Hắn xoay người liền hạ lệnh: “Truyền mệnh lệnh của ta, lập tức phát thư khẩn cấp tám trăm dặm đến Lũng Hữu, lệnh Hồ Dong lại gia tăng năm vạn binh lực đến Tinh Tinh Hạp.”
Đi hai bước hắn lại hạ lệnh tiếp theo: “Lệnh Lưu Soái chỉ huy ba nghìn quân giữ Cao Xương, Dương Khải Công dẫn hai nghìn quân thủ Bồ Xương. Đại quân còn lại lập tức khởi binh, quay về Y Ngô.”
Hiệt Kiền Già Tư nhận được tin tức Trương Hoán ra khỏi Tinh Tinh Hạp thì đã là mười ngày sau chuyện đó. Phẫn nộ, sốt ruột, lo âu, bất đắc dĩ, đủ loại ưu tư thay nhau ập đến trong lòng vị chủ soái Hồi Hột. Hắn đã hiểu được, Trương Hoán kỳ thật đã sớm đến Tinh Tinh Hạp, nếu không hắn sẽ không nắm được thời cơ trùng hợp như thế, ngay vào lúc chính mình cùng đại quân dân tộc Thổ Phiên giằng co thì hắn liền đột nhiên hạ thủ.
Lúc này Hiệt Kiền Già Tư đã lún sâu vào trong vũng bùn giao chiến cùng dân tộc Thổ Phiên. Đối mặt quân Đường xông ra thì hắn cũng không thể tránh được. Cùng lúc, hắn lập tức phái người quay về Mạc Bắc thỉnh cầu Khả Hãn viện trợ, về phương diện khác, hắn tận dụng khả năng để phong tỏa tin tức, không cho bọn lính biết đường lui đã đứt. Hắn chỉ hy vọng Trương Hoán tiến quân có thể chậm một chút nào thì chậm.
Nhưng chuyện cũng không phát triển như hắn muốn. Sau nửa tháng, liên tục các tin tức lưu tinh đủ loại báo cho hắn: quân Đường xuôi nam; quân Đường đã cướp lấy huyện Bồ Xương, tất cả quân coi giữ Bồ Xương bỏ mạng; khi quân Đường đến trước Cao Xương, tướng giữ thành đầu hàng.
Nhất là một tin tức cuối cùng làm cho Hiệt Kiền Già Tư cơ hồ cả đêm phải rút quân. Trong lúc hắn cùng với Đại tướng thuộc hạ thương lượng đối sách thì một tin tức không tưởng được truyền đến. Đại quân Trương Hoán đã rời Cao Xương ngược bắc, quay trở về Bắc Đình. Hiệt Kiền Già Tư sau một đêm mê muội rốt cục đã ngẫm ra, đây nhất định là người Cát La Lộc xuất binh
Loạn cục, cả địa khu An Tây, Bắc Đình lâm vào trong loạn cục khó phân. Tại An Tây là quân Hồi Hột cùng quân tộc Thổ Phiên giằng co, tại Bắc Đình là quân Đường cùng người Cát La Lộc chiến đấu. Còn có tại Thổ Hỏa La ở phía nam là mấy vạn quân Đại Thực hãy còn chưa rút lui đang nhìn chằm chằm vào.
Ở giữa vẫn còn đan xen lợi ích người Đột Kỵ Thi, ích lợi người Bạch Phục, ích lợi người Đột Quyết, ích lợi người Sa Đà cùng với ích lợi thiết thân của mấy trăm dân tộc lớn nhỏ.
Trong lúc đó quân Hồi Hột cùng quân tộc Thổ Phiên vẫn giằng co tại Yên Kỳ cùng Quy Tư, ai cũng không muốn dễ dàng ra tay trước. So sánh với nó thì chiến tranh Bắc Đình lại trực tiếp, mau lẹ hơn nhiều lắm.
Trong hạ tuần tháng sáu, đây là thời gian nóng nhất trong một năm. Ánh nắng nóng bỏng chiếu thẳng xuống mặt đất. Đến thời gian gian nan nhất giữa mùa hạ, nắng nóng như ép người ta đến ngạt thở. Cái nóng vô tình kéo theo cơn gió nóng cuồng bạo quét ngang mặt đất Tây Vực.
Một ngày kia vào lúc hoàng hôn, đại quân Trương Hoán rốt cục đã đến Y Ngô. Từ mùng một tháng sáu xuất phát đi Cao Xương, đến ngày hai mươi lăm tháng sáu thì trở lại Y Ngô. Suốt hơn hai mươi ngày, quân Đường cơ hồ đi một cái vòng tròn rồi trở lại.
Huyện Y Ngô cũng là trụ sở quận lỵ quận Y Ngô. Huyện thành rất chật hẹp. Tường thành mỏng manh nhỏ thấp, bên trong huyện chỉ có mấy trăm hộ gia đình. Đại bộ phận cư dân đều phân tán ở các nơi lấy chăn thả mà sống. Doanh trại của Trương Hoán thiết lập tại phía đông nam huyện cách ước ba dặm ở một chỗ ven hồ. Trên đồng cỏ xanh mướt mọc lên vài ngàn nóc lều trại, liếc mắt nhìn không thấy giới hạn kéo dài hơn mười dặm. Trong đó, hậu doanh để chứa lương thảo vật tư được một vòng doanh trại làm thành hàng rào vây quanh. Nơi này có lực lượng hùng hậu đóng giữ. Quân Đường hành quân ngàn dặm đánh nhau, bảo đảm hậu cần liền trực tiếp quyết định được thắng bại của chiến tranh.
Ngay tại lúc đại quân bắt đầu lập trại, Trương Hoán đột nhiên phát hiện ở ngoài hàng rào hậu doanh có đông đảo xe ngựa đỗ, tựa hồ cũng là vừa mới mới đến. Lòng hiếu kỳ của hắn nổi lên bèn quay đầu ngựa lại nhằm phía ngoài hậu doanh cách đó vài dặm phi đi.
Đám thân binh cũng nhao nhao tiến theo. Chỉ chốc lát, Trương Hoán liền đi tới hậu doanh. Nơi này đã có rất nhiều binh lính vây xem đang mồm năm miệng mười bàn luận. Thấy đô đốc đến đây, chúng binh lính nhao nhao mau tránh ra một con đường.
Trương Hoán đến gần mới nhìn rõ, trên mỗi một chiếc xe ngựa đều phủ vải thô thật dầy. Hơn nữa loại xe ngựa dài ước chừng bốn trượng, rộng hai trượng, cao cũng là hai trượng. Xe ngựa bình thường chỉ có hai bánh, mà nó lại có sáu cái bánh. Mỗi bánh xe lại rộng và dày, cực kỳ thích hợp để chạy nhanh trong thảo nguyên hoặc sa mạc, ước chừng có hơn ngàn chiếc.
Trương Hoán không khỏi vừa mừng vừa sợ, đây dĩ nhiên là vũ khí bí mật của hắn, phích lịch chiến xa đã đến. Mọi người có lẽ còn có chút ấn tượng, năm đó khi còn ở tại Vũ Uy thì cùng thời khắc phát hiện hỏa dược có một người thợ do cần chở đá loại nhỏ mà phát minh ra một loại xe ngựa cồng kềnh. Bởi vì không thực dụng lắm nên cơ hồ sẽ bị vứt bỏ, nhưng Trương Hoán lại khích lệ người thợ kia tiếp tục nghiên cứu chế tạo. Trải qua ba năm, gần trăm thợ thủ công khổ tâm nghiên cứu thì một loại chiến xa hoàn toàn mới được sản xuất ra.
Bộ phận chính của chiến xa là dùng gỗ cây hạch đào cứng rắn chế thành, bên ngoài bao một tầng da dầy. Trên xe tổng cộng chia làm hai bộ phận, một bộ phận tầng hai là tấm sàn nửa mở, mặt trên lắp đặt những khối đá loại nhỏ hoặc là một bộ giường nỏ ba mươi phát. Mà một bộ phận khác chính là một rương quây kín dài hai trượng rưỡi, bên trong có thể bốc xếp và vận chuyển hai mươi người bắn nỏ. Ở hai bên cùng phía trước xe ngựa mỗi phía phân bố trên dưới hai hàng mười hai cái lỗ tròn khổng, đây là lỗ thông gió, đồng thời cũng là lỗ bắn. Xe ngựa có sáu bánh, mỗi chiếc xe dùng bảy hay chín con ngựa để kéo.
Tại xưởng thí nghiệm bí mật, những xe ngựa này lần đầu tiên liền bắn ra một quả hỏa được đi xa ba trăm bộ làm phát ra tiếng nổ mạnh kinh thiên động địa. Do đó được Trương Hoán mệnh danh là Phích Lịch chiến xa. Ở trong cuộc chiến tấn công hay phòng ngự tại Trung nguyên thì loại xe ngựa này tác dụng không lớn. Nhưng nó lại là vũ khí lợi hại để đối phó dân tộc du mục khi đem vũ khí tiên tiến của người Hán cùng tính cơ động hữu hiệu kết hợp lại. Lần này trong cuộc tây chinh của quân Đường thì nó là lần đầu gia nhập chiến tranh.
Trong lúc Trương Hoán thấy chiến xa này đến mà cảm thấy vạn phần mừng vui bất ngờ thì hơn mười kỵ mã nghe thấy tin từ trong doanh hậu cần chạy nhanh ra. Từ thật xa liền gọi lớn “ Đô đốc!”
Đợi mấy người chạy đến gần thì Trương Hoán mới nhận ra. Hai người cầm đầu, một người là Hành Quân Tư Mã quân Tây Lương La Nghiễm Chánh, người khác là Bùi Minh Viễn.
“Các ngươi sao lại đến!” Trương Hoán cười lớn nhảy xuống ngựa, tiến lên đấm cho hai người này mỗi người một quyền. Có thể ở Tây Vực xa xôi gặp được cố nhân, quả thật là một chuyện vô cùng làm người ta mừng rỡ.
“Thuộc hạ đến hộ tống Phích Lịch chiến xa cùng lương thảo.” La Nghiễm Chánh vuốt vuốt bả vai bị Trương Hoán đánh phát đau, cười khổ mà nói.
“Vậy còn ngươi?” Trương Hoán lại quay đầu nhìn Bùi Minh Viễn cười hỏi.
Bùi Minh Viễn lấy ra từ trong ngực vài phong thư rồi nói: “Ta là vội tới đưa thư nhà cho ngươi.”
Dứt lời, hắn lại nhìn ra xa khắp vùng đất rộng lớn chung quanh cùng cảnh chiều tráng lệ, không nhịn được ngửa mặt lên trời cười to: “Lại thuận tiện xem lại dấu vết ta du lịch ngày trước. Mười năm, nơi này vẫn cứ làm người ta mở mang lòng dạ như vậy. “
Trương Hoán tự nhiên biết hắn đến còn có nguyên nhân khác. Hắn liền lôi kéo hai người cười nói: “Đi! Chiều nay chúng ta cùng dùng bữa. Hãy kể chuyện tình Trung Nguyên cho ta thật đầy đủ. Mới mấy tháng mà ta cảm giác được chính mình cũng muốn biến thành người Hồ.”
Tại bên trong soái trướng Trương Hoán, ba người lấy trà thay rượu, cùng nhau hưởng dụng bửa tối ngon lành: những tảng thịt dê lớn được nướng khô vàng thơm nức rắc ít muối, mấy món thức nhắm tươi nguyên ngon miệng, lại còn có một bàn bánh bao.
“Dọc đường hành quân. Mặc quần áo mà ngủ, uống nước suối, gặm bánh bao nhân thịt, cứ quay về đại doanh là tốt rồi!” Trương Hoán nhấc một chén trà Mông Đỉnh uống một hơi cạn sạch, thoải mái đến mắt hơi khép lại, hắn không nhịn được mà thở dài nói.
“Ngươi nha! Là tự tìm khổ mà chịu. “ Bùi Minh Viễn chỉ vào hắn cười nói: “Ngươi hoàn toàn có thể không cần tự mình đến Tây Vực tác chiến. Phái Đại tướng thuộc hạ đến cũng được. Nào có chuyện đường đường Binh Bộ Thượng Thư, Nội các Thủ thần triều đình tự mình đi đánh giặc?”
“Minh Viễn. Ngươi không hiểu ý nghĩ của đô đốc.” La Nghiễm Chính phản bác lời hắn: “Thu phục An Tây, Bắc Đình là chuyện ước mơ tha thiết của bao nhiêu người, nam nhi sao không mang Ngô Câu, thu quan ải năm mươi châu. Nói tới nói lui, người có thể có cơ hội như thế liệu được mấy người? Đô đốc nếu như không nắm lấy cơ hội lần này, chỉ sợ tương lai sẽ càng không thể.”
Trương Hoán gật đầu cười nói với Bùi Minh Viễn: “Có nghe thấy không? Vẫn cứ là La Tư Mã hiểu rõ ta, uổng cho ngươi lại là anh em vợ ta, giống như người đi đường phàm phu quê mùa.”
“Ta phàm phu sao?” Bùi Minh Viễn sờ sờ mũi, cười nhạt nói: “Ngươi nếu như biết tin tức triều đình, chỉ sợ cũng sẽ không nói ta phàm phu.”
Hẳn là có chuyện gì mà đến! Trương Hoán thầm nghĩ, hắn đặt chén trà trong tay xuống: “Ngươi cứ việc nói thẳng đi! Triều đình đến rốt cục có chuyện gì xảy ra?”
Bùi Minh Viễn từ trong lòng ngực lấy ra một quyển tấu chương đưa cho Trương Hoán mà nói: “Quan Trung, Hà Đông, Trung Nguyên đã gặp đại hạn hơn mười năm không thấy. Hơn sáu mươi quận lương thực vụ chiêm có gieo hạt mà không thu hoạch. Nhất là Quan Trung, đồng ruộng khô như nứt nẻ, người chết đói ngàn dặm. Mấy trăm vạn người Hà Đông, Quan Trung chạy trốn tới Lũng Hữu và Thục Trung kiếm ăn. Ngay cả Hoàng Hà đều khô cạn. Đô đốc. Tình huống rất nghiêm trọng đó!”
Trương Hoán tiếp nhận thiếp vội vã nhìn thoáng qua, không ngờ là Bùi Tuấn viết tới: Quan Trung thu hoạch lương thực ruộng quan không đủ mười vạn thạch. Hà Đông mấy trăm con sông khô cạn, nước uống cho cả người lẫn súc vật phát sinh khó khăn rất lớn. Thôi Khánh Công thả binh lính đánh cướp nhà giàu, giết cả nhà vô số người bị chết. Vi Đức Khánh chỉ huy quân đang đêm tập kích kho lương của quan phủ.
Ở cuối thư, Bùi Tuấn thỉnh cầu Trương Hoán cấp cho triều đình sự trợ giúp lớn nhất.
“Chúng ta còn bao nhiêu lương thực tồn?” Trương Hoán gập thiếp lại rồi hỏi Bùi Minh Viễn.
Bùi Minh Viễn suy nghĩ một chút liền nói: “Năm nay Lũng Hữu thu hoạch không tệ, Thục Trung lương thực cũng được mùa. Lúc ta tới đã thu hoạch năm trăm vạn thạch ruộng quan. Lận Cửu Hàn tại đồn điền Trường Sa năm nay đã tích lương được năm mươi vạn thạch, có thể trợ giúp Tương Dương. Hơn nữa còn lương thực tồn vụ trước, như vậy tính ra kho lương Lũng Hữu hẳn là còn có một ngàn năm trăm vạn thạch lương thực. ^^
Trương Hoán trầm tư chỉ chốc lát lại hỏi La Nghiễm Chính: “Với hai mươi vạn đại quân, tác chiến nửa năm thì lần tây chinh này của ta cần hao phí bao nhiêu lương thực?”
“Quân lương ước ba trăm vạn thạch là có khả năng. Nhưng suy tính đến hao phí đường xá, thuộc hạ phỏng đoán ít nhất cũng cần năm trăm vạn thạch.” Trương Hoán gật đầu, lại hỏi Bùi Minh Viễn “ Hồ Trường sử có thể đã hành động?”
Bùi Minh Viễn có chút hạ thấp người mà nói: “Hồ Trường sử đã khẩn cấp điều vận trăm vạn thạch lương thực trợ giúp Trường An, mặt khác mở cửa kho lấy năm mươi vạn thạch cứu tế nạn dân. Nếu như muốn mở rộng trợ giúp thì còn phải xin chỉ thị đô đốc đồng ý.”
Trương Hoán chắp tay đằng sau từ từ bước đi thong thả trong doanh trướng. Hắn biết đây kỳ thật là một cơ hội cực kỳ khó được, hoàn toàn có thể coi đây là điều kiện áp chế triều đình để xây điện hiến tế cho cha mình trong thái miếu. Nếu như là mấy tháng trước, hắn nhất định sẽ đưa ra yêu cầu như vậy, nhưng sau khi trải qua hơn một tháng cuộc chiến An Tây, trong lòng hắn đã xảy ra sự thay đổi tế nhị. Đối với những điều kiện trao đổi này, hắn đã thấy không cần phải coi trọng nặng như vậy. Lập đại điện sẽ như thế nào, không lập đại điện lại như thế nào?
Mấu chốt là dân tâm, người được lòng dân mới có thể được thiên hạ. Trương Hoán hắn chỉ cần có thực lực tuyệt đối thì tất cả sẽ cứ nước đến mà tự nhiên xây thành.
Nghĩ vậy, Trương Hoán lấy bút viết một phong thơ giao cho Bùi Minh Viễn rồi dặn: “Trong lúc ta không có mặt ở Lũng Hữu, tất cả quyết sách quân sự chính quyền bên trong phạm vi thế lực của ta sẽ do Hồ Dong, Đỗ Mai, Hạ Lâu Vô Kỵ cùng với hai người các ngươi. Tổng cộng năm người hiệp nghị quyết sách, nếu tán thành quá nửa liền có thể thi hành. Không cần mọi chuyện tới hỏi ta, nhưng có một nguyên tắc năm người các ngươi nhất định phải nhớ kỹ cho ta.”
Bùi Minh Viễn cùng La Nghiễm Chính đồng loạt đứng lên, khom người nói: “Thỉnh đô đốc căn dặn!”
Trương Hoán nhìn chăm chú vào hai người ánh mắt, gằn từng chữ: “Người lập quốc, lấy dân là gốc.”
Sáng sớm ngày hôm sau, hai người Bùi Minh Viễn cùng La Nghiễm Chính liền rời Y Ngô về đông. Trương Hoán không có đi tiễn đưa bọn họ, hắn từ lúc trời còn chưa sáng đã liền đi tới một chỗ sân luyện binh cách quân doanh ba dặm. Hôm nay, hắn muốn ở chỗ này thí nghiệm Phích Lịch chiến xa của mình.
Sân luyện binh rộng hơn mười khoảnh, ba mặt là núi vây quanh, có gần ngàn trạm gác không cố định trên núi. Cách ngoài vài dặm thì tuần tra cấm chỉ bất luận kẻ nào tới gần nơi này.
@by txiuqw4