Trung Tinh Khả Hãn ánh mắt phức tạp nhìn chăm chú vào Trương Hoán, hắn kỳ thật đã gặp Trương Hoán. Nguyên lai tên của hắn là Đốt Mạc La Đạt Kiền. Năm đó khi Trương Hoán đại phá Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý thì hắn đã từng là một người quý tộc Hồi Hột trẻ tuổi bị quân Đường bắt làm tù binh. Có điều là lúc ấy hắn vẫn còn không đáng để mắt tới, không được Trương Hoán coi trọng mà thôi.
Trung Tinh Khả Hãn cười cười, đáp lễ: “Trương Đô đốc cùng Hồi Hột chúng ta quan hệ sâu đậm. Hy vọng bổn Hãn hôm nay đến đây, có thể có thu hoạch.”
Trương Hoán thấy hắn có thể nói một thứ Hán ngữ lưu loát liền vui vẻ cười nói: “Mời Khả Hãn vào trong đại trướng nói chuyện.”
Tháng bảy năm Tuyên Nhân thứ bảy, trong Hồi Hột quốc phát sinh nội loạn nghiêm trọng, Thác Bạt Thiên Lý dẫn quân đánh vào đô thành, tuyên bố huỷ bỏ Trung Trinh Khả Hãn, mặt khác lại lập tân hãn. Việc này lại được rất nhiều quý tộc Hồi Hột trung với Đăng Lợi Khả Hãn trước kia ủng hộ. Trước nguy cơ nghiêm trọng về chấp chính, Trung Trinh Khả Hãn đang giằng co cùng quân Đường tại Bắc Đình xa xôi bị buộc bất đắc dĩ giảng hòa với quân Đường. Song phương sau hai ngày đàm phán rốt cục đạt được nhất trí, Trung Trinh Khả Hãn lấy hình thức văn bản thừa nhận Bắc Đình cùng An Tây thuộc sở hữu Đại Đường, đồng thời hạ lệnh cho Hiệt Kiền Già Tư ở An Tây bỏ vũ khí xuống, đầu hàng quân Đường. Mà quân Đường hứa hẹn quân Hồi Hột An Tây sau khi bỏ vũ khí có thể đi qua, đồng thời sau khi rời khỏi Bắc Đình sẽ trả lại vũ khí.
Đồng thời, Trương Hoán cũng xác định rõ tỏ vẻ ủng hộ Trung Trinh Khả Hãn trở về hãn vị, khi cần thiết quân Đường có thể cung cấp viện trợ. Cuối tháng bảy, tin tức Khả Hãn cùng quân Đường giảng hòa hãy còn chưa đến An Tây, Hiệt Kiền Già Tư hai mặt thụ địch định mở đường về bắc. Quyết chiến cùng quân Đường tại phía bắc Bác Tư Đằng Hồ, lại bị quân Đường nam bắc giáp công mà đại bại. Quân Hồi Hột nam chinh tử thương gần nửa. Mấy ngày sau, Trung Trinh Khả Hãn hạ lệnh bỏ vũ khí truyền tới An Tây, Hiệt Kiền Già Tư cạn sạch lương thảo cũng biết chuyện khẩn cấp vì thế đầu hàng quân Đường.
Bốn vạn quân Hồi Hột phân làm ba đợt có quân Đường giám thị rời khỏi bắc An Tây. Cuối cùng hợp quân với Trung Trinh Khả Hãn tại Đa La Hà ở phía bắc của Bắc Đình rồi đại quân quay về Mạc Bắc. Cứ như vậy, chiến dịch xuôi nam kéo dài suốt một năm của Hồi Hột cuối cùng chấm dứt với thất bại toàn diện của Hồi Hột.
Nhưng khi quân Đường đại chiến cùng quân Hồi Hột tại Bác Tư Đằng Hồ thì cùng thời khắc đó, ở Bạt Hoán Thành xa xôi quân Thổ Phiên bắt đầu xuất phát về hướng Quy Tư, ý đồ đuổi quân Đường ra khỏi An Tây. Cánh quân Vương Tư Vũ chủ động xuất kích, hắn tự mình dẫn tám ngàn kỵ binh tại lưu vực Bạch Mã Hà phía tây Quy Tư chặn quân tiên phong Thổ Phiên lại.
Đại thảo nguyên bao la giống một người khổng lồ mở rộng cánh tay về bốn phương tám hướng, bầu trời mênh mông xanh thẳm, mặt đất bị như bầu trời xanh nóng nực trùm lên. Mấy con hùng ưng chao liệng giữa bầu trời, ánh mắt sắc bén nhìn chăm chú vào quân đội dưới mặt đất.
Kỵ binh của Vương Tư Vũ có thể được xưng là tinh nhuệ trong kỵ binh Tây Lương, bọn họ một bộ phận là lão binh theo Vương Tư Vũ cướp lấy Thạch Bảo Thành, một bộ phận khác chính là những người khỏe mạnh được lựa chọn ra từ nô lệ người hán ở Hà Hoàng được giải phóng. Còn có một ít kỵ binh người Khương. Đặc điểm lớn nhất của bọn họ là ai nấy đều có thuật cỡi ngựa cao siêu. Có thể mấy ngày mấy đêm không rời khỏi lưng ngựa. Sau đó lại có ba năm được huấn luyện tàn khốc nằm gai nếm mật, bọn họ không chỉ có nắm giữ kỹ thuật cỡi ngựa bắn cung, đao thuật,vật lộn vân vân. Hơn nữa có tổ chức kỷ luật nghiêm khắc. Khi động thì lao nhanh như mây, lúc tĩnh thì đứng vững như núi. Đúng là nhờ có đội kỵ binh tinh nhuệ này mới làm cho Vương Tư Vũ có thể hành quân đêm ngày, một lần hành động là cướp lấy Yên Kỳ cùng Quy Tư.
Làm Thống soái, Vương Tư Vũ kế thừa tinh thần quân thần của tổ phụ Đại Đường Vương Trung Tự. Hắn trung thành, kiên nghị, quyết đoán. Có lúc hắn như một thanh bảo kiếm sắc bén chưa từng có từ trước đến nay chinh chiến thảo phạt khắp nơi; có khi lại như một biển cả tĩnh lặng, dưới mặt biển bình yên lại ẩn chứa sóng ngầm mãnh liệt. Năm nay hắn chỉ có ba mươi tuổi, nhưng đã là lão tướng thân kinh bách chiến, trầm ổn mà không mất nhuệ khí.
Từ phương xa có một người thám báo chạy như bay mà đến, hắn lớn tiếng bẩm báo: “Tướng quân, tiên phong người Thổ Phiên đã ở khoảng hai mươi dặm, ước hơn sáu ngàn kỵ sĩ.”
“Ta đã biết. Lại thăm dò!”
“Tuân mệnh!” Thám báo thi lễ rồi quay đầu đi. Vương Tư Vũ giơ tay lên che mắt nhìn ra địa thế đôi bên xa xa. Sông Bạch Mã từ hướng tây bắc chảy đến, ở phía xa xa vẽ ra một đường cong rồi lại hướng phía đông bắc chảy đi. Nó giống một cây trường cung, uốn lượn chảy xuôi, mà ở phần đất năm dặm hai bên bờ sông chính là mảng rừng rậm lớn.
Vương Tư Vũ trầm tư chỉ chốc lát, liền lệnh cho Đô úy Tào Hán Thần của đệ nhất doanh: “Ngươi có thể chỉ huy ba nghìn quân ẩn náu trong rừng cây, đợi khi binh tộc Thổ Phiên đi qua thì từ phía sau đánh lén.”
“Mạt tướng tuân lệnh!” Tào Hán Thần vung tay lên, ba nghìn quân từ trong đội ngũ tách ra nhằm hướng bắc phi nhanh đi.
Quân Đường ghìm tốc độ ngựa lại, tận lực nghỉ ngơi sức ngựa, đi thêm ước chừng ba bốn dặm thì lúc này, từ phía tây bắc xa xa trên một điểm cao trên xuất hiện hơn mười kỵ binh. Đó là thám báo người Thổ Phiên. Vương Tư Vũ lập tức hạ lệnh khuếch trương đại kỳ làm ra khí thế vạn người. Lập tức một đội năm trăm trinh sát lao về hướng thám báo Thổ Phiên đuổi giết. Thám báo Thổ Phiên liền quay đầu trốn xa.
Vương Tư Vũ giơ tay ngăn lại, năm nghìn kỵ binh lập tức đình chỉ tiến lên. Trên thảo nguyên chợt yên lặng đi. Kỵ binh tác chiến, ngoại trừ bản thân trang bị của kỵ sĩ cùng ngựa hoàn mỹ ra thì vẫn còn phải coi trọng khí thế cùng chiến pháp, lấy sở trường của mình dài, khắc chế sở đoản của địch. Ưu thế của quân Đường ở chỗ trang bị hoàn mỹ, không chỉ có phối hợp giáo dài cùng hoành đao, còn có cung tên sắc bén, nhất là quân Tây Lương. Bọn họ đem trang bị cung tên truyền thống của kỵ binh đổi thành nỏ cứng vững. Bọn lính thống nhất trang bị nỏ phách dùng ngón cái để bắn, tầm bắn có thể đạt tới hai trăm ba mươi bộ, cự ly sát thương hữu hiệu là một trăm năm mươi bộ. Uy lực, tầm bắn, độ chính xác của nó đều vượt xa cung tên, khuyết điểm duy nhất chính là tốc độ bắn cùng tính linh hoạt kém hơn. Vì thế, chương trình học và huấn luyện chủ yếu nhất của kỵ binh quân Tây Lương chính là cỡi ngựa bắn cung ở tốc độ cao. Mọi người trong kỵ binh của Vương Tư Vũ đều sử dụng thuần thục cách bắn nỏ.
Mũi tên cũng không phải loại mũi tên bình thường. Lần này bộ trang bị của Vương Tư Vũ chính là loại mũi tên xuyên giáp chuyên môn đối phó người Thổ Phiên, mũi tên hình chùy nhọn, dài mà nhọn, ba mặt lại xẻ rãnh là chuyên môn nghiên cứu chế tạo nhằm vào Tỏa Tử Giáp của người Thổ Phiên.
Để đối phó kỵ binh người Thổ Phiên, quân Đường vẫn còn làm rất nhiều chuẩn bị khác. Ví dụ như chiến mã, chiến mã người Thổ Phiên có đặc điểm là sức chở cùng sự chịu đựng vô cùng tốt, thích ứng với đường sá xa xôi tại địa khu cao mà lạnh. Nhưng tốc độ ngựa không hài lòng, ngoài ra thiếu hụt lực công kích, mà quân Tây Lương chủ yếu trang bị ngựa Đột Quyết, cũng có sức chịu đựng kéo dài, nhưng hình thể lại nhỏ, tốc độ cũng theo không kịp. Vì vậy, Trương Hoán tại mấy năm trước liền phái người nhập về một nhóm ngựa đực Ðại Uyên thượng hạng, phái chuyên gia tại Hà Tây quản lý việc sinh sôi nẩy nở, đồng thời lại mua một nhóm ngựa Yên Kỳ. Hai chủng chiến mã này cao lớn khỏe mạnh, tứ chi thon dài, đối với dùng dây cương khống chế dị thường mẫn cảm, tốc độ cùng sức bật đều rất mạnh. Đáng tiếc loại ngựa Lương này cũng không nhiều, mấy năm qua cả quân Tây Lương cũng chỉ có hơn hai vạn con. Trong đó một vạn con trang bị cho quân cận vệ của Trương Hoán, mà một vạn thớt khác chính là trang bị trong quân của Vương Tư Vũ.
Trời cao bát ngát, gió tây thổi mạnh, năm nghìn kỵ binh Đại Đường chia làm hai quân đoàn đứng sừng sững trên đại thảo nguyên mênh mông. Đây là các dũng sĩ vì nước vì lý tưởng mà chiến. Máu bọn họ sôi trào, vì rửa sạch nỗi sỉ nhục của Đại Đường yếu đuối sau loạn An Lộc Sơn. Bọn họ đi đến Tây Vực xa xôi cách gần vạn dặm, vì vinh quang cùng ích lợi của Đại Đường mà chiến đấu.
Từ xa, một vệt đen xuất hiện, năm nghìn kỵ binh tiên phong người Thổ Phiên trải qua hơn ba trăm dặm ngày đêm hành quân rốt cục đã chạy tới Quy Tư. Phải nói, chiến lược của Xích Tùng Đức Tán là chính xác, hắn lệnh cho quân Thổ Phiên rút lui về phía tây từ đó tạo thế ngư ông đắc lợi. Nhưng hắn lại không ngờ rằng có hai kiện sự phát sinh, một toán quân Đường lại từ phía nam đi đường xa đến tiến chiếm Quy Tư mà hắn để lại. Hàng thứ yếu là hắn không có ngờ tới Hồi Hột sẽ phát sinh nội loạn, khiến cho chiến dịch quy mô lớn vốn không thể tránh khỏi lại dùng phương thức đàm phán để kết thúc.
Cứ như vậy. Chiến lược rút lui của hắn lại biến thành chiến lược sai lầm, đem Yên Kỳ cùng Quy Tư chắp tay đưa cho quân Đường vô ích. Vì thế, trong lòng Xích Tùng Đức Tán hận cực kỳ Trương Hoán. Lúc quân Đường vẫn còn cùng quân Hồi Hột giao chiến ở Bác Hồ thì hắn liền tự mình dẫn năm vạn đại quân đánh về phía Quy Tư. Trong đó năm nghìn quân tiên phong của hắn vẻn vẹn dùng hai ngày hai đêm liền đến bên bờ sông Bạch Mã.Đại tướng tiên phong tộc Thổ Phiên tên là Luận Mãng Tàng Bố. Hắn là con rể Xích Tùng Đức Tán, cực kỳ dũng mãnh hung hãn. Lúc Xích Tùng Đức Tán tại Thổ Hỏa La bị quân Đại Thực vây khốn, đúng là hắn dẫn quân mở ra một con đường máu, cứu Tán Phổ ra khỏi hiểm địa. Năm nghìn bộ hạ của hắn cũng là quân binh chuyên nghiệp, so cùng những tên quân Thổ Phiên tạm thời từ dân chăn ngựa mà ra thì bọn họ càng thêm khát máu, càng thêm dũng mãnh. Cũng chính vì thế, bọn họ luôn luôn là lưỡi đao nhọn mở đường của Xích Tùng Đức Tán.
So sánh cùng quân Đường thì trang bị người Thổ Phiên có lẽ còn kém một chút. Ngoài trình độ bắn cung tên ra thì bọn họ xa mới bằng quân Đường. Trang bị kỵ binh cùng bộ binh cũng không khác nhau, chủ yếu là mặc giáp trụ Tỏa Tử Giáp, cầm trường mâu cùng Viên Thuẫn, đánh nhau cận chiến vẫn là dùng trường kiếm truyền thống. Nhưng bọn họ có thể chất bản thân cũng rất mạnh mẽ, sức chịu đựng kéo dài, cũng cực ít khí ngã bệnh. Ngoài ra tại khu vực cao và lạnh thì nói chung, nếu như chiến đấu giữa quân Đường cùng quân Thổ Phiên lâm vào trạng thái giằng co thì cuối cùng thường thường là quân Thổ Phiên giành chiến thắng bằng vào ưu thế thể lực.
Lúc này, Luận Mãng Tàng Bố cũng nhìn thấy quân Đường ở đằng xa. Hắn nhẹ nhàng vung tay lên, đại quân ghìm chậm tốc độ. Hắn đã được báo, quân Đường từ khí thế thì ước vạn người, nhưng trên thực tế cũng cùng chính mình binh lực tương tự, chỉ có năm nghìn người.
Luận Mãng Tàng Bố quay đầu lại nhìn thoáng qua đội ngũ của mình, sĩ khí tăng vọt, khí thế như cầu vồng mọc. Hắn cười ngạo nghễ hô: “Tán Phổ có nói, ai chiếm đoạt Quy Tư trước có thể phong An Tây vương. Lại phái ta làm tiên phong, hiển nhiên là không có suy nghĩ đến ta ở trong đó. Các huynh đệ, nếu có thể trợ ta chiếm đoạt Quy Tư, cứ thấy nữ nhân, bò dê thì tùy ý cho các ngươi tuyển chọn.”
Tin tức truyền ra, năm nghìn người Thổ Phiên phát ra một tràng tiếng hú tựa như ngao kêu. Bọn họ là quân binh chuyên nghiệp, lấy cướp đoạt cùng chém giết mà sống. Ở trong mắt bọn họ, quân Đường đằng kia chẳng qua chỉ là một đám cừu mặc cho bọn hắn giết.
“Sát!” Luận Mãng Tàng Bố vung trường kiếm lên rồi điên cuồng hét lên một tiếng, quân Thổ Phiên dùng hai chân thúc dục chiến mã, tay trái cử thuẫn, tay phải chấp mâu, phô thiên cái địa nhằm hướng quân Đường ập tới. Trên thảo nguyên tràn ngập sát khí ngút trời.
Quân Đường đứng đó phảng phất giống như quả núi, bọn họ tay giương nỏ cứng vững, ánh mắt sắc bén nhìn chăm chú vào quân Thổ Phiên vọt tới, hậu quân bắt đầu chạy chậm về phía sau, ước chạy trên hai dặm thì dừng lại. Như vậy, đại quân đã lập hai phương trận bố trí trên thảo nguyên.
Ưu thế quân Đường ở chỗ bắn nỏ. Đối với kỵ binh bắn nỏ, vì luân chiến pháp nổi tiếng nhất mà đòi hỏi hắn cần có kỹ thuật điều khiển ngựa cao siêu cùng kỷ luật nghiêm khắc nhất. Cho dù đồng bạn bị giết ngay trước mắt thì cũng không thể làm rối loạn trận thế. Nguyên lý đó cũng được tam đoạn bắn ( bắn ba đợt quay vòng) kế thừa.
Cự ly xa vài dặm xa đối với quân Thổ Phiên chẳng qua chỉ thoáng qua là đến. Năm trăm bộ bốn trăm bộ, hai nghìn quân Đường vẫn đứng yên ở trên ngựa. Mũi nỏ từ từ giơ lên nhắm ngay phía trước. Trận hình bọn họ đã lập chia làm năm hàng, mỗi hàng bốn trăm người. Mặt khác hai bên phải trái mỗi nơi có năm trăm người ngăn chận đầu trận tuyến.
Hai trăm bộ một trăm năm mươi bộ, quân Thổ Phiên đã tiến vào cự ly sát thương hữu hiệu. Đã có thể thấy được rõ ràng bọn họ đang nhe răng cười, tấm chắn giơ lên, căn bản là không hãi sợ nỏ trận của quân Đường.
“Bắn!” Đô úy quân Đường ra lệnh một tiếng, mũi tên như mưa phát ra. Loạt mũi nỏ thứ nhất bay lên trời nhằm hướng quân Thổ Phiên vọt tới. Mặc dù có tấm chắn hộ vệ, nhưng quân Thổ Phiên xông lên trước nhất vẫn còn là ngã xuống một đám. Chiến mã hí thảm chạy dạt ngang ra, tốc độ tiến công của quân Thổ Phiên lập tức chậm lại. Bên này quân Đường sau khi bắn ra một mủi tên, hàng đầu tiên của quân Đường lập tức quay đầu lui về phía sau, hàng quân Đường thứ hai đã bắn ra một loạt mũi tên khác. Ngay sau đó hàng thứ hai của quân Đường cũng quay đầu lui về phía sau, hàng thứ ba của quân Đường đã bắn tiếp. Sau năm hàng, hàng quân Đường vốn là thứ nhất lại đã cài đặt xong mũi nỏ. Cứ thế vòng đi vòng lại, luân phiên quay vòng thông thoát như nước chảy mây trôi không có chút xíu trở ngại. Chiến mã quân Đường nhanh nhẹn, tốc độ lui về phía sau cực nhanh, so với người Thổ Phiên đang xông tới lại chỉ chậm hơn một phần.
Từ xa nhìn lại, phảng phất vô số vòng tròn đang nhanh chóng quay tít trên mặt đất. Chỉ sau vài vòng khi quân Thổ Phiên đã cách xa không đến năm mươi bộ, quân Đường lập tức đình chỉ bắn. Với tốc độ ngựa nhanh hơn, trong nháy mắt liền rút lui bỏ lại người Thổ Phiên, bọn họ vọt tới đằng sau hậu quân thì lại một lần nữa phân bố thành trận doanh hoàn chỉnh.
Xoát một tiếng, hai nghìn trung quân nỏ cứng vững lại một lần nữa dàn hàng giơ lên, mũi tên lạnh thấu xương chỉ hướng quân địch. Trận mưa tên của quân Đường có lực sát thương thật lớn. Ngắn ngủn chỉ đoạn đường mấy trăm bộ mà tộc Thổ Phiên đã tử thương cả ngàn người, sĩ khí cùng ý chí chiến đấu quân Thổ Phiên đã giảm xuống rõ ràng. Cơn cuồng phong đối mặt quân Đường đã rời bỏ bọn họ, không còn ai ra sức đuổi theo.
Luận Mãng Tàng Bố cũng đã tỉnh táo lại. Hắn ý thức được, nếu cứ truy theo tiếp như vậy, quân đội của mình sớm muộn gì sẽ bị quân Đường bắn chết hết. Hắn hét lớn một tiếng: “Toàn quân dừng lại!”
Bốn ngàn quân Thổ Phiên còn lại lao xao đình chỉ, hai toán quân đội lại đứng cách xa nhau một dặm trên thảo nguyên mà nhìn nhau đối diện. Gió tây thổi mạnh trên vùng đất hoang dã làm những lá đại kỳ của hai bên vang lên phần phật.
Luận Mãng Tàng Bố đột nhiên ra lệnh một tiếng, bốn ngàn quân Thổ Phiên lập tức kết thành một phương trận chỉnh tề thật lớn. Mấy trăm kỵ binh tộc Thổ Phiên cầm cự thuẫn đi ở phía trước tiên, quân Thổ Phiên phía sau ai nấy đều cầm Viên Thuẫn sắp thành hàng dày đặc chung một chỗ mà hình thành một quả núi từ thuẫn. Tốc độ cũng không nhanh, “ đát đát!” áp dần về phía quân Đường.
Đó cũng là biện pháp chuyên môn đối phó cung tên quân Đường mà người Thổ Phiên từ hàng trăm năm chinh chiến cùng quân Đường đã tổng kết ra. Nó vốn là bộ binh trận, lại phối lấy kỵ binh sắc bén thọc sâu vào nhưng hiện tại cũng dùng cho kỵ binh. Mặc dù kình lực cực mạnh của kỵ binh tộc Thổ Phiên đánh vào đã không có, nhưng nhân số tử vong cũng giảm xuống trên diện rộng.
Cùng với người Thổ Phiên dần dần tới gần, quân Đường cũng kết hợp ở một chỗ. Năm nghìn quân Đường vẫn không nhúc nhích phảng phất giống như quá núi oai nghiêm. Vương Tư Vũ lạnh lùng nhìn chăm chú người Thổ Phiên. Đại Thiết Thương trong tay của hắn đã chỉ ngang, hắn lại lấy ra một cái mặt nạ bằng đồng xanh mặt ma quỷ rồi đeo lên trên mặt.
Dần dần quân Thổ Phiên lại đến tầm sát thương, nhưng quân Đường vẫn không nhúc nhích. Một trăm bộ, đột nhiên quân Đường bộc phát ra tiếng hô kinh thiên động địa, hai ngàn kỵ binh như chớp giật điên cuồng xông lên, sát khí ngút trời khiên cho không trung cũng ngạc nhiên mà biến sắc.
Oanh! một tiếng, giống hệt sóng lớn chạm vào nhau, quân Đường sắc bén trong nháy mắt liền xẻ rách kỵ binh trận của người Thổ Phiên. Vương Tư Vũ xung phong đi đầu, hắn huy động đại Thiết Thương năng một trăm năm mươi cân hét lớn một tiếng, một thương liền đâm xuyên qua ngực năm sáu kỵ binh tộc Thổ Phiên. Đại thương vung lên, nương theo đó là tiếng kêu thảm thiết thật dài. Năm sáu người Thổ Phiên trên mũi thương lại bị bắn bay đi.
Dã tính của Vương Tư Vũ đột nhiên phát tác, đại Thiết Thương của hắn trên dưới tung bay, khi thì như lê hoa bạo vũ ( hoa lê trong mưa), khi thì giống như lực vãn Thiên Quân ( lực sĩ ngàn cân), giết cho quân Thổ Phiên đến người ngã ngựa đổ, tử thương chồng chất. Chiến mã của hắn cao lớn thần tuấn (khỏe mạnh) dị thường, đi lại mạnh mẽ giống như đằng vân giá vũ ( cưỡi mây đạp gió). Phối hợp vóc người hùng tráng của hắn cùng với một cây đại Thiết Thương, khuôn mặt như ma quỷ lại khiến cho quân Thổ Phiên cứ thấy là mất vía. Khi thấy hắn đánh tới, tất cả phát ra một tiếng hô to rồi hướng hai bên bỏ chạy. Trong lúc nhất thời, Vương Tư Vũ lại như hổ trong đàn dê.
Luận Mãng Tàng Bố thấy Vương Tư Vũ không gì cản nổi, hắn không khỏi giận tím mặt mà vung trường mâu nhằm hướng Vương Tư Vũ đánh tới. Vương Tư Vũ liếc mắt thoáng nhìn, hắn lạnh lùng cười gằn rồi quát to một tiếng, lập tức một tiếng kèn trầm thấp của quân Đường vang lên, năm nghìn quân Đường quay đầu ngựa lại như cuồng phong nhằm hướng đông phi đi.
“Truy theo cho ta!”
Luận Mãng Tàng Bố bị quân Đường như vỗ tay đùa bỡn, hắn tức giận đến phát điên, rít gào nhằm hướng quân Đường mạnh mẽ truy theo. Trong chốc lát, hai quân đã chạy được năm sáu dặm, đã vượt qua khoảnh rừng rậm lớn. Quân Đường đột nhiên dừng lại, bọn họ nhanh chóng xếp thành hàng, thuần thục lắp tên lên nỏ cùng đợi người Thổ Phiên đến gần.
Lúc này, Vương Tư Vũ phóng ngựa vượt lên trước trận tiền kỵ binh. Tiếng của hắn mơ hồ mà cao vút vang lên trước trận: “Thu hồi nỏ lại, rút chiến đao của các ngươi ra, sỉ nhục của bậc tiền bối phải dùng máu của người Thổ Phiên để rửa sạch. Đại Đường sẽ ghi nhớ các ngươi, ngàn ngàn vạn vạn dân chúng Đại Đường sẽ kiêu ngạo vì các ngươi. Bây giờ là lúc các ngươi vì dân tộc Đại Đường mà chiến, để người Thổ Phiên nếm thử ý chí kiên cường và lưỡi đao của kỵ binh Đại Đường chúng ta đi!”
Đại tướng tiên phong tộc Thổ Phiên tên là Luận Mãng Tàng Bố. Hắn là con rể Xích Tùng Đức Tán, cực kỳ dũng mãnh hung hãn. Lúc Xích Tùng Đức Tán tại Thổ Hỏa La bị quân Đại Thực vây khốn, đúng là hắn dẫn quân mở ra một con đường máu, cứu Tán Phổ ra khỏi hiểm địa. Năm nghìn bộ hạ của hắn cũng là quân binh chuyên nghiệp, so cùng những tên quân Thổ Phiên tạm thời từ dân chăn ngựa mà ra thì bọn họ càng thêm khát máu, càng thêm dũng mãnh. Cũng chính vì thế, bọn họ luôn luôn là lưỡi đao nhọn mở đường của Xích Tùng Đức Tán.
So sánh cùng quân Đường thì trang bị người Thổ Phiên có lẽ còn kém một chút. Ngoài trình độ bắn cung tên ra thì bọn họ xa mới bằng quân Đường. Trang bị kỵ binh cùng bộ binh cũng không khác nhau, chủ yếu là mặc giáp trụ Tỏa Tử Giáp, cầm trường mâu cùng Viên Thuẫn, đánh nhau cận chiến vẫn là dùng trường kiếm truyền thống. Nhưng bọn họ có thể chất bản thân cũng rất mạnh mẽ, sức chịu đựng kéo dài, cũng cực ít khí ngã bệnh. Ngoài ra tại khu vực cao và lạnh thì nói chung, nếu như chiến đấu giữa quân Đường cùng quân Thổ Phiên lâm vào trạng thái giằng co thì cuối cùng thường thường là quân Thổ Phiên giành chiến thắng bằng vào ưu thế thể lực.
Lúc này, Luận Mãng Tàng Bố cũng nhìn thấy quân Đường ở đằng xa. Hắn nhẹ nhàng vung tay lên, đại quân ghìm chậm tốc độ. Hắn đã được báo, quân Đường từ khí thế thì ước vạn người, nhưng trên thực tế cũng cùng chính mình binh lực tương tự, chỉ có năm nghìn người.
Luận Mãng Tàng Bố quay đầu lại nhìn thoáng qua đội ngũ của mình, sĩ khí tăng vọt, khí thế như cầu vồng mọc. Hắn cười ngạo nghễ hô: “Tán Phổ có nói, ai chiếm đoạt Quy Tư trước có thể phong An Tây vương. Lại phái ta làm tiên phong, hiển nhiên là không có suy nghĩ đến ta ở trong đó. Các huynh đệ, nếu có thể trợ ta chiếm đoạt Quy Tư, cứ thấy nữ nhân, bò dê thì tùy ý cho các ngươi tuyển chọn.”
Tin tức truyền ra, năm nghìn người Thổ Phiên phát ra một tràng tiếng hú tựa như ngao kêu. Bọn họ là quân binh chuyên nghiệp, lấy cướp đoạt cùng chém giết mà sống. Ở trong mắt bọn họ, quân Đường đằng kia chẳng qua chỉ là một đám cừu mặc cho bọn hắn giết.
“Sát!” Luận Mãng Tàng Bố vung trường kiếm lên rồi điên cuồng hét lên một tiếng, quân Thổ Phiên dùng hai chân thúc dục chiến mã, tay trái cử thuẫn, tay phải chấp mâu, phô thiên cái địa nhằm hướng quân Đường ập tới. Trên thảo nguyên tràn ngập sát khí ngút trời.
Quân Đường đứng đó phảng phất giống như quả núi, bọn họ tay giương nỏ cứng vững, ánh mắt sắc bén nhìn chăm chú vào quân Thổ Phiên vọt tới, hậu quân bắt đầu chạy chậm về phía sau, ước chạy trên hai dặm thì dừng lại. Như vậy, đại quân đã lập hai phương trận bố trí trên thảo nguyên.
Ưu thế quân Đường ở chỗ bắn nỏ. Đối với kỵ binh bắn nỏ, vì luân chiến pháp nổi tiếng nhất mà đòi hỏi hắn cần có kỹ thuật điều khiển ngựa cao siêu cùng kỷ luật nghiêm khắc nhất. Cho dù đồng bạn bị giết ngay trước mắt thì cũng không thể làm rối loạn trận thế. Nguyên lý đó cũng được tam đoạn bắn ( bắn ba đợt quay vòng) kế thừa.
Cự ly xa vài dặm xa đối với quân Thổ Phiên chẳng qua chỉ thoáng qua là đến. Năm trăm bộ bốn trăm bộ, hai nghìn quân Đường vẫn đứng yên ở trên ngựa. Mũi nỏ từ từ giơ lên nhắm ngay phía trước. Trận hình bọn họ đã lập chia làm năm hàng, mỗi hàng bốn trăm người. Mặt khác hai bên phải trái mỗi nơi có năm trăm người ngăn chận đầu trận tuyến.
Hai trăm bộ một trăm năm mươi bộ, quân Thổ Phiên đã tiến vào cự ly sát thương hữu hiệu. Đã có thể thấy được rõ ràng bọn họ đang nhe răng cười, tấm chắn giơ lên, căn bản là không hãi sợ nỏ trận của quân Đường.
“Bắn!” Đô úy quân Đường ra lệnh một tiếng, mũi tên như mưa phát ra. Loạt mũi nỏ thứ nhất bay lên trời nhằm hướng quân Thổ Phiên vọt tới. Mặc dù có tấm chắn hộ vệ, nhưng quân Thổ Phiên xông lên trước nhất vẫn còn là ngã xuống một đám. Chiến mã hí thảm chạy dạt ngang ra, tốc độ tiến công của quân Thổ Phiên lập tức chậm lại. Bên này quân Đường sau khi bắn ra một mủi tên, hàng đầu tiên của quân Đường lập tức quay đầu lui về phía sau, hàng quân Đường thứ hai đã bắn ra một loạt mũi tên khác. Ngay sau đó hàng thứ hai của quân Đường cũng quay đầu lui về phía sau, hàng thứ ba của quân Đường đã bắn tiếp. Sau năm hàng, hàng quân Đường vốn là thứ nhất lại đã cài đặt xong mũi nỏ. Cứ thế vòng đi vòng lại, luân phiên quay vòng thông thoát như nước chảy mây trôi không có chút xíu trở ngại. Chiến mã quân Đường nhanh nhẹn, tốc độ lui về phía sau cực nhanh, so với người Thổ Phiên đang xông tới lại chỉ chậm hơn một phần.
Từ xa nhìn lại, phảng phất vô số vòng tròn đang nhanh chóng quay tít trên mặt đất. Chỉ sau vài vòng khi quân Thổ Phiên đã cách xa không đến năm mươi bộ, quân Đường lập tức đình chỉ bắn. Với tốc độ ngựa nhanh hơn, trong nháy mắt liền rút lui bỏ lại người Thổ Phiên, bọn họ vọt tới đằng sau hậu quân thì lại một lần nữa phân bố thành trận doanh hoàn chỉnh.
Xoát một tiếng, hai nghìn trung quân nỏ cứng vững lại một lần nữa dàn hàng giơ lên, mũi tên lạnh thấu xương chỉ hướng quân địch. Trận mưa tên của quân Đường có lực sát thương thật lớn. Ngắn ngủn chỉ đoạn đường mấy trăm bộ mà tộc Thổ Phiên đã tử thương cả ngàn người, sĩ khí cùng ý chí chiến đấu quân Thổ Phiên đã giảm xuống rõ ràng. Cơn cuồng phong đối mặt quân Đường đã rời bỏ bọn họ, không còn ai ra sức đuổi theo.
Luận Mãng Tàng Bố cũng đã tỉnh táo lại. Hắn ý thức được, nếu cứ truy theo tiếp như vậy, quân đội của mình sớm muộn gì sẽ bị quân Đường bắn chết hết. Hắn hét lớn một tiếng: “Toàn quân dừng lại!”
Bốn ngàn quân Thổ Phiên còn lại lao xao đình chỉ, hai toán quân đội lại đứng cách xa nhau một dặm trên thảo nguyên mà nhìn nhau đối diện. Gió tây thổi mạnh trên vùng đất hoang dã làm những lá đại kỳ của hai bên vang lên phần phật.
Luận Mãng Tàng Bố đột nhiên ra lệnh một tiếng, bốn ngàn quân Thổ Phiên lập tức kết thành một phương trận chỉnh tề thật lớn. Mấy trăm kỵ binh tộc Thổ Phiên cầm cự thuẫn đi ở phía trước tiên, quân Thổ Phiên phía sau ai nấy đều cầm Viên Thuẫn sắp thành hàng dày đặc chung một chỗ mà hình thành một quả núi từ thuẫn. Tốc độ cũng không nhanh, “ đát đát!” áp dần về phía quân Đường.
Đó cũng là biện pháp chuyên môn đối phó cung tên quân Đường mà người Thổ Phiên từ hàng trăm năm chinh chiến cùng quân Đường đã tổng kết ra. Nó vốn là bộ binh trận, lại phối lấy kỵ binh sắc bén thọc sâu vào nhưng hiện tại cũng dùng cho kỵ binh. Mặc dù kình lực cực mạnh của kỵ binh tộc Thổ Phiên đánh vào đã không có, nhưng nhân số tử vong cũng giảm xuống trên diện rộng.
Cùng với người Thổ Phiên dần dần tới gần, quân Đường cũng kết hợp ở một chỗ. Năm nghìn quân Đường vẫn không nhúc nhích phảng phất giống như quá núi oai nghiêm. Vương Tư Vũ lạnh lùng nhìn chăm chú người Thổ Phiên. Đại Thiết Thương trong tay của hắn đã chỉ ngang, hắn lại lấy ra một cái mặt nạ bằng đồng xanh mặt ma quỷ rồi đeo lên trên mặt.
Dần dần quân Thổ Phiên lại đến tầm sát thương, nhưng quân Đường vẫn không nhúc nhích. Một trăm bộ, đột nhiên quân Đường bộc phát ra tiếng hô kinh thiên động địa, hai ngàn kỵ binh như chớp giật điên cuồng xông lên, sát khí ngút trời khiên cho không trung cũng ngạc nhiên mà biến sắc.
Oanh! một tiếng, giống hệt sóng lớn chạm vào nhau, quân Đường sắc bén trong nháy mắt liền xẻ rách kỵ binh trận của người Thổ Phiên. Vương Tư Vũ xung phong đi đầu, hắn huy động đại Thiết Thương năng một trăm năm mươi cân hét lớn một tiếng, một thương liền đâm xuyên qua ngực năm sáu kỵ binh tộc Thổ Phiên. Đại thương vung lên, nương theo đó là tiếng kêu thảm thiết thật dài. Năm sáu người Thổ Phiên trên mũi thương lại bị bắn bay đi.
Dã tính của Vương Tư Vũ đột nhiên phát tác, đại Thiết Thương của hắn trên dưới tung bay, khi thì như lê hoa bạo vũ ( hoa lê trong mưa), khi thì giống như lực vãn Thiên Quân ( lực sĩ ngàn cân), giết cho quân Thổ Phiên đến người ngã ngựa đổ, tử thương chồng chất. Chiến mã của hắn cao lớn thần tuấn (khỏe mạnh) dị thường, đi lại mạnh mẽ giống như đằng vân giá vũ ( cưỡi mây đạp gió). Phối hợp vóc người hùng tráng của hắn cùng với một cây đại Thiết Thương, khuôn mặt như ma quỷ lại khiến cho quân Thổ Phiên cứ thấy là mất vía. Khi thấy hắn đánh tới, tất cả phát ra một tiếng hô to rồi hướng hai bên bỏ chạy. Trong lúc nhất thời, Vương Tư Vũ lại như hổ trong đàn dê.
Luận Mãng Tàng Bố thấy Vương Tư Vũ không gì cản nổi, hắn không khỏi giận tím mặt mà vung trường mâu nhằm hướng Vương Tư Vũ đánh tới. Vương Tư Vũ liếc mắt thoáng nhìn, hắn lạnh lùng cười gằn rồi quát to một tiếng, lập tức một tiếng kèn trầm thấp của quân Đường vang lên, năm nghìn quân Đường quay đầu ngựa lại như cuồng phong nhằm hướng đông phi đi.
“Truy theo cho ta!”
Luận Mãng Tàng Bố bị quân Đường như vỗ tay đùa bỡn, hắn tức giận đến phát điên, rít gào nhằm hướng quân Đường mạnh mẽ truy theo. Trong chốc lát, hai quân đã chạy được năm sáu dặm, đã vượt qua khoảnh rừng rậm lớn. Quân Đường đột nhiên dừng lại, bọn họ nhanh chóng xếp thành hàng, thuần thục lắp tên lên nỏ cùng đợi người Thổ Phiên đến gần.
Lúc này, Vương Tư Vũ phóng ngựa vượt lên trước trận tiền kỵ binh. Tiếng của hắn mơ hồ mà cao vút vang lên trước trận: “Thu hồi nỏ lại, rút chiến đao của các ngươi ra, sỉ nhục của bậc tiền bối phải dùng máu của người Thổ Phiên để rửa sạch. Đại Đường sẽ ghi nhớ các ngươi, ngàn ngàn vạn vạn dân chúng Đại Đường sẽ kiêu ngạo vì các ngươi. Bây giờ là lúc các ngươi vì dân tộc Đại Đường mà chiến, để người Thổ Phiên nếm thử ý chí kiên cường và lưỡi đao của kỵ binh Đại Đường chúng ta đi!”Hắn vung đao hướng phía trước, cao giọng hét lớn một tiếng “ Sát!”
“Sát!”
Năm nghìn kỵ binh nhiệt huyết bắt đầu sôi trào. Từ xưa tới nay, quốc gia thống nhất cùng đại quốc cường thịnh chỉ có thể thực hiện bởi máu và sắt thép, van xin cùng mềm yếu chỉ có thể đổi lấy càng nhiều nhục nhã và nhạo báng. Đại Hán cường đại ở chỗ nó có khí thế như hổ nuốt vạn dặm, Đại Đường cường thịnh ở chỗ nó có tấm lòng trăm sông đổ biển cùng ý chí lập nên chiến công hiển hách.
Tâm huyết nam nhi là phải ở trên chiến trường, quốc gia sẽ nhờ là dân tộc cường thịnh mà đứng thẳng lưng. Năm nghìn kỵ binh Đại Đường phảng phất một thanh chiến đao rút ra khỏi vỏ đón quân Thổ Phiên. Hai chi quân đội rốt cục lấy phương thức trực tiếp nhất, thảm thiết nhất đâm vào nhau.
Đao và kiếm đánh vào nhau phát ra tiếng kêu leng keng, đao chém vào người xương cốt phát ra tiếng gẫy răng rắc. Tiếng người rên rỉ, tiếng cười khanh khách đáng sợ của kẻ hấp hối vang lên hết đợt này tới đợt khác.
Vương Tư Vũ ở trong quân Thổ Phiên chạy như bay, hắn tung hoành chém giết không gì cản nổi. Hắn cùng năm trăm thân vệ của mình phảng phất một cây gậy sắt, đi qua nơi nào thì trận thế quân Thổ Phiên nhao nhao sụp đổ, đầu người liên tục rơi xuống để đâm xuyên qua bức tường người dày đặc tầng tầng lớp lớp. Hắn đang tìm thủ lĩnh quân Thổ Phiên.
Thấy vậy, Luận Mãng Tàng Bố quơ trường mâu lao xéo mãnh liệt tới phía hắn, tiếng hô như sấm. Nhưng không đợi trường mâu tới gần, hắn đột nhiên cảm giác được chính mình lại bay lên trời. Hắn thấy được bầu trời xanh, vầng Thái Dương thì chói mắt như vậy. Rồi mắt của hắn đều không mở ra được nữa, khí lực toàn thân trong phút chốc đã biến mất. Mũi thương của Vương Tư Vũ đã đâm xuyên qua cổ của hắn, nâng cao hắn lên giống như một loại cờ xí.
Lập tức tiếng hoan hô của quân Đường vang lên như sấm, thủ lĩnh bên địch đã chết! Thủ lĩnh bên địch đã chết! Quân Đường sĩ khí đại chấn, mà quân Thổ Phiên lại mất đi ý chí chiến đấu, lòng người hoảng sợ.
Đúng lúc này, từ rừng rậm đột nhiên xông ra một đội quân đầy đủ sức lực, từ phía sau quân Thổ Phiên đánh úp mà đến. Quân Thổ Phiên hai mặt thụ địch, ý chí chống cự trong nháy mắt sụp đổ, bắt đầu tan vỡ nhằm hướng tây mà chạy trốn.
Vương Tư Vũ thấy thế thắng đã định, hắn lúc này lạnh lùng hạ lệnh: “Đuổi giết đến cùng, không chấp nhận đầu hàng!”
Tháng tám năm Tuyên Nhân thứ bảy, Vương Tư Vũ tự mình dẫn tám ngàn kỵ binh tiêu diệt năm nghìn quân tiên phong người Thổ Phiên tại bờ sông Bạch Mã, chém đầu hơn bốn ngàn bảy trăm người, vẻn vẹn không đầy ba trăm người chạy thoát. Xích Tùng Đức Tán nghe thấy tiên phong thất lợi, hắn lúc này thúc dục bốn vạn đại quân áp sát Quy Tư. Cùng lúc đó bốn vạn quân Tân Lãng cũng đã chạy tới Quy Tư sớm hơn một ngày. Quân Đường áp dụng thế thủ, né mà không đánh. Hai quân vì thế giằng co tại Quy Tư. Ngày mùng mười tháng tám, Trương Hoán tự mình dẫn năm vạn đại quân đến Quy Tư.
Tháng tám là đầu mùa thu, cái nóng ở Tây Vực đã dần dần dịu đi, buổi sớm hay chiều càng thêm mát mẻ. Trên lá cây ngưng đọng giọt sương, gió bắc dần dần nổi lên, những người chăn nuôi bắt đầu đem cỏ nuôi súc vật đã phơi khô chất thành đống, chuẩn bị thức ăn cho bò dê qua mùa đông.
Trời càng thêm xanh, trên đại thảo nguyên thoang thoảng mùi ngải đắng cùng mùi tiểu mạch. Trên thảo nguyên bằng phẳng, bất kể nhìn về phương hướng nào thì khắp nơi đều thấy nhấp nhô những đống cỏ khô. Một con chim ưng từ đống cỏ bay lên rồi từ từ chao liệng giữa không trung cao cao. Xa xa, từ một cái lều trại của người chăn nuôi đang bốc lên một cột khói bếp màu xanh.
Một đại quân mấy vạn người trùng trùng điệp điệp đang hành quân trên vùng quê, mọi binh lính đều cỡi ngựa. Tại Tây Vực, bất kể bộ binh hay là Mạch Đao quân thì đều cưỡi ngựa thay cho đi bộ, khi tác chiến thì xuống ngựa xếp thành đội ngũ.
Trương Hoán cùng đi trong đội ngũ, hắn ngồi trên lưng ngựa chậm rãi hành quân đầy hứng thú đánh giá tất cả sự vật ở Quy Tư. Lều trại người chăn nuôi, trang phục phụ nữ, chủng loại ngựa cùng với Tuyết Sơn xa xa, sông lớn. Phải nói là tất cả cảnh sắc nơi này cùng những thứ hắn đã nhìn trên các nẻo đường xem ra cũng không khác nhau. Nhưng bởi vì nó là ở Quy Tư, cho nên về cảm giác cũng thêm nhiều phần đặc thù.
Phía trước, một tòa thành trì màu đen đã mơ hồ có thể thấy được. Trải qua suốt mười ngày hành quân, bọn họ rốt cục đã đến điểm cuối chuyến đi này, Quy Tư.
Lúc này, từ phương xa bụi vàng cuồn cuộn, một đội mấy trăm người kỵ binh đang hướng về bên này chạy tới, đây chủ yếu là những tướng lãnh đến Quy Tư trước đây ra nghênh đón đô đốc.
Người đi đầu, vóc người khôi ngô cao lớn, tướng mạo oai hùng đúng là chủ tướng Quy Tư Vương Tư Vũ, bên cạnh hắn chính là Tân Lãng, phía sau đi theo mười mấy tên tướng lãnh Đô úy cùng một số quan văn.
Vương Tư Vũ đã thấy Trương Hoán, hắn phiên thân nhảy xuống ngựa, bước nhanh đến quì một gối chào: “Mạt tướng tham kiến đô đốc!”
Trương Hoán cũng xuống ngựa, hắn vội vàng nâng ái tướng của mình lên, cười cười khen ngợi: “Ngươi lần này đánh bất ngờ Quy Tư là trong dự liệu của ta. Nhưng ngươi làm thực hoàn hảo hơn so với ta nghĩ.”
Vương Tư Vũ khiêm nhường cười nói: “Đô đốc quá khen, đây là các tướng sĩ phục tùng mệnh lệnh. Là kết quả đô đốc mấy năm qua tỉ mỉ chuẩn bị, thuộc hạ chẳng qua là vừa vặn gặp lúc đó.”
Trương Hoán gật đầu, hắn lại vỗ vỗ Tân Lãng bả vai cười nói: “Cuộc chiến Yên Kỳ là ngươi lần đầu tiên chỉ huy chiến dịch thực tế, liền thu được toàn thắng, thực không đơn giản a!”
Tân Lãng cũng khom người nói: “Thuộc hạ xấu hổ. Nếu không phải ở Trương Tam Thành có năm trăm dũng sĩ tử thủ giữ thành làm Hiệt Kiền Già Tư lâm vào thế hai mặt thụ địch, chỉ sợ thuộc hạ cũng không phải đối thủ của hắn.”
Nghe đến tên Trương Tam Thành, sắc mặt Trương Hoán nghiêm nghị hẳn lên. Hắn đã nghe nói tới chuyện này. Năm trăm tên binh lính quân Đường cực kỳ bình thường, quan chỉ huy tối cao mới chỉ là một Giáo Úy lại chống chọi với mấy vạn quân Hồi Hột tiến công, tử chiến mà không lùi. Cuối cùng cơ hồ toàn bộ chết trận oanh liệt, chỉ có hai mươi mấy người bị thương còn sống. Đến tối hậu do bị thương mà sống sót chỉ còn lại có tám người. Cuộc chiến Trương Tam Thành có thể nói là câu chuyện kinh thiên địa, quỷ thần khiếp.
Lúc này Tân Lãng kéo một người người trưởng quan trẻ tuổi từ phía sau giới thiệu với Trương Hoán: “Hắn chính là người Đội trưởng cuối cùng, tên là Quan Anh.”
Hắn lại vội vàng liếc mắt với Quan Anh mà nói: “Đây chính là đô đốc quân Tây Lương chúng ta, còn không mau tới làm lễ ra mắt.”
Quan Anh một tháng trước vẫn còn là một binh lính hèn mọn, chưa bao giờ nghĩ tới có thể nhìn thấy thủ lĩnh tối cao quân Tây Lương, nhân vật thực quyền thứ hai ở Đại Đường. Trong mắt của hắn toát ra vẻ kích động, hắn tiến lên nửa quỳ chào theo nghi thức quân đội: “Ty chức tham kiến đô đốc!”
“Mau mau miễn lễ!” Trương Hoán vội vàng đỡ hắn lên, trên dưới đánh giá hắn một phen. Chỉ thấy hắn thân thể thập phần nhỏ gầy, so cùng Vương Tư Vũ bên cạnh thì giống hệt như cậu bé. Nhưng một binh lính nhỏ gầy như vậy lại có thể thấy chết không sờn, lấy cái chết đền ơn quốc gia.
Trương Hoán chậm rãi gật đầu, hắn đột nhiên nghĩ tới một chuyện liền cười hỏi: “Ta nhớ kỹ tại huyện Bồ Loại thì thám báo dò xét được hành tung người Cát La Lộc hình như chính tên là Quan Anh. Tên này cùng Quan Âm như nhau, ta nhớ rất rõ ràng, còn có một người Tôn Mộc Nhân, có khả năng là các ngươi sao?”
Quan Anh đứng thẳng lưng lớn tiếng đáp: “Đô đốc nhớ không sai, đúng là ty chức.”
Hắn không khỏi nhớ lại Tôn Mộc Nhân. Trong mắt một hồi buồn bả, cúi đầu xấu hổ nói: “Ty chức chỉ là may mắn sống sót, người thực sự lập nhiều công lớn là Tôn Mộc Nhân và Vương Đình Giang. Nếu không phải bọn họ liều chết kích phát ý chí chiến đấu của thuộc hạ, nói không chừng thuộc hạ đã lui bước.”
Trương Hoán ấn lên đôi vai nhỏ gầy của hắn, nhìn vào mắt của hắn mà nói: “Ta sẽ nhớ kỹ bọn họ, sẽ trợ cấp cho người nhà mỗi một huynh đệ chết trận để bọn họ yên lòng nhắm mắt dưới cửu tuyền. Ngươi cũng không cần tự trách, đứng trước mặt tử vong mỗi người đều sẽ sợ hãi. Cũng bao gồm ta, nhưng nếu chúng ta còn sống thì luôn cần một loại tinh thần, mặc dù đã chết thì cũng là chết xứng đáng.”
Nói tới đây, Trương Hoán lại nhìn lướt qua mọi người, cao giọng nói: “Lần này tây chinh, chúng ta đã có hơn một vạn ba ngàn người bỏ mình. Ta đã báo cáo triều đình để tại Trường An thành lập một tòa An Tây Trung liệt từ nhằm kỷ niệm các tướng sĩ vì nước hy sinh thân mình trong lần thu phục An Tây, Bắc Đình này.”
Mọi người nghe vậy, cùng nhau quỳ xuống lớn tiếng: “Tấm lòng của Đô đốc, các tướng sĩ vô cùng cảm kích!”
Trương Hoán thở dài, hướng mọi người khoát tay mà nói: “Mọi người đứng lên đi! Không cần cám ơn ta, quân Tây Lương chính là một tay ta sáng lập, ta cùng với các huynh đệ há có thể không có tình cảm?”
Lúc này sắc trời đã dần dần gần tới trưa, Trương Hoán lệnh cho đại quân đóng quân ở ngoài thành, còn hắn thì có hơn ngàn thân binh hộ vệ tiến vào thành Quy Tư. Thành Quy Tư nếu so với thành cổ Cao Xương thì lớn hơn nhiều lắm. Nơi này từng là đô thành của quốc gia Quy Tư cổ, lại là trạm trung chuyển trọng yếu trên con đường tơ lụa, mậu dịch từng có một thời phồn thịnh. Hơn nữa trăm năm qua nơi này lại luôn luôn là An Tây Đô Hộ Phủ cho nên kiến trúc bên trong thành khắp nơi có thể nhìn thấy phong cách Đại Đường.
@by txiuqw4