sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúng ta là những Kẻ dối trá - Phần I - Chương 09 - 10 - 11 - 12

9

BỮA SÁNG ngày hôm sau, Mẹ bảo tôi đi kiểm tra một lượt những món đồ của Bố ở gác mái nhà Windemere và lấy bất cứ món gì tôi cần. Mẹ muốn tống khứ đi những thứ còn lại.

Căn nhà Windemere có hình đầu hồi và góc cạnh. Hai trong số năm căn phòng ngủ có mái nghiêng, và đó là căn nhà duy nhất trên đảo có trọn một căn gác xép. Nó có một cái hiên lớn và một căn bếp tối tân, hiện đại hóa với những viên gạch lát mặt bếp bằng đá cẩm thạch trông có chút lạc lõng. Những phòng ngủ thì lộng gió và đầy chó.

Gat và tôi trèo lên căn gác với những chai trà đá bằng thủy tinh và ngồi bệt trên sàn. Căn phòng có mùi của gỗ. Một chùm ánh sáng hình vuông rọi ra từ khung cửa sổ.

Trước đây chúng tôi đã từng vào căn gác mái.

Trước đây chúng tôi cũng chưa từng ở trên tầng thượng.

Những cuốn sách là những cuốn Bố mang khi đi nghỉ hè. Tất cả đều là những cuốn ký sự thể thao, truyện trinh thám[10], và tuốt-tuồn-tuột những thứ về ngôi sao nhạc rock bởi những con người thời xưa mà tôi chưa từng nghe nói đến. Gat không thật sự tìm kiếm. Cậu chỉ xếp đám sách lại theo màu. Một chồng đỏ, xanh, nâu, trắng, và vàng.

[10] Cozy mysteries: thể loại truyện mà trong đó yếu tố sex và bạo lực được miêu tả một cách nhẹ nhàng và dí dỏm.

“Cậu không muốn đọc cái gì đó sao?” tôi hỏi.

“Có thể.”

“Thế First Base and Way Beyond[11] thì sao?”

[11] Tạm dịch: Nền tảng đầu tiên và xa hơn nữa.

Gat cười. Lắc đầu. Xếp cho ngay lại chồng sách màu xanh.

“Rock On with My Bad Self? Hero of the Dance Floor[12]?”

[12] Tạm dịch: Cuồng nhiệt với mặt xấu của bản thân. Anh hùng sàn nhảy.

Cậu lại cười. Rồi nghiêm mặt. “Cadence?”

“Gì cơ?”

“Im đi.”

Tôi để mình nhìn cậu một lúc lâu. Mọi đường cong trên khuôn mặt cậu đều quen thuộc, và hơn nữa, tôi chưa từng nhìn cậu trước đây.

Gat cười. Một nụ cười tỏa nắng, rụt rè. Cậu quỳ gối làm đá đổ mấy chồng sách màu. Cậu đưa tay ra và vuốt ve mái tóc tôi. “Tớ yêu cậu, Cady. Thật lòng.”

Tôi nhướn người ra và hôn cậu.

Gat chạm tay vào mặt tôi, rồi lướt xuống cổ và xương đòn. Ánh sáng từ cửa sổ căn gác mái chiếu rọi lên chúng tôi. Nụ hôn của chúng tôi như có điện và mềm mại,

và ngập ngừng và quả quyết,

rùng mình và đúng như ý muốn.

Tôi cảm thấy như tình yêu đang chảy dồn từ tôi qua Gat và từ Gat qua tôi.

Chúng tôi ấm áp và run rẩy,

và trẻ và già,

và sống.

Tôi nghĩ, đúng thật. Chúng tôi đã yêu nhau.

Chúng tôi đã.

10

ÔNG NGOẠI đột nhiên bước vào. Gat đứng phắt dậy. Cậu luống cuống đạp lên những cuốn sách xếp theo màu giờ đang nằm vương vãi khắp sàn gác.

“Ông phá đám hả,” ông ngoại nói.

“Không, thưa ông.”

“Có, ông khá chắc đấy.”

“Cháu xin lỗi vì đám bụi bặm,” tôi lúng túng nói.

“Penny nghĩ rằng có thể sẽ có cuốn nào đó ông muốn đọc.” Ông ngoại lôi một chiếc ghế cũ kĩ bằng liễu gai ra giữa phòng và ngồi xuống, cúi nhìn đám sách.

Gat vẫn đứng đó. Cậu phải cúi thấp đầu xuống để tránh đụng chiếc mái nghiêng của căn gác.

“Cẩn thận đấy, chàng trai trẻ,” thình lình Ông ngoại nói bằng giọng sắc bén.

“Sao cơ ạ?”

“Đầu của cậu. Cậu có thể bị thương.”

“Ông nói đúng ạ,” Gat đáp. “Ông nói đúng ạ, cháu có thể bị thương.”

“Thế nên hãy cẩn thận đấy,” Ngoại lặp lại.

Gat quay người và leo xuống cầu thang mà không nói một lời.

Ông ngoại và tôi ngồi trong yên lặng một lúc lâu.

“Cậu ấy thích đọc sách,” cuối cùng tôi lên tiếng. “Cháu nghĩ cậu ấy có thể muốn vài cuốn sách của Ba.”

“Ông rất quý cháu, Cady,” Ông ngoại vỗ vai tôi nói. “Cháu là đứa cháu ngoại đầu tiên của ông.”

“Cháu cũng yêu ông, Ông ngoại.”

“Có nhớ ông đã dẫn cháu đi coi bóng chày như thế nào không? Lúc đó cháu mới có bốn tuổi.”

“Chắc rồi ạ.”

“Cháu chưa từng ăn Cracker Jack[13],” ông ngoại nói.

[13] Thương hiệu gắn liền với bóng chày đã được yêu thích của Mỹ trong hơn 105 năm. Nó là pha trộn của bỏng ngô phủ caramel và đậu phộng.

“Cháu biết. Ông đã mua hai hộp.”

“Ông đã phải bế cháu ngồi vào lòng để cháu có thể nhìn thấy được. Cháu có nhớ chuyện đó không, Cady?”

Tôi có nhớ.

“Nói ông nghe xem nào.”

Tôi biết Ông ngoại muốn tôi đưa ra câu trả lời kiểu nào. Ông hay thường đưa ra một yêu cầu như thế. Ông thích kể lại những khoảnh khắc mấu chốt trong lịch sử nhà Sinclair, phóng đại tầm quan trọng của chúng. Ông luôn hỏi cái gì đó có ý nghĩa gì đối với bạn, và bạn có nhiệm vụ là phải trả lời thật chi tiết. Những hình ảnh. Hoặc có lẽ là một bài học được rút ra.

Thường thì tôi rất thích việc kể lại những câu chuyện và nghe người khác kể lại chúng. Nhà Sinclair huyền thoại, những trò vui chúng ta từng có, chúng ta xinh đẹp như thế nào. Nhưng hôm ấy, tôi không hề muốn nghe.

“Đó là trận bóng chày đầu tiên của cháu,” Ông ngoại nhắc. “Sau đó ông đã mua cho cháu một chiếc gậy nhựa màu đỏ. Cháu đã tập vung gậy trên bãi cỏ căn nhà ở Boston.”

Ông ngoại có biết là ông vừa phá đám chuyện gì không vậy nhỉ? Nếu ông biết thì liệu ông có quan tâm hay không?

Bao giờ tôi mới lại có thể gặp được Gat?

Liệu cậu sẽ chia tay với Raquel?

Chuyện gì sẽ xảy ra với hai đứa tôi?

“Cháu muốn làm món Cracker Jack ở nhà,” Ông ngoại tiếp tục, nghĩ rằng ông biết tôi biết câu chuyện ấy.

“Và Penny đã giúp cháu làm. Nhưng cháu đã khóc toáng lên khi chẳng có chiếc hộp đỏ và trắng nào để bỏ chúng vào. Cháu có nhớ chuyện đó không?”

“Dạ có, Ông ngoại,” tôi bỏ cuộc. “Cùng ngày hôm đó ông đã phải lái cả một đoạn đường dài để quay lại sân bóng chày và mua thêm hai hộp Cracker Jack nữa. Ông đã ăn chúng trên đường về nhà chỉ để ông có thể đưa cho cháu hai chiếc hộp. Cháu nhớ.”

Hài lòng, ông đứa dậy và chúng tôi cùng rời khỏi căn gác. Ông ngoại bước xuống cầu thang không vững, vậy nên ông vịn tay vào vai tôi.

TÔI TÌM THẤY GAT trên con đường vành quanh đảo và chạy tới chỗ cậu đang ngồi nhìn làn nước. Gió thổi mạnh và tóc bay vào mắt tôi. Khi tôi hôn cậu, môi cậu có vị mặn của biển.

11

BÀ NGOẠI TIPPER CHẾT vì bệnh suy tim tám tháng trước khi đến mùa hè thứ mười lăm ở Beechwood. Bà là một người phụ nữ đẹp tuyệt vời, dẫu bà có già đi chăng nữa. Tóc trắng, đôi gò má hồng hào; cao và gầy gộc. Bà là người khiến Mẹ tôi yêu lũ chó rất nhiều. Bà ngoại luôn có ít nhất hai và thi thoảng là bốn chú chó săn khi những cô con gái của ngoại còn nhỏ, luôn như vậy cho đến ngày ngoại mất.

Bà là người dễ phán xét và hay thiên vị, nhưng cũng rất nồng hậu. Nếu bạn thức dậy sớm ở Beechwood, hồi chúng tôi còn nhỏ, bạn có thể tới Clairmont và đánh thức Bà ngoại dậy. Ngoại có sẵn bột làm muffin trong tủ lạnh, và sẽ đổ nó vào những cái hộp và để bạn ăn bao nhiêu muffin tùy thích, trước khi những người còn lại trên đảo thức dậy. Bà sẽ hái cho chúng tôi những quả mọng chín và giúp chúng tôi làm bánh hay thứ gì đó gọi là slump[14] mà chúng tôi sẽ ăn vào tối hôm đó.

[14] Berry slump: trái cây mọng nước ninh nhỏ lửa trong lò và thường cho kèm với bánh bao hấp.

Một trong những dự án từ thiện của bà ngoại là một bữa tiệc gây quỹ tổ chức hàng năm cho Viện Nông trại ở Martha’s Vineyard. Từng có thời tất cả chúng tôi đều tham dự. Nó được tổ chức ở ngoài trời, trong những chiếc lều trắng xinh đẹp. Đám nhóc đi chân đất chạy lăng quăng trong những bộ quần áo dành cho những bữa tiệc. Johnny, Mirren, Gat, và tôi thì chôm lấy mấy ly rượu và thấy choáng váng và ngu ngốc. Bà ngoại nhảy với Johnny và rồi bố tôi, rồi tới ông ngoại, một tay cầm gấu váy bà. Tôi từng chụp một bức ảnh với Bà ngoại trong một bữa tiệc gây quỹ. Ngoại khoác chiếc áo dài mặc buổi tối và tay ôm một chú lợn con.

Mùa hè thứ mười lăm ở, Ngoại Tipper đã ra đi mãi mãi. Clairmont trở nên trống trải.

Căn nhà là một chiếc Victoria ba tầng[15]. Nó có một tháp canh trên đỉnh và hiên nhà vây xung quanh. Bên trong nó là đầy ắp những tranh biếm họa gốc của tờ New Yorker, những bức ảnh gia đình, những chiếc gối thêu, những bức tượng nhỏ, những đồ chặn giấy bằng ngà, những con cá nhồi bông gắn trên bảng. Nơi nơi đều có những thứ đồ xinh đẹp được bà Tipper và Ông ngoại sưu tập và trưng bày. Trên bãi cỏ là một chiếc bàn pinic khổng lồ, đủ lớn cho mười sáu người ngồi trên đó, và cách đó không xa là một chiếc lốp xe đu treo lủng lẳng trên cây mộc lan lớn.

[15] Nhà Victoria: Ở Vương quốc Anh, một căn nhà Victoria chỉ chung bất cứ căn nhà nào xây từ thời cai trị của nữ hoàng Victoria (1837 – 1901).

Bà ngoại từng lăng xăng trong phòng bếp và lên kế hoạch cho những cuộc đi chơi. Bà làm mền trong phòng thủ công, và tiếng rền rền của chiếc máy may có thể nghe thấy từ lầu dưới. Bà chỉ huy những người làm vườn trong chiếc găng tay làm vườn và chiếc quần jean màu xanh biển.

Giờ đây căn nhà đã trở nên tĩnh lặng. Không còn những cuốn sách nấu ăn để mở trên quầy, không còn những bài nhạc cổ điển phát ra từ hệ thống âm thanh của phòng bếp. Nhưng vẫn còn loại xà phòng yêu thích của ngoại trên khay đựng. Những cây hoa của ngoại mọc trong vườn. Chiếc thìa gỗ, chiếc khăn ăn.

Một ngày nọ, khi không có ai khác ở quanh, tôi lẻn vào căn phòng thủ công qua lối cửa sau ở tầng trệt. Tôi chạm tay vào bộ sưu tập những tấm vải, những chiếc cúc sáng bóng, những sợi chỉ màu của Ngoại.

Đầu và vai tôi tan chảy ra trước tiên, tiếp sau là hông và đầu gối. Không lâu sau tôi đã là một vũng nước nhỏ, ngấm dần vào miếng vải bông in hoa xinh đẹp. Tôi khiến chiếc mền bông Ngoại chưa bao giờ hoàn thành ướt sũng, làm gỉ đi những phần bằng kim loại của chiếc máy may của bà. Thế rồi, một hay hai giờ sau đó, tôi là thứ nước tinh khiết sầu khổ. Bà ngoại của tôi. Bà ngoại của tôi. Ra đi mãi mãi, dẫu rằng tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa Chanel của bà thoảng qua trên những tấm vải.

Mẹ tìm thấy tôi.

Mẹ buộc tôi cư xử bình thường. Bởi vì tôi là thế. Bởi vì tôi có thể. Mẹ bảo tôi hãy thở đi và ngồi dậy.

Và tôi làm như mẹ bảo. Một lần nữa.

Mẹ thấy lo cho Ông ngoại. Cái chết của bà ngoại khiến chân ông run rẩy và phải bám vào những cái ghế và bàn để giữ thăng bằng. Ông ngoại là đầu tàu của cả gia đình. Mẹ không muốn ông mất ổn định. Mẹ muốn ông biết rằng đám con cái và cháu chắt vẫn ở bên ông, khỏe mạnh và vui vẻ như mọi ngày. Đó là việc quan trọng, mẹ nói; đó là tử tế; đó là tốt nhất. Đừng dấy lên nỗi đau trong mọi người, mẹ nói. Đừng nhắc con người ta nhớ về một mất mát. “Con có hiểu không, Cady? Sự im lặng là lớp áo bảo vệ che phủ cho nỗi đau.”

Tôi hiểu, và tôi xoay sở xóa đi hình ảnh ngoại Tipper trong các cuộc trò chuyện, cùng cái cách tôi dùng để xóa bỏ đi hình ảnh của cha tôi. Không hạnh phúc, nhưng triệt để. Những bữa ăn với các dì, trên thuyền với Ông, thậm chí một mình với mẹ — tôi cư xử như thể hai người trí mạng ấy chưa từng tồn tại. Những người còn lại trong nhà Sinclair cũng hành xử y như thế. Khi tất cả chúng tôi ở cùng nhau, chúng tôi đều cười những nụ cười rộng mở. Chúng tôi đã hành xử y vậy khi dì Bess bỏ chú Brody, khi chú Jonathan bỏ dì Carrie, chú chó Peppermill của Ông ngoại chết vì căn bệnh ung thư.

Tuy nhiên, Gat chưa bao giờ hiểu được điều đó. Cậu thoải mái nhắc về cha tôi — thật sự mà nói là khá thường xuyên. Cha đã coi Gat vừa là một địch thủ chơi cờ tao nhã, vừa là một khán giả chịu lắng nghe những câu chuyện tẻ nhạt về lịch sử quân đội của mình, thế nên cả hai người họ thường dành thời gian cùng nhau. “Có nhớ khi bố cậu bắt con cua bự chảng bằng một cái xô không?” Gat sẽ nói vậy. Hoặc với mẹ: “Năm ngoái chú Sam bảo cháu là có một cái thùng câu cá bằng mồi ở trong nhà thuyền; cô có biết nó nằm ở đâu không ạ?”

Những cuộc chuyện trò trong bữa ăn tối đột ngột ngưng lại khi cậu đề cập đến Bà ngoại. Có lần Gat nói, “Cháu nhớ cách bà đứng ở cuối bàn và phục vụ món tráng miệng, mọi người có nhớ không? Nó thật là đậm phong cách Tipper.” Anh Johnny buộc phải bắt đầu lớn tiếng nói về giải Wimbledon cho đến vẻ suy sụp mờ dần đi trên nét mặt mỗi người trong gia đình.

Mỗi lần Gat nói về những điều ấy, tình cờ, chân thật, và rõ ràng — tĩnh mạch trong người tôi như giãn ra. Cổ tay tôi tách rời. Bàn tay tôi rỉ máu. Tôi trở nên mất tỉnh táo. Tôi loạng choạng rời khỏi bàn hay suy sụp trong nỗi đau thầm lặng đáng hổ thẹn, hy vọng không ai trong gia đình nhận thấy. Đặc biệt là Mẹ.

Dẫu vậy, Gat gần như luôn nhìn ra. Khi những giọt máu nhỏ giọt trên đôi chân trần hay lan ra cuốn sách tôi đang đọc, cậu ân cần với tôi. Cậu quấn cổ tay tôi trong miếng gạc trắng mềm mại và hỏi tôi những câu hỏi về chuyện đã xảy ra. Cậu hỏi về Ba và bà ngoại—như thể việc nói về một điều gì đó sẽ khiến nó trở nên tốt hơn. Như thể những vết thương cần được quan tâm chú ý.

Thậm chí sau từng ấy năm, với gia đình chúng tôi cậu vẫn là một người xa lạ.

KHI TÔI KHÔNG CÒN chảy máu, và khi Mirren và Johnny đi lặn hay cãi nhau ầm ĩ với đám nhóc trong nhà, hay khi mọi người nằm dài trên những chiếc trường kỷ coi phim trên chiếc tivi màn hình phẳng ở nhà Clairmont, Gat và tôi lẻn đi. Chúng tôi ngồi trên chiếc lốp xe đu giữa đêm hôm, tay chân hai đứa quấn quanh nhau, cặp môi ấm lướt trên làn da mát lạnh vì cái lạnh của màn đêm. Vào những buổi sáng chúng tôi sẽ khúc khích cười và trốn xuống tầng hầm nhà Clairmont, nơi những chai rượu và bách khoa toàn thư sắp thành từng kệ. Rồi chúng tôi ở đó, hôn và kinh ngạc trước sự tồn tại của nhau, cảm nhận sự riêng tư và may mắn. Lại có những hôm cậu viết những mẩu giấy và để chúng cùng với những món quà nhỏ dưới gối tôi.

Có ai đó đã từng viết rằng, một cuốn tiểu thuyết nên mang đến cho người đọc một chuỗi những bất ngờ nho nhỏ. Tớ cũng đã nhận được điều tương tự khi ở bên cậu một giờ.

Ngoài ra, đây là chiếc bàn chải màu xanh buộc ruy băng.

Nó bộc lộ cảm xúc của tớ một cách không thỏa đáng.

Tuyệt hơn cả sô cô la, khi được ở bên cậu tối qua.

Ngốc nghếch làm sao, tớ đã nghĩ rằng không có gì tuyệt hơn sô cô la chứ.

Bằng động tác hình tượng và sâu sắc, tớ tặng cậu thanh Vosges mà tớ mua khi tất cả chúng ta đến Edgartown này. Cậu có thể ăn nó, hay chỉ đơn giản là ngồi kế nó và cảm thấy khá hơn.

Tôi không viết thư đáp lại, nhưng tôi lôi ra những bức phác chì ngốc nghếch của Gat vẽ hình hai đứa tôi. Những hình nhân vật đứng vẫy tay trước Đấu trường La Mã[16], Tháp Eiffel, trên đỉnh núi, trên lưng rồng. Cậu dán chúng khắp giường.

[16] Colosseum: Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfitea Flavio - tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Roma.

Gat chạm vào tôi bất cứ khi nào cậu có thể. Dưới bàn ăn tối, trong căn bếp lúc vắng người. Sau lưng Ông ngoại một cách lén lút và hài hước khi ông lái chiếc thuyền máy. Tôi cảm thấy như giữa chúng tôi không hề có rào cản. Miễn là không có ai đang nhìn, tôi sẽ rờ những ngón tay dọc theo xương gò má của Gat, xuống lưng cậu.

Tôi với nắm lấy tay Gat, ấn ngón cái vào cổ tay và cảm nhận dòng máu đang chảy qua huyết mạch cậu.

12

VÀO MỘT ĐÊM CUỐI tháng Sáu của mùa hè thứ mười lăm, tôi đi bơi ở bãi biển nhỏ. Một mình.

Gat, Johnny, và Mirren đâu?

Tôi không thật sự biết.

Chúng tôi đã chơi rất nhiều ván Trò chơi ghép từ[17] tại Red Gate. Có thể là họ đang ở đó. Hoặc có thể là họ đang ở Clairmont, nghe mấy dì tranh luận và ăn mứt mận biển phết trên bánh quy nước.

[17] Scrabble: một Board Games luyện từ vựng tiếng Anh nổi tiếng, được nhiều người yêu thích. Một bàn Scrabble chơi được tối đa 4 người.

Dù có là trường hợp nào đi nữa, tôi vẫn trầm mình xuống nước trong chiếc coóc-xê[18], áo ngực và quần lót. Hiển nhiên là tôi bước xuống bãi biển mà không mặc thêm gì khác nữa. Chúng tôi không bao giờ tìm thấy bất cứ đồ nào của tôi vất trên cát. Khăn tắm cũng không.

[18] Coóc-xê (corset): trong tiếng Pháp chỉ áo nịt phụ nữ thường mặc để thắt eo lại cho thon, nhỏ. Trong tiếng Anh chỉ áo nịt.

Tại sao vậy?

Một lần nữa, tôi không thật sự biết.

Tôi hẳn đã bơi ra xa bờ. Ngoài khơi đầy những tảng đá lớn đen ngòm và lởm chởm; trông chúng luôn hung ác trong bóng tối của màn đêm. Tôi hẳn đã dìm mặt vào nước và rồi đập đầu vào một trong những tảng đá này.

Như tôi đã nói rồi đấy, tôi không biết nữa.

Tôi chỉ nhớ có điều này: tôi lao mình xuống biển, xuống đến tầng đáy lởm chởm những đá là đá, và tôi có thể thấy tận đáy đảo Beechwood và tay và chân tôi tê cóng nhưng mười ngón tay tôi lạnh ngắt. Những dải tảo biển sượt qua khi tôi ngã xuống.

Mẹ tìm thấy tôi đang nằm trên cát, cuộn mình lại như một trái banh và trầm nửa mình dưới nước. Tôi run rẩy một cách không kiểm soát được. Những người lớn quấn chăn cho tôi. Họ cố làm tôi ấm lên ở nhà Cuddledown. Họ cho tôi uống trà và đưa tôi quần áo, nhưng khi tôi không chịu nói chuyện hay ngừng run rẩy, họ đưa tôi đến bệnh viện ở Martha’s Vineyard, nơi tôi ở lại nhiều ngày trong khi chờ các bác sĩ làm xét nghiệm. Hạ thân nhiệt, suy hô hấp, và rất có thể là chấn thương đầu kiểu gì đó, dẫu rằng kết quả quét não chỉ ra là chẳng có vấn đề gì.

Mẹ kề cạnh bên tôi, thuê một căn phòng khách sạn. Tôi nhớ đến vẻ buồn bã, xám xịt trên gương mặt dì Carrie, dì Bess, và Ông ngoại. Tôi nhớ đến cảm giác thấy có cái gì đó đầy ắp trong phổi lâu sau khi những bác sĩ xem xét nó kĩ càng. Tôi nhớ tôi đã cảm thấy như mình sẽ không bao giờ ấm lên được, thậm chí khi họ bảo tôi rằng thân nhiệt của tôi là bình thường. Tay tôi đau. Chân tôi đau.

Mẹ đưa tôi về nhà ở Vermont để phục sức. Tôi nằm trên giường, chìm mình trong màn đêm và thấy hổ thẹn về bản thân mình ghê gớm. Bởi vì tôi mắc bệnh, và hơn thế nữa vì Gat chưa từng gọi cho tôi.

Cậu cũng không viết thư.

Chẳng phải chúng tôi đang yêu sao?

Chẳng phải sao?

Tôi viết thư cho Johnny, hai hay ba bức email tương tư ngu ngốc để nhờ anh tìm hiểu về Gat.

Johnny đã đúng đắn khi lờ chúng đi. Sau cùng thì, chúng tôi là những người nhà Sinclair, và nhà Sinclair không cư xử như tôi hiện giờ.

Tôi ngừng viết thư và xóa tất cả những email khỏi hòm thư đã gửi. Chúng thật là yếu đuối và ngu ngốc.

Vấn đề chính ở đây là, Gat né tránh khi tôi bị thương.

Vấn đề chính ở đây là, nó chỉ là một cuộc ăn chơi xả láng của mùa hè.

Vấn đề chính ở đây là, có lẽ cậu yêu Raquel.

Dù sao thì, chúng tôi cũng sống ở hai nơi quá xa nhau.

Dù sao thì, gia đình của chúng tôi cũng rất gần gũi thân thiết.

Tôi chưa bao giờ nhận được một lời giải thích.

Tôi chỉ biết là cậu đã bỏ tôi.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx