Số hộ thành Đông không nhiều, phần lớn là nhà kho và nơi cúng tế, ngoài ra đều là vườn cây ruộng rau lớn. Lúc bấy giờ ruộng ở trong thành đều là nơi một số hộ quan lớn nhà giàu dùng trồng trọt hoa quả rau xanh tự cung cấp cho mình.
Xe ngựa dừng lại trước Lê viên, Khánh Kỵ xuống xe, men theo một con đường mòn nhỏ đi vào trong. Đó là một nơi tao nhã thanh ưu, trước có một hồ nước nhỏ, xung quanh nhiều cây lá vàng tươi, gió thu mát mẻ, lá cây xào xạc. Nước hồ trong xanh nhìn thấy đáy, dưới nước không thấy có cá tung tăng bơi lội. Xa xa là một bãi cát, trên bãi có ngôi đình, lúc này trong đình chải vài tấm chiếu, xung quanh ngồi rất nhiều sĩ tử.
Khánh Kỵ nắm nhẹ thanh kiếm đeo ở hông, lấy râu giả ra gắn dưới cằm, xong xuôi mới đi về phía bãi cát. Hôm nay đến xem Khổng Khâu tranh luận với Thiếu Chánh Mão, chỉ là hiếu kì thôi, cũng là để giết thời gian, vì sắp phải về Vệ, hành động của hắn cố gắng không để cho quá nhiều người biết.
Gió lay động mặt hồ, trên cành cây trái nặng trĩu, thoang thoảng hương thơm theo cơn gió. Trời xanh mây trắng, lòng người khoan khoái tươi vui. Bên bãi cát dừng đậu nhiều xe ngựa và phu xe, họ thấy Khánh Kỵ ăn mặc như một sĩ tử, tưởng là cũng đến đây nghe tranh luận, cũng không ai hỏi đến hắn, Khánh Kỵ lại gần ngôi đình. Trong đình đang tranh luận sôi nổi, không ai chú ý đến Khánh Kỵ bước vào.
Cảnh tượng tranh luận bên trong không như những gì Khánh Kỵ tưởng tượng, hai bên cãi nhau khá gay gắt. Nhìn vào cách ngồi lại cứ tưởng là rất tùy ý, trên bàn còn bày biện rượu, trà, trái cây, thức ăn vặt không thiếu. Các sĩ tử hoặc ngồi hoặc nằm, nhưng rất tập trung chú ý, rất có khí phách nghiên cứu học thuật, hoàn toàn không đến nỗi căng thẳng muốn tuốt kiếm ra chém giết lẫn nhau.
Nếu là hậu thế ai mà nói câu Nho giáo có thiếu sót, học thuật Nho giáo không bằng người ta, vậy thì cũng không cần tranh cãi nữa, sớm bị nho sĩ khắp thiên hạ đuổi đánh như chuột qua đường rồi. Kẻ thống trị sau đời Tây Hán xem trọng trọng tâm của học thuật Nho giáo là chữ “Trung” nên ra sức ủng hộ. Văn Khổng Khâu, võ Quan Vũ, cũng chính vì nguyên nhân này được đưa lên bục cao. Vì chính quyền càng thiếu cảm giác an tâm, cần thần dân phục tùng vô điều kiện càng cần tư tưởng học thuyết của họ, cho nên vào hai triều Nguyên, Thanh, chính quyền càng ra sức cổ vũ cho tư tưởng trung nghĩa của hai thánh nhân này. Mặc dù các chính quyền đều ngầm áp dụng cai trị theo Pháp gia, nhưng bề ngoài vẫn yêu cầu toàn dân tuân thủ quy tắc hành xử Nho giáo.
Đến giai đoạn đó, Khổng Tử không vĩ đại, hậu nhân cũng ca tụng cho vĩ đại, Nho giáo không phải là số một trong tất cả tư tưởng học thuật, hậu nhân cũng đưa nó lên làm số một. Người học khắp thiên hạ đều xuất thân Nho giáo, ai dám chê nửa câu không phải? Nhưng vào thời Xuân Thu, các tư tưởng mới mẻ mọc lên như nấm sau cơn mưa, không có học thuật nào giữ vị trí độc tôn tuyệt đối, đối với các nghiên cứu phát huy học thuật, quan phủ không ngăn cấm, những kẻ ủng hộ học thuật khác nhau cũng không đánh giết lẫn nhau, có chút tự do ngôn luận trong đó.
Khánh Kỵ bước vào đình, đưa mắt nhìn thấy Khổng Khâu, tuy ngồi trên chiếu nhưng vẫn cao hơn người khác cả cái đầu, nổi bật giữa đám đông. Khánh Kỵ đảo mắt khắp nơi, muốn tìm người ba lần cãi thắng Khổng Khâu, làm nhiều đệ tử của hắn chuyển qua môn hạ của mình Thiếu Chánh Mão, vì tất cả đều ngồi phân tán nên không biết ai là Thiếu Chánh Mão, đợi khi hai bên lên tiếng mới biết thì ra người ngồi đối diện Khổng Khâu, tay cầm quả lê chính là Thiếu Chánh Mão.
Thiếu Chánh Mão ngoài bốn mươi tuổi, thân hình cao ráo, mặc chiếc áo màu xanh đậm, búi tóc bằng cây trâm ngọc, sắc mặt thư thái ung dung, lại là một nam tử tuấn tú, nhìn hắn luôn tươi cười hớn hở cứ như cuộc tranh luận này khá thoải mái đối với hắn vậy. Khổng Khâu lại khác, tuy học thuyết của hắn lúc bấy giờ không áp đặt người khác nghe theo nhưng dù sao hắn và Thiếu Chánh Mão đều nổi tiếng ngang nhau ở nước Lỗ, nay ba lần tranh luận thua cả ba, lúc này sao lại không căng thẳng được? Cho nên quỳ bằng hai gối, đang tập trung tinh thần, đừng nói là Khánh Kỵ bước đi nhẹ nhàng, dù có gây tiếng động chắc hắn cũng không quan tâm chú ý đến đâu.
Hôm nay đã là cuộc tranh luận thứ tư của hai người, đối với quan điểm cai trị của đối phương đã hiểu thấu như lòng bàn tay, nên không cần diễn giải dông dài chủ trương quan điểm của đôi bên nữa, mà chỉ là tranh luận cụ thể về những quan điểm đối phương từng nhắc đến, nghe có hơi chút rối rắm.
Chỉ nghe Khổng Khâu gằn giọng:
-Cho nên, Khổng Khâu cho rằng, duy trì nhân nghĩa, dùng Chu lễ trị nước, trên dưới giữ đúng tôn ti trật tự, quân thần phụ tử có trước có sau. Thần kính vua như cha, vua yêu thần như con, nhân đức làm chính trị, là cách ổn định thiên hạ.
Thiếu Chánh Mão cười nói:
-Lời của Khổng đại phu, Mão đây cho là không đúng, nhân đức hiếu nghĩa Khổng đại phu nhắc đến, là cơ sở để tu dưỡng người quân tử, cái Khổng đại phu nhầm lẫn ở đây là đảo lộn quan hệ giữa Nhân đức và Chính trị. Đức chỉ nên là tu dưỡng của người cai trị, chứ không thể dựa vào đó duy trì chế độ được, cai trị mà chỉ dựa vào nhân đức tự luật, có dám đảm bảo người làm quan tất cả đều thanh liêm không? Lấy đức làm cơ sở như là xây tường bằng tre, chỉ phòng quân tử không phòng tiểu nhân mà thôi.
Khánh Kỵ nghe qua biết hai người tranh luận đã được một lúc, nhìn xung quanh thấy bên kia có một chiếc chiếu còn chỗ trống, bèn đi về phía đó, gật đầu chào người ngồi cạnh, mỉm cười:
-Xin hãy ngồi qua một chút.
Vị đại phu đó đang chăm chú nghe tranh luận, chỉ ngước mắt: Cứ tự nhiên! Rồi mặc kệ Khánh Kỵ, Khánh Kỵ cũng không khách sáo ngồi vào chỗ trống, quan sát hai người kia tiếp tục tranh luận.
Lúc này Khổng Khâu đã cãi lại xong, Thiếu Chánh Mão lại tiếp lời:
-Khổng đại phu nói quân tử có khắp thiên hạ, thế ư? Lấy tiêu chuẩn nào để đánh giá ? Thế nào là nhân nghĩa? Ai phân chia đại nghĩa tiểu nghĩa? Nếu chuyện gì cũng không màng lợi ích, mở miệng ra là nhân nghĩa, xin hỏi quyền đánh giá tiêu chuẩn nhân nghĩa do ai nắm? Là ngàn vạn lê dân sao? Nực cười!
Ngài nói hành động theo nghĩa, thế nào là nghĩa? Ngài bảo lấy đạo đi đầu, thế nào là đạo? Ngài nói thiên hạ công bằng, thế nào là công bằng? Chỉ với những lời mơ hồ này, thử hỏi dân đen sao thấu hiểu được? Cuối cùng chẳng phải người cầm quyền nói sao nghe vậy ư? Còn Pháp, ghi chép luật lệ rõ ràng, có tiêu chuẩn so sánh đánh giá, điều đó lại khác à.
Có Pháp để làm theo, cứ như mua hàng ngoài chợ vậy, biết rõ công dụng của nó, cũng biết giá tiền bao nhiêu, lê dân bá tánh đều hiểu rõ giá trị và công dụng của nó như đi mua sắm vậy, tự nhiên sẽ theo đó mà làm. Còn lấy đức, nghĩa làm căn cứ cai trị, như là món hàng chỉ nói rõ công dụng chứ không đưa ra giá bán, mặc cho người bán muốn kêu giá bao nhiêu cũng được, hiểu sao cũng đúng, xem có vẻ công bằng vô tư lắm, thật ra không bảo đảm cho lê dân chút nào cả, ngài chỉ cần nói mình làm vậy đã nhân nghĩa rồi là được. Điều đáng lo ở chỗ, ngoài chợ người bán hét giá cao, ngài có thể không mua, nhưng kẻ cầm quyền hét giá cao ban hành mệnh lệnh xuống, ngài không chịu cũng không được, vì người bán lúc này nắm quyền lớn sinh sát trong tay!
Những lời này của Thiếu Chánh Mão làm cho nhiều người gật gù đồng ý, các sĩ tử ngồi nghe phần lớn đều có chức vụ, tất nhiên hiểu chỉ dùng nhân đức để phân định thị phi, không bằng quản lí bằng pháp luật qui định rõ ràng chi tiết.
Khổng Khâu khẳng khái:
-Khắp đất trời không gì lớn hơn mặt trời mặt trăng, đạo làm người không gì lớn hơn nhân nghĩa. Đạo quân tử không chỉ tu thân còn dùng trị nước, người nhân đức yêu thương người khác, giữ gìn phép tắc trật tự, đạo thánh hiền đạo làm người tất cả đều nằm ở đấy, nếu giáo hóa dân chúng, để tất cả đều trở thành quân tử, quân coi thần như thủ túc, thần coi quân như phúc tâm, sợ gì đạo lớn không thành? Mà qui định bằng điều luật, luật lệ không nhân đức, sẽ biến thành quyền lực áp đặt, lúc đó quân thành bạo quân, thi hành bạo chính.
Thiếu Chánh Mão nhướn mày, lập tức đáp trả:
-Khổng đại phu nói quá sự thật rồi, nghe có vẻ hợp lí nhưng thực ra khó thi hành, theo như ngài nói chẳng lẽ không có tôn ti trên dưới? Con người sống trên đời vốn đã biết phân biệt đúng sai, không phải cứ theo như Chu lễ mới có nhân nghĩa, chẳng lẽ Tam hoàng ngũ đế không là bậc thánh hiền? Theo lời ngài chỉ nên dựa vào thánh hiền, thế ngài có cách gì dạy dỗ tất cả người trong thiên hạ đều thành bậc quân tử? Thế chẳng phải là tự dối mình dối người sao?
Mão cho rằng, cứ cho là xây dựng luật lệ trước theo hướng có lợi cho bản thân thì cũng thừa nhận hiện trạng thực tế, chứ không đặt hy vọng viển vông vào bậc thánh hiền xuất hiện. Mối lo bạo chính của Khổng đại phu không phải không có, luật pháp lúc đầu chắc chắn tổn hại lợi ích của nhóm yếu thế mà lợi cho người nắm quyền nhưng chắc chắn được điều chỉnh theo thời gian, nếu không sẽ không tồn tại được, pháp luật đúng đắn, phải phân chia lợi ích bình đẳng giữa các nhóm, như vậy sẽ lâu dài mà cũng được công bằng.
Học thuyết của họ ai cũng có lí lẽ riêng, các sĩ tử say sưa lắng nghe, còn Khánh Kỵ có kiến thức hiểu biết hai ngàn năm sau, tự biết học thuyết của họ ai cũng có cái hay cái dở, chế độ sau này hoàn hảo hơn nhiều so với những gì họ đề xướng. Khánh Kỵ đến đây không vì mục đích học hỏi, hắn đến đây một là để giết thời gian, hai là hiếu kì, nên cũng chẳng thèm bận tâm đi suy nghĩ nhiều làm gì.
Chỉ là trong thâm tâm hắn hướng về Thiếu Chánh Mão, theo cách nhìn của hắn, xã hội pháp trị mới là điều kiện cơ bản đảm bảo công bằng xã hội, sau này nói đến đạo đức suy đồi, hàng giả hàng kém, trộm cắp lừa đảo, những chuyện này xảy ra liên tục, cũng có người cho là vì không cổ vũ tư tưởng Nho giáo mà ra. Nhưng theo Khánh Kỵ đám người xấu thì thời đại nào mà chẳng có? Lúc trước tham quan vô lại hà hiếp dân lành có khác gì bọn gian thương lừa đảo sau này đâu? Bọn họ ai không là nhân sĩ Nho giáo đọc sách thánh hiền, miệng đầy nhân nghĩa chứ? Trung thần nghĩa sĩ, cứ như là tất cả đều là quân tử do Nho giáo dạy dỗ mà ra, còn đối với đám vô lại hại nước hại dân, lại không nói Nho giáo dạy dỗ thất bại?
Thiếu Chánh Mão hỏi rất đúng, Chu lễ bắt nguồn từ Chu công, trước thời Chu công chẳng lẽ không có quân tử hiền đức, không có trung thần nghĩa sĩ? Nhân nghĩa đạo đức không phải do Nho giáo sản sinh ra, Nho giáo chỉ đưa quan niệm đúng sai vốn đã tồn tại lên vị trí cao nhất, thậm chí biến nó thành cơ sở đảm bảo cai trị quốc gia mà thôi. Cho dù là các động vật bậc thấp đi nữa, cũng có quy tắc tồn tại sống theo bầy đàn của nó. Loài người trải qua thời kì hoang sơ ăn lông ở lổ đến hôm nay, nền văn minh xã hội không ngừng phát triển, quan niệm đúng sai thích hợp tồn tại trong xã hội loài người, lúc đó quy tắc hành xử cũng sẽ được sinh ra. Nói thế không phải không coi trọng nhân nghĩa Nho giáo, cũng không nên chỉ tôn sùng Nho giáo mới giáo hóa được tất cả con người, cái lợi trước mắt chắc chắn có người làm chuyện bất nghĩa, muốn dẹp bỏ hiện tượng này, chỉ nên dựa vào “Pháp” .
Mặc dù lí luận Pháp trị của Thiếu Chánh Mão còn khoảng cách lớn với Pháp trị hai ngàn năm sau, nhưng tư tưởng Pháp trị này đã là bước một tiến lớn trong cách cai trị xã hội, nếu để Khánh Kỵ làm trọng tài phán xét, hắn đã cho Thiếu Chánh Mão điểm cao rồi. Nhưng khi hắn lên ngôi vua thì hắn vẫn cứ độc tôn Nho giáo, dẹp các học thuyết khác đi, dù không đồng ý với đạo Nho, nhưng đạo Nho lại lợi cho việc thống trị của hắn. Nói như vậy người ta lựa chọn cũng vì cái lợi, liên quan gì đến nhân nghĩa chứ? Chỉ là cái lợi có lợi lớn lợi nhỏ, cái lợi trước mắt cái lợi lâu dài, thế nên người cầm quyền cho dù dựa vào pháp trị, nhưng vì mưu cầu cái lợi lớn lâu dài nên sẽ không thực thi bạo chính. Chuyện cá biệt thì có, nhưng trong số các vị vua tuyên dương nhân nghĩa Nho giáo, lại không là loại người như thế ư?
Khánh Kỵ thở dài ngao ngán, cảm thấy Khổng Khâu khó mà thuyết phục được người khác, hắn đưa mắt nhìn quanh, xem xét tướng mạo các sĩ tử ngồi nghe xung quanh, chợt thấy ngoài kia một người chạy vội đến, đến bên một sĩ tử thiếu niên ngồi bên kia ghé tai nói nhỏ mấy câu, vị sĩ tử đó lập tức đứng dậy.
Khánh Kỵ nhìn kĩ lại chợt giật mình, người đó tuy không trang điểm son phấn, là một thiếu niên khôi ngô mắt thanh mày tú. Nhưng Khánh Kỵ vừa nhìn đã nhận ra, người này chính là Quý Tôn Tiểu Man.
-Nàng ta làm gì ở đây?
Khánh Kỵ cảm thấy ngạc nhiên, chỉ thấy Quý Tôn Tiểu Man hỏi người đó vài câu, đột nhiên đứng lên kéo người kia qua phía cây cổ thụ tiếp tục hỏi chuyện, hai người một hỏi một trả lời, thần sắc bí hiểm.
-Khôi phục lễ chế, nói nhiều nhân nghĩa, thật là nực cười, nói một câu trung hiếu nhân nghĩa, làm sao quy định hành vi con người? Triều Hạ đến triều Thương, Thương xong đến Chu, ba triều đã qua đều có quân thần, nhưng có triều đại nào không phải là thần giết vua đoạt ngôi chứ? Phu tử nói đến đây sao không tiếp tục chứ?
Khổng Khâu đáp:
-Đó là vì cuối thời Thương, Hạ nội chính bất ổn, xa hoa lãng phí, đi ngược ý trời, làm khổ nhân dân, Thương Thang Chu Văn khởi binh hỏi tội, thế thiên hành đạo, đó là hành động thuận theo lòng dân.
Thiếu Chánh Mão cười mỉa:
-Nói cũng phải, đến bước đường đó còn nói trung hiếu nhân nghĩa quân thần phụ tử gì nữa làm chi, triều đại mới ra đời lại đem ra nói, có thể thấy là quân thần trung nghĩa chỉ xuất phát từ trong lòng, không có tiêu chuẩn nào cả, nếu dùng làm cơ sở trị nước, thế người đời ai nấy có cách nhìn riêng, ai cũng cho là mình có nhân nghĩa, chỉ cần tự cho là đúng là được. Đại đạo Triển Chích nói hắn có đạo nghĩa, rốt cuộc ai có đạo lí đây? Cuối cùng ai nắm lấy thiên hạ, thì nói người khác vô đạo, mình có đạo. Luật pháp rõ ràng, vi phạm khắc biết, ai cũng trông thấy. Chuyện nhân nghĩa đạo đức, thì có thể to nhỏ dài ngắn dày mỏng vuông tròn khác nhau, hoàn toàn không có định luật nào cả.
Thiếu Chánh Mão khéo tài hùng biện, lúc này đã bắt đầu công kích Khổng Khâu, nhưng Khánh Kỵ chả còn tâm trí nghe tiếp, hắn từ từ đứng dậy, tiếp cận về phía Quý Tôn Tiểu Man. Từ sau cái đêm Quý Tôn Tiểu Man bỏ đi, Khánh Kỵ đã tăng cường vệ sĩ bảo vệ Thành Bích phu nhân, tuy Tiểu Man thất vọng vì biết được sự thật về mẫu thân, có vẻ không gây bất lợi cho Thành Bích phu nhân nữa, Khánh Kỵ cũng không dám buông lơi cảnh giác.
Cuộc tranh luận giữa Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão ngày càng quyết liệt, lời qua tiếng lại đã bắt đầu nóng nảy.
-Đại đạo chi hành, thiên hạ vi công. Tuyển người hiền tài, trên dưới hòa thuận…Chu công lấy nhân đức trị thiên hạ, sao lại nói nhân đức không thể trị nước? Con người không tu dưỡng nhân đức, không trị nổi bản thân gia đình, sao trị nước được? Hình phạt nghiêm khắc không áp chế được lòng tham, người xấu nắm hình phạt trong tay càng không làm đất nước mạnh lên, ngược lại đẩy đất nước đến bờ vực suy vong?
-Trị nước không phải chỉ có mỗi một cách, thời Chu công đã qua bao lâu rồi? hồi đó có bao nhiêu thành trị, bao nhiêu dân để trị? Từ sau thời Chu công, trong vòng mấy trăm năm cách cai trị Chu lễ đã không dùng được nữa, Quản Trọng lấy Pháp trị nước, dân giàu nước mạnh, mới đưa nước Tề lên làm bá chủ thiên hạ. Tình thế hôm nay, ai mà trị nước theo nhân nghĩa nào?
Đất nước lâm nguy chiến loạn xảy ra nhân nghĩa của ngài nói cho ai nghe? Ngàn vạn dân chúng tan nhà nát cửa, không có cơm ăn áo mặc ngài đi nói chuyện nhân nghĩa? Ngài muốn chọn người hiền đức, lại bảo khôi phục Chu lễ, thử hỏi thời cuộc rối ren, làm sao chọn được đây?
Lại nói già thì phải chết, trẻ phải trưởng thành, phân chia mạnh yếu, nam nữ khác biệt là quy luật tự nhiên, ngài hoàn toàn không thừa nhận trên đời thiện ác cùng tồn tại, con người có giai cấp, đeo đuổi lợi ích vốn là bản tính con người, trong mắt ngài chỉ có một đạo lí duy nhất là nhân nghĩa của nho sĩ, rất tiếc đạo lí này lại là đạo lí không cách gì xác định, không có tiêu chuẩn, mơ hồ mông lung, rất tiếc đạo lí này đã không hợp thời, trước kia tốt nhưng nay thì không, người khác nghe vào thì thấy hay, nhưng không sao thực hiện được…
Lấy thí dụ ở nước Tề, tứ đại gia tộc Quốc, Cao, Bảo, Loan mà nói, gia chủ hiền đức thì đã sao? Không hiền đức thì thế nào? Ngài lấy đạo nghĩa quản thúc được hành vi của họ không? Chỉ có uy quyền luật pháp mới bắt họ giữ yên bổn phận, ngài không tin chuyện quỷ thần, lại xem trọng tục lệ của người đã mất.
Một mặt không tin quỷ thần, mặt khác lại xem trọng tế lễ, cứ như không có khách đến nhà mà phải tiếp khách, trong hồ không có cá mà cứ thả lưới, học thuyết nhà Nho dùng để tu thân còn được, dùng trị nước làm sao được? chỉ là khua môi múa mép ngông cuồng mà thôi. Nói mà không làm được, uổng danh trong thiên hạ, sao mà lập quốc cai trị đây? Ngài nói Pháp gia vong quốc, ha ha… Với hiểu biết của ngài, lập quốc còn không xong, lấy đâu ra mà vong quốc chứ…
Hai người tiếp tục cãi nhau hăng máu, Khánh Kỵ đã tiếp cận Quý Tôn Tiểu Man, quay người lại giả đò chăm chú xem Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão tranh luận, đồng thời dõng tai lắng nghe Quý Tôn Tiểu Man hỏi chuyện với người kia.
-Chuyện này có thật không?
-Dạ, Viên đại gia bảo tiểu nhân lập tức đi tìm tiểu thư, báo cho tiểu thư biết sớm chuyện này, tiểu thư muốn làm thế nào là tùy tiểu thư ạ.
-Hứ! Tìm gia chủ Quý thị ta ra mặt giùm, thật là bỉ ổi vô liêm sỉ, chúng ta đi!
Quý Tôn Tiểu Man nổi giận đùng đùng quay người bỏ đi, tên hầu kia vội vã theo sau, Khánh Kỵ cũng lập tức bám theo.
Sau lưng Thiếu Chánh Mão dần chiếm thế thượng phong, Khổng Khâu tức giận sôi gan mặt mày tím tái, đôi tay run rẩy, tài hùng biện của hắn không bằng Thiếu Chánh Mão, trong lời nói đã thua kém đối phương, hơn nữa học thuyết của hắn không phải lấy thí dụ từ xa xưa thì lại hoan tưởng thế giới hoàn mỹ tốt đẹp ở tương lai, còn các tiêu cực Thiếu Chánh Mão dẫn chứng đều là sự việc đang xảy ra hiện tại, cần áp dụng cách giải quyết hữu hiệu ngay tức thì.
Thiếu Chánh Mão tiếp tục công kích:
-Tính người có thiện ác, không pháp luật không chế ngự được, thế giới đại đồng của ngài chỉ xuất hiện thời xa xưa, thời đại thôn làng chỉ hơn trăm người tụ tập sinh sống, thời nay sao thực hiện được? sau này càng không thể thực hiện. Làm sao khiến một đất nước có trăm vạn dân trên dưới một lòng? Khổng đại phu, với hiểu biết quan điểm của ngài chỉ thích hợp sống vào thời xa xưa, làm trưởng lão một thôn làng hẻo lánh chỉ hơn trăm người sinh sống mà thôi!
Khánh Kỵ bám theo sau Quý Tôn Tiểu Man, dựa vào cây cối trong Lê viên che chắn, theo nàng ta ra khỏi Lê viên, Quý Tôn Tiểu Man nhảy lên một chiếc xe ngựa chờ sẵn bên ngoài, hậm hực:
-Đi, ta càng ngày càng ghét cái tên ấy, thật là vô lí, coi Quý Tôn Tiểu Man này là một món hàng mua đi bán lại sao chứ?
Khánh Kỵ nghe câu này ngớ người ra, chợt hiểu chuyện gì đang xảy ra, Quý Tôn Tiểu Man nổi giận chắc vì chuyện Cơ Tống cầu thân với Quý Tôn Ý Như, thế này thì không liên quan đến Thành Bích phu nhân rồi. Khánh Kỵ dừng bước, nhìn chiếc xe ngựa đi xa, vốn định trở vào coi kết quả tranh luận của Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão, nhưng lại nghĩ Khổng Khâu uổng mang trong người học vấn uyên thâm, lại không biết cách ăn nói, xem tình hình ban nãy chắc lại thua tiếp, thấy không có gì thú vị nữa, bèn lên xe rời khỏi.
Đêm đó, Khánh Kỵ đến Lỗ Quái Cư đúng giờ, do Lỗ Quái Cư có thêm nhiều món ăn mới lạ, nên khách khứa ra vào tấp nập, không tìm đâu ra chỗ ngồi. Khánh Kỵ chờ hồi lâu mới đợi được bàn trống trên lầu, bèn gọi hai đĩa đồ nhắm và một bình rượu, Khánh Kỵ ngồi sát góc tường, uống được nửa bình rượu, chợt nghe ngoài cửa ồn ào, tiếp đó có người lớn giọng thông báo:
-Tối nay toàn thành giới nghiêm, tất cả mau rời khỏi đây ai về nhà nấy, không được đi lại lung tung bên ngoài.
Tiếp đó hai hàng lính cầm giáo mác hùng dũng tiến vào quán rượu đuổi tất cả khách khứa ra ngoài. Khánh Kỵ ngẩng đầu lên, ngó thấy Dương Hổ đang tối sầm mặt đứng bên ngoài, sau lưng là bốn võ sĩ toàn thân giáp trụ đeo kiếm ngang lưng, chau mày: Dương Hổ này…giờ cũng ngang tàng quá, hắn đến uống rượu thôi mà phải đuổi hết tất cả khách khứa đi.
Thực khách lầu hai lầu ba đại đa số đều là sĩ tử đại phu có chức quan, đến quán thưởng thức các món ăn mới lạ, vốn ỷ vào chức quan chưa muốn đứng dậy. Một tên đội trưởng râu ria bước lên trên lầu trợn mắt hét lớn:
-Quốc vương có lệnh, Quý Tôn đại phu phụng mệnh phong tỏa thành trì, tối nay toàn thành giới nghiêm, các ngươi sao còn không đi khỏi đây.
Nghe thấy đó là lệnh của vua ban, Quý Tôn Ý Như chấp hành, các sĩ tử đại phu đó không dám chậm trễ nữa vội vàng kéo nhau ra ngoài, đám tiểu nhị cũng hoảng hốt đứng yên một chỗ không biết làm gì, chủ quán Viên Tố, đệ nhất kiếm khách nước Lỗ năm xưa đang đứng sau quầy, dùng miếng vải trắng lau chuì vò rượu cầm trên tay, thần sắc tự nhiên, không thèm ngước mặt lên.
Các binh lính xem xét một lượt thấy không còn một ai mới bước xuống lầu, chợt phát hiện góc tường còn có một người ngồi đó, tên đội trưởng râu ria chau mày hất tay, hai tên lính tiến về phía Khánh Kỵ.
-Các ngươi lui ra ngoài!
Dương Hổ đứng ngoài cửa ra lệnh, hắn đưa tay lên ngăn tên đội trưởng lên tiếng, bước về phía Khánh Kỵ. Tên đột trưởng hiểu chuyện, dẫn quân lui ra, trong quán bỗng chốc trở nên trống trải.
Dương Hổ đến bên Khánh Kỵ, kéo ghế ngồi xuống, Khánh Kỵ lấy ly rượu, rót đầy cho hắn, Dương Hổ tối sầm mặt nâng ly, uống một hơi cạn, rồi mới thở dài ngao ngán.
-Hổ huynh sao vậy?
Dương Hổ lại thở dài:
-Đêm nay định uống cùng công tử cho thỏa thích, tiếc là…Dương Hổ có việc công phải làm, không ngồi cùng công tử được rồi.
-Chuyện gì vậy?
Dương Hổ chua chát:
-Hôm nay Dương Hổ phụng mệnh đi gặp Quý Tôn đại nhân, cầu thân cho quốc vương. Đây là việc tốt, Quý Tôn đại nhân tất nhiên đồng ý rồi. Quý Tôn tiểu thư bình thường không ở trong phủ, lúc tiểu thư ở Khúc Phụ chỉ đến Lỗ Quái Cư này thăm chủ quán Viên Tố. Dương Hổ là gia nô nhà Quý thị, tuy nhận lệnh quốc vương, cũng là nhận lệnh Quý thị, hôn sự này được quyết định xong Dương Hổ nhận lệnh Quý Tôn đại nhân đến Lỗ Quái Cư báo tin vui cho tiểu thư biết, ai ngờ…
Khánh Kỵ nhớ lại tình hình hồi chiều ở Phong Nhã đài, đoán ra chắc là Quý Tôn Tiểu Man từ chối hôn sự này. Quý Tôn Tiểu Man vì cái chết của mẹ, bao nhiêu năm qua không qua lại với nhà Quý thị, nàng ta trước mặt Thành Bích phu nhân ra vẻ coi trọng gia tộc chẳng qua đó là thành quả của mẹ cực khổ gầy dựng bao năm. Tiểu Man không thích Cơ Tống, muốn cô gái tính khí ngang tàng này chịu sự áp đặt của Quý Tôn Ý Như, lấy lòng quân vương nước Lỗ, nàng ta nhất định không chịu khuất phục.
Khánh Kỵ vờ hỏi:
-Quý Tôn tiểu thư thế nào rồi?
Dương Hổ than thở:
-Quý Tôn tiểu thư nghe được tin lại xông vào hoàng cung gặp quốc vương, còn chửi cho quốc vương một trận, sau đó bỏ đi. Quý Tôn đại nhân biết được rất tức giận, sai người đến đây bắt tiểu thư về định trừng trị bằng gia pháp. Ai ngờ tiểu thư chống cự lại, người của Quý Tôn đại nhân phái đến không dám làm bị thương tiểu thư, để tiểu thư trốn mất. Quốc vương hiểu rõ tính khí tiểu thư, biết tiểu thư sẽ trốn khỏi Khúc Phụ nên lập tức lệnh cho Quý Tôn đại nhân phong tỏa thành trì, truy tìm tung tích của tiểu thư.
Khánh Kỵ vội hỏi:
-Nơi này đã lục xét rồi à?
Dương Hổ đáp:
-Tất nhiên rồi, không những lục xét mà ta còn phái người theo dõi nữa, cứ cho phép các thực khách tự do ra vào, chỉ hy vọng tiểu thư tưởng nơi này đã lục xét rồi quay về, chỉ là…Ây! Vẫn không thấy tiểu thư xuất hiện.
Khánh Kỵ lắc đầu:
-Bây giờ lục xét tiếp e là đã trễ, ai biết Quý Tôn tiểu thư đã rời khỏi thành chưa?
Dương Hổ quả quyết:
-Tuyệt đối là chưa, lúc đó đã qua hoàng hôn, khi hoàng hôn tất cả xe ngựa đều không được ra khỏi thành. Đêm xuống bên ngoài thành tối đen như mực, hoang vu lạnh lẽo, tiểu thư thân gái một mình tuy biết võ nghệ chắc cũng không dám ở một mình ngoài đó.
-Đúng vậy!
Khánh Kỵ vỗ trán đồng ý, đừng nói là thời đại này, cho dù là thời đại của hắn, cũng hiếm có cô gái nào dám một mình ở lại chốn hoang vu vào ban đêm.
Dương Hổ nói tiếp:
-Công tử xin thứ lỗi, Dương Hổ còn phải dẫn người…
-Không sao, việc của quốc vương quan trọng hơn, Hổ huynh cứ đi làm việc của mình.
Dương Hổ đề nghị:
-Hay là công tử đến phủ của ta nghỉ ngơi một đêm, ta bảo vài vũ nữ hầu hạ.
Khánh Kỵ đứng dậy mỉm cười nói:
-Không cần đâu, hôm nay đến Khúc Phụ, một là chào qua gia chủ Tam hoàn, hai là cáo từ với Hổ huynh. Khánh Kỵ rời khỏi nước Vệ đã lâu, nôn nóng quay về, đêm nay ngủ lại đây, sáng mai mới đánh xe ra thành tới bến tàu lại phải mất nửa ngày trời. Giờ đây đã gặp được Hổ huynh, cũng nên quay về thuyền thôi. Không giấu gì huynh, Khánh Kỵ đã nói quay về trong đêm, nếu đêm nay không quay về, người của ta sẽ lo lắng đó.
Dương Hổ do dự một lát rồi nói:
-Nếu đã vậy Dương Hổ không tiện giữ lâu, đợi khi công tử lại đến nước Lỗ, Dương Hổ lúc đó mới bày tiệc tiếp đãi chu đáo. Chúng ta uống cạn ba ly, Dương Hổ phái người đưa công tử ra thành.
-Được! Tiểu nhị, mang rượu ngon ra đây.
Vừa nãy Khánh Kỵ uống một mình chỉ là loại rượu thường, giờ mới gọi mang rượu ngon lên, hai người uống uống cạn ba ly xong cùng bước xuống lầu.
-Ai đó?
Hai người ra khỏi Lỗ Quái Cư, tên lính đứng ngoài cửa nghe có tiếng động, rút kiếm ra hét lớn đi về phía bóng tối. Trước quán rượu chỉ treo hai chiếc đèn lồng, ánh sáng heo hắt, chỗ bóng tối là nơi dừng xe ngựa, lúc nãy đám thực khách bị đuổi đi hết, lúc này chỉ còn lại chiếc xe ngựa của Khánh Kỵ dừng ở đó, nghe tên lính hét to, gã phu xe đang ngồi ngủ trên xe giật mình tỉnh giấc, hốt hoảng:
-Chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy?
Một con chó kêu ẳng ẳng chạy ra từ bóng tối, tên lính mới ngỡ ngàng thu binh khí lại, Khánh Kỵ và Dương Hổ thấy vậy cười to.
Dương Hổ dừng bước, chắp tay nói:
-Công tử, bảo trọng.
Khánh Kỵ cũng chắp tay:
-Hẹn ngày gặp lại.
Hai người hành lễ xong, Khánh Kỵ quay người bước lên xe ngựa.
@by txiuqw4