giàu có lâu đời. Nụ cười rộng mở, chiếc cằm vuông vức, và những cú giao bóng tennis đầy hung hãn.

Chẳng sao cả nếu cuộc ly dị xé vụn cơ tim của chúng tôi để chúng khó có thể đập mà không khỏi gắng sức. Chẳng sao cả nếu mớ tiền trong quỹ ủy thác chẳng còn đến một cắc; nếu những hóa đơn thẻ tín dụng chưa trả nằm dài trên tủ bếp. Chẳng sao cả nếu có một đống lọ thuốc trên chiếc tủ cạnh giường.

Chẳng sao cả nếu một trong chúng tôi yêu ai đó điên cuồng.

Yêu

rất nhiều

đến nỗi phải dùng những thước đo ghê gớm tương tự mới có thể đo đếm được.

Chúng tôi là nhà Sinclair.

Không ai nghèo túng.

Không ai xấu xa.

Chúng tôi sống, chí ít là vào mùa hè, trên một hòn đảo tư nhân ở bờ bang Massachusett.

Có lẽ đó là tất cả những gì bạn cần biết.

2

TÊN ĐẦY ĐỦ CỦA TÔI là Cadence Sinclair Eastman.

Tôi sống ở Burlington, Vermont, với mẹ và ba chú chó.

Tôi sắp bước sang tuổi mười tám.

Tôi sở hữu một tấm thẻ thư viện dùng nhiều vẫn còn xài tốt chán và cũng không có thêm nhiều thứ gì khác lắm, dẫu rằng đúng là tôi sống trong một căn nhà bự chảng đầy những thứ đồ đắt tiền mà vô dụng.

Tôi từng có mái tóc vàng, nhưng giờ nó đen nhánh.

Tôi từng khỏe mạnh, nhưng giờ thì ốm yếu.

Tôi từng xinh đẹp, nhưng giờ nom bệnh tật.

Đúng là kể từ sau tai nạn tôi chịu chứng đau nửa đầu.

Đúng là tôi không muốn chịu những kẻ ngu ngốc.

Tôi thích nghĩa bện vào nhau. Bạn hiểu chứ? Chịu chứng đau nửa đầu. Không chịu những kẻ ngu ngốc. Ý của từ ở câu trước gần giống ý ở câu sau, nhưng không hẳn vậy.

Suffer.

Bạn có thể nói nó có nghĩa là chịu đựng, nhưng nó không đúng chính xác. [2]

[2] Nguyên văn:Suffer migraines (Chịu chứng đau nửa đầu). Do not suffer fools (Không chịu những kẻ ngu ngốc). Từ Suffer được dùng trong cả hai câu nhưng nghĩa của nó không giống nhau.

CÂU CHUYỆN CỦA TÔI BẮT ĐẦU trước lúc tai nạn xảy ra. Tháng sáu mùa hè năm tôi mười lăm tuổi, cha tôi bỏ đi theo ả đàn bà nào đó ông yêu hơn chúng tôi.

Cha tôi là một giáo sư lịch sử quân sự khá thành đạt. Hồi ấy tôi rất ngưỡng mộ ông. Ông khoác chiếc áo vest bằng vải tuýt. Ông gầy gộc. Ông uống trà sữa. Ông thích những trò chơi cờ bàn[3] và để tôi thắng, thích những con thuyền và dạy tôi chèo kayak[4], thích xe đạp, sách và bảo tàng nghệ thuật.

[3] Boardgame: một thể loại trò chơi gồm hai hoặc nhiều người tương tác trực tiếp với nhau thông qua một bàn cờ. Boardgame thường sử dụng vật dụng đi kèm như các lá bài, xí ngầu, quân cờ,… để hỗ trợ cho cuộc chơi. Một số trò Boardgame phổ biến như: cờ tỷ phú, bài uno, bài ma sói, bài nói dối, rút gỗ, đâm hải tặc, cờ tổ ong...

[4] Kayak là một chiếc thuyền tương đối nhỏ và hẹp, được điều khiển hoàn toàn bằng sức người, thiết kế chủ yếu để được tự đẩy bằng mái chèo tay. Đây là loại xuồng gỗ nhẹ bọc da chó biển của người Et-ki-mô.

Ông chưa từng thích chó, và đó là dấu hiệu biểu lộ ông yêu mẹ tôi nhiều đến nhường nào khi ông để những chú chó săn của chúng tôi ngủ trên ghế sofa và dắt chúng đi dạo ba dặm mỗi buổi sáng. Ông cũng chưa từng thích ông bà ngoại, và đó là dấu hiệu biểu lộ ông yêu cả mẹ và tôi nhiều đến nhường nào khi ông dành trọn mỗi mùa hè trong căn nhà Windemere trên đảo Beechwood, viết những bài báo về những cuộc chiến xảy ra hàng lâu trước đó và nở nụ cười với họ hàng trong mỗi bữa ăn.

Tháng sáu năm ấy, mùa hè tôi mười lăm tuổi, cha tôi thông báo rằng ông đang rời đi và sẽ khởi hành hai ngày sau đó. Ông nói với mẹ tôi rằng ông không phải là một người nhà Sinclair, và cũng chẳng thể cố biến mình thành thêm được nữa. Ông không thể cười, không thể giả dối, không thể trở thành một phần của cái gia đình đẹp đẽ trong những căn nhà đẹp đẽ đó được.

Không thể. Không thể. Sẽ không.

Ông đã thuê sẵn những chiếc xe chuyển đồ. Ông cũng đã thuê cho mình một căn nhà. Cha tôi tống mớ hành lý cuối cùng vào ghế sau chiếc Mercedes (ông chỉ để lại cho mẹ tôi mỗi chiếc Saab), và nổ máy.

Rồi ông lôi ra một khẩu súng ngắn và bắn vào ngực tôi. Tôi đang đứng trên bãi cỏ và tôi ngã xuống. Vết đạn bắn mở rộng miệng và tim tôi lăn ra khỏi lồng ngực và rơi xuống thảm hoa. Máu nhịp nhàng trào ra từ vết thương ấy,

rồi từ mắt,

từ tai,

từ miệng.

Nó có vị của muối và thất bại. Nỗi tủi nhục của việc bị hắt hủi thấm đẫm bãi cỏ trước nhà, những viên gạch trên lối đi, những bậc thang dẫn ra hiên trước. Tim tôi co thắt giữa những bông mẫu đơn như một con cá hồi.

Mẹ tôi càu nhàu cáu kỉnh. Bà nói để kềm tôi lại.

Bình thường lại, ngay, bà nói. Ngay bây giờ, bà nói.

Bởi vì con là thế. Bởi vì con có thể.

Đừng có kêu la khóc lóc, bà nói. Thở đi và ngồi dậy.

Tôi làm như mẹ bảo.

Mẹ là tất cả những gì còn lại của tôi.

Mẹ và tôi giương cao chiếc cằm vuông của mình khi bố lái xe xuống đồi. Rồi chúng tôi vào nhà và ném đi tất cả những món quà ông tặng: trang sức, quần áo, sách vở, mọi thứ. Những ngày tiếp theo đó, chúng tôi vứt bỏ chiếc ghế bành và những chiếc ghế tay vịn mà ba mẹ tôi cùng mua. Quăng đi món đồ sứ cho lễ cưới, những đồ dùng bằng bạc, những tấm ảnh.

Chúng tôi mua đồ nội thất mới. Thuê người trang trí. Đặt đồ bạc của Tiffany. Dành trọn một ngày lang thang khắp những phòng triển lãm nghệ thuật và mua những bức tranh để lấp đầy những khoảng trống trên tường.

Chúng tôi nhờ luật sư của ông ngoại bảo vệ tài sản của mẹ.

Rồi chúng tôi gói ghém đồ đạc và lên đường đến đảo Beechwood.

3

MẸ PENNY, DÌ CARRIE, VÀ DÌ Bess là con gái của Tipper và Harris Sinclair. Năm hai mươi mốt tuổi, ông ngoại Harris thừa kế khoản tiền từ Harvard và làm tăng số tài sản của mình bằng cách làm công việc kinh doanh mà tôi chẳng bao giờ thèm hiểu. Ông thừa kế những căn nhà và đất đai. Ông ra những quyết định thông minh về thị trường chứng khoán. Ông cưới bà Tipper và giữ bà trong căn bếp và khoảng vườn. Ông để bà trình diện trong những viên ngọc trai và trên những chiếc thuyền buồm. Bà có vẻ thích nó.

Thất bại duy nhất của ông ngoại đó là ông chưa bao giờ có được một cậu con trai, nhưng chẳng sao cả. Những cô con gái nhà Sinclair rám nắng và may mắn. Cao ráo, vui vẻ, và giàu có, những cô con gái ấy như những nàng công chúa trong câu chuyện thần tiên. Họ nổi tiếng trên toàn Boston, Harvard Yard, và đảo Martha’s Vineyard vì những chiếc áo len đan casơmia và những buổi tiệc tùng đình đám. Họ sinh ra là những huyền thoại. Sinh ra để cưới hoàng tử và học ở những trường Ivy League[5], sở hữu những bức tượng ngà và sống trong những căn nhà tráng lệ.

[5] Ivy League: được dùng để chỉ nhóm tám trường đại học và viện đại học gồm: Harvard (Massachussetts), Yale (Connecticut), Columbia (New York), Brown (Rhode Island), Dartmouth (New Hampshire), Cornell (New York), University of Pennsylvania (Pennsylvania) và Princeton (New Jersey).

Ông ngoại và bà Tipper yêu những cô con gái của họ, và chẳng thể nói được là họ yêu ai nhất. Đầu tiên là Carrie, rồi tới Penny, rồi tới Bess, rồi lại tới Carrie. Những đám cưới linh đình với cá hồi và người chơi đàn hạc được tổ chức, rồi những đứa cháu tóc màu vàng sáng ra đời và những chú chó lông vàng khôi hài xuất hiện. Hồi đó, không ai có thể tự hào về những cô gái Mỹ xinh đẹp của mình hơn ông bà Tipper và Harris.

Họ xây ba căn nhà mới trên hòn đảo dốc đứng mà họ sở hữu và đặt cho mỗi căn một cái tên: Windemere cho mẹ Penny, Red Gate cho dì Carrie, và Cuddledown cho dì Bess.

Tôi là đứa lớn nhất trong đám cháu nhà Sinclair. Người thừa kế hòn đảo, gia tài, và cả những kì vọng.

Chà, có lẽ vậy.

4

TÔI, JOHNNY, MIRREN, và Gat. Gat, Mirren, Johnny, và tôi.

Gia đình gọi chúng tôi là bốn Kẻ dối trá, và có lẽ chúng tôi cũng đáng với danh hiệu đó. Cả đám chúng tôi gần như xêm xêm tuổi nhau, và bốn đứa đều sinh vào mùa thu. Chúng tôi gây nên rắc rối mọi năm chúng tôi ở trên hòn đảo. Gat bắt đầu đến Beechwood năm chúng tôi lên tám. Mùa hè thứ tám, chúng tôi gọi nó là vậy.

Trước đó, Mirren, Johnny, và tôi không phải là những Kẻ dối trá. Chúng tôi chẳng là gì ngoài những đứa anh chị em họ của nhau, và Johnny là một đứa phiền nhiễu vì anh không thích chơi với đám con gái.

Johnny, anh là một kẻ khoác lác, nỗ lực, và quái vật. Hồi ấy anh sẽ treo cổ những con Barbie của chúng tôi và dùng súng làm bằng Lego để bắn vào ngực chúng.

Mirren, cậu ấy ngọt ngào, tò mò, và mít ướt. Hồi ấy cô bạn sẽ dành cả buổi chiều với Taft và hai đứa sinh đôi, té nước ở bãi biển lớn, trong khi tôi vẽ những bức tranh trên giấy kẻ ô vuông và nằm đọc sách trên chiếc võng ở hiên nhà Clairmont.

Rồi Gat tới để dành trọn mùa hè bên chúng tôi.

Chồng của dì Carrie bỏ dì khi dì đang mang thai em của Johnny, Will. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Gia đình tôi chưa từng hé miệng về nó. Mùa hè thứ tám ấy, Will mới còn là một đứa nhóc và dì Carrie đã cặp kè với chú Ed.

Con người tên Ed này, chú ấy là một người buôn tranh và yêu quý trẻ con. Đó là tất cả những gì chúng tôi được nghe kể về chú ấy khi dì Carrie thông báo rằng dì sẽ dẫn chú ấy tới Beechwood, cùng với Johnny và đứa bé.

Họ là những người cuối cùng đến vào mùa hè năm đó, và phần lớn chúng tôi cứ ngồi trên bến tàu chờ con thuyền tấp vào. Ông ngoại bế tôi lên để tôi có thể vẫy tay chào Johnny – anh lúc ấy đang khoác chiếc áo phao màu cam và đứng trên mũi thuyền mà hét toáng lên.

Bà ngoại Tipper đứng kế chúng tôi. Bà quay đi không nhìn chiếc thuyền một lúc, thọc tay vào túi và lôi ra một viên kẹo bạc hà trắng. Bóc vỏ nó và nhét vào miệng tôi.

Khi bà nhìn lại chiếc thuyền, nét mặt bà thay đổi. Tôi liếc xem xem ngoại đang nhìn cái gì.

Dì Carrie bước xuống với Will đeo bên hông. Nó khoác chiếc áo phao màu vàng dành cho con nít, và thật sự tôi không thấy hơn ngoài một đám tóc vàng trắng dày lộn xộn trên đầu nó. Niềm vui dâng lên khi chúng tôi nhìn thấy cậu nhóc. Chiếc áo mà tất cả chúng tôi đều đã từng mặc hồi bé đó. Mái tóc. Tuyệt vời làm sao khi cậu nhóc chúng tôi chưa quen biết này rõ ràng là một Sinclair.

Johnny nhảy ra khỏi con thuyền và quăng chiếc áo phao của mình lên bến. Trước nhất, anh chạy tới chỗ Mirren và đá cô bạn. Rồi anh đá tôi. Đá cặp sinh đôi. Đi tới chỗ ông bà ngoại và đứng thẳng. “Thiệt tốt được hai người, thưa Ông ngoại và Bà ngoại. Cháu hy vọng sẽ có một mùa hè hạnh phúc.”

Bà Tipper ôm anh. “Mẹ cháu bảo cháu nói vậy, có phải không?”

“Vâng ạ,” Johnny nói. “Và cháu sẽ nói, rất vui lại được gặp lại hai người.”

“Ngoan lắm.”

“Cháu đi được chưa ạ?”

Tipper hôn lên đôi gò má đầy tàn nhang của anh. “Rồi, đi đi.”

Ed theo sau Johnny, dừng lại để giúp nhân viên dỡ hành lý chất trên chiếc thuyền máy. Chú cao và mảnh khảnh. Da chú rất đen: sau đó chúng tôi mới biết rằng đó là từ gốc Ấn Độ. Chú đeo chiếc kính có gọng đen và mặc bộ độ thành thị sang trọng: bộ vest bằng vải lanh và áo sơ mi kẻ sọc. Chiếc quần đã bị gấp nếp sau chuyến đi.

Ông ngoại đặt tôi xuống.

Miệng bà ngoại Tipper ngậm thẳng băng. Rồi bà nhe ra khoe trọn hàm răng và bước tới trước.

“Anh hẳn là Ed. Thiệt là một bất ngờ dễ thương làm sao.”

Chú bắt tay. “Carrie không nói với bác là chúng cháu sẽ đến sao?”

“Dĩ nhiên là nó có nói rồi.”

Ed ngó quanh để nhìn gia đình da trắng của chúng tôi. Quay sang dì Carrie. “Gat đâu rồi?”

Họ gọi cậu ấy, và từ trong chiếc tàu, cậu ấy trèo ra, cởi bỏ chiếc áo phao, nhìn xuống để tháo chốt.

“Mẹ, Bố,” dì Carrie nói, “chúng con đem cháu trai của Ed đến để chơi với Johnny. Đây là Gat Patil.”

Ông ngoại đưa tay và vỗ đầu Gat. “Xin chào, chàng trai trẻ.”

“Xin chào.”

“Bố nó vừa qua đời năm nay,” dì Carrie giải thích. “Nó và Johnny là bạn thân. Việc chúng ta trông nó vài tuần cho chị của Ed sẽ giúp chị ấy rất nhiều. Và, Gat? Cháu sẽ được nấu ăn ngoài trời và đi bơi như chúng ta đã bàn. Đồng ý chứ?”

Nhưng Gat không trả lời. Cậu ấy nhìn tôi.

Cậu ấy có cái mũi hơi tẹt và cái miệng hấp dẫn. Da nâu, mái tóc đen và gợn sóng. Cơ thể tràn đầy năng lượng. Dường như Gat đang trong tư thế sẵn sàng. Như thể cậu đang kiếm tìm điều gì đó. Cậu trầm lặng và nhiệt tình. Tham vọng và đậm đặc như cà phê. Tôi có thể nhìn ngắm cậu mãi.

Mắt chúng tôi gặp nhau.

Tôi quay đi và bỏ chạy.

Gat theo sau. Tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân cậu theo sau tôi trên lối đi bằng gỗ lát ngang hòn đảo.

Tôi cứ chạy. Cậu cứ theo sau.

Johnny đuổi theo Gat. Và Mirren đuổi theo Johnny.

Những người lớn vẫn ở lại trên bến tàu, lịch sự đứng quanh chú Ed, nhẹ nhàng thầm thì với bé Will. Đám nhóc làm những gì đám nhóc làm.

Bốn đứa chúng tôi ngừng rượt đuổi khi tới được bãi biển bé xíu phía sau nhà Cuddledown. Đó là một dải cát nhỏ với những tảng đá cao nằm ở hai bên. Ngày ấy ít ai dùng nó. Bãi biển lớn có những bãi cát mịn và ít tảo biển hơn.

Mirren cởi giày ra và đám chúng tôi làm theo. Chúng tôi chọi đá xuống nước. Chúng tôi tồn tại.

Tôi viết tên cả đám trên cát.

Cadence, Mirren, Johnny, và Gat.

Gat, Johnny, Mirren, và Cadence.

Đó là khởi đầu của chúng tôi.

JOHNNY XIN CHO Gat ở lại lâu hơn.

Anh đã được như ý.

Năm tiếp theo đó anh xin cho cậu ấy đến luôn cả mùa hè.

Gat đến.

Johnny là cháu trai đích tôn. Ông bà ngoại gần như chưa từng nói không với Johnny.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx