“Đại soái, người hãy nhìn xem, trời chiều đầy sắc đỏ như máu thế kia xem chừng có chút quỷ dị” Thị Ngự Sử Võ Nguyên Hành từ từ đi lên mặt thành. Ánh sáng của hoàng hôn chiếu hắt lên khuôn mặt hắn khiến cho sắc mặt của vị Thị Ngự Sử này đỏ gay như người bị say rượu vậy. Trong đôi mắt của Võ Nguyên Hành cũng như có hai ngọn lửa đang thiêu đốt vậy. Hắn đứng ở đầu tường thành chăm chú nhìn sắc hoàng hôn đỏ ngầu, lời nói có chút u buồn: “Những khi hoàng hôn mà mang thứ ánh sáng đỏ như máu này thường thường là điểm báo trước cho tai họa sắp xảy ra”
Hắn nói xong nhưng không thấy Vương Tư Vũ hồi đáp lại nên quay đầu nhìn lại vị chủ soái này. Chỉ thấy Vương Tư Vũ đang đăm đăm nhìn về quân doanh của Đại Thực ở xa xa, dường như ông ta không hề nghe thấy lời mà Võ Nguyên Hành vừa nói. Võ Nguyên Hành bất đắc dĩ đành phải cười trừ, hắn liền chuyển sang đề tài chính: “Đại soái, người có cho rằng tối nay Đại Thực quân sẽ cho rút quân toàn diện không” Vương Tư Vũ liếc nhìn hắn một chút, rồi cười nhạt nói: “Thế cục bây giờ đã quá rõ ràng, quân Đại Thực hoàn toàn rơi vào thế bất lợi, ngươi còn cho rằng bọn chúng sẽ không chịu rút quân sao”
Võ Nguyên Hành lắc đầu nói: “Chúng ta cùng với chủ soái của địch quân đã đấu trí, đấu lực suốt hai tháng nay, cho nên ta sớm đã hiểu thấu được tính cách của hắn rồi. Người này là một quân nhân có tính cách quật cường, ông ta sẽ không dễ dàng nhận thua đâu. Nếu không cùng chúng ta đáng một trận thật đã thì chắc chắn ông ta sẽ không cam tâm rút lui đâu. Cho nên theo tôi suy đoán thì tối nay ông ta sẽ cho rút quân, nhưng chẳng qua là để dụ cho chúng ta truy kích. Rồi sẽ quật lại thi triển đòn hồi mã thương với Đường quân. Có lẽ ông ta định một trận đánh tan chúng ta rồi thừa thế mà chiếm lĩnh Toái Diệp. Với ông ta đây sẽ là trận đánh mang hy vọng thay đổi chiến cuộc”
“Vũ ngự sử quả không hổ danh là người đến từ binh bộ. Mới nhìn thôi mà đã thấu triệt được tình hình”. Vương Tư Vũ tiếp tục đứng nhìn những chiếc máy ném đá hạng nặng của Đại Thực quân đang chậm rãi trở về quân doanh. Ông ta khẽ gật đâu, quả thật Võ Nguyên Hành phân tích rất có lý, khả năng bọn người Đại Thực kia tung ra đòn hồi mã thương là rất lớn. Cái tên chủ soái của Đại Thực quân này chắc muốn đánh cược một lần với Đường quân, nhưng nhất định sự điên cuồng của hắn sẽ chôn vùi chút hy vọng sống mong manh của toàn bộ Đại Thực quân. Vương Tư Vũ trầm ngâm một chút rồi nói: “Ta có một phương án, Vũ ngự sử hãy xem và bổ sung giúp ta cho thật thông suốt”
Trong buổi tối hôm đó, trong quân doanh của Đại Thực quân xuất hiện nhiều biến động khác thường. Tiếng người ồn ào, tiếng chiến mã hí vang suốt cả đêm. Và cho đến khi trời sáng thì Đại Thực quân bắt đầu rút lui. Đứng từ trên thành Toái Diệp nhìn xuống, trông đội quân ấy như một đám mây đen khổng lồ không nhìn ra đâu là giới hạn. Đám mây đen ấy đang di chuyển về phía nam. Lúc này, ở trên đầu thành Toái Diệp Đường quân bắt đầu mang những bát những chậu ra mà gõ. Ban đầu chỉ có thưa thớt vài người, nhưng càng về sau số binh lính gõ chậu gõ bát trên tường thành ngày càng nhiều. Cùng với tiếng gõ là những tiếng hoan hô vang lên tận mây xanh. Có vô số Đường quân ôm nhau khóc. Họ vui mừng quá. Ruốt cuộc Đại Thực quân đã lui binh rồi. Hơn hai tháng giữ thành tựa như một cơn ác mộng, nhưng hôm nay cơn ác mộng đó đã chấm dứt. Để đạt được thắng lợi này Đường quân cũng phải hy sinh thật nhiều – tám ngàn quân. Nhưng không gì có thể so sánh với chiến thắng đã cổ vũ tinh thần cho toàn quân.
“Đại soái, quân địch đã không còn lòng dạ nào mà chiến đấu nữa, chúng ta lẽ nào lại bỏ qua cơ hội đánh diệt chúng chứ”
“Đại soái, hiện nay tinh thần của quân ta đang lên rất cao, thế đã tụ đầy, hoàn toàn sẵn sàng cùng địch nhân quyết chiến một trận”. Các đại tướng thủ hạ của Vương Tư Vũ rối rít xin chủ soái truy đuổi quân Đại Thực. Trong suốt hai tháng đối đầu với địch quân, thật sự là bọn họ chưa được đánh một trận thống khoái nào với kẻ thù đáng gờm kia. Vậy thì sao có thể dễ dàng để cho bọn chúng rút chạy đi như thế chứ. Vương Tư Vũ sớm đã dự liệu được sẽ xuất hiện được tình huống này, ông ta khoát tay mỉm cười nói với chúng tướng: “Các ngươi an tâm, ngày hôm qua ta đã an bài đâu vào đấy cả rồi, Đại Thực quân tuyệt đối không thể chạy thoát được”
Tại phía bắc của Diệp Chi thành, Tào Hán Thần với bốn vạn đại quân đã tận dụng thời gian một ngày để đào một chiến hào dài đến ba dặm. Chiến hào này nằm ở vị trí bắc ngạn của sông Toái Diệp và ngay ở cửa ra của Diệp Chi cốc. Khoảng cách từ nó tới Toái Diệp là khoảng bốn mươi dặm. Nó chính là phòng tuyến của Đường quân án ngữ và triệt hạ đường rút chạy về phía tây của Đại Thực quân. Đường quân ở đây có sáu ngàn nỏ binh, năm ngàn Mạch Đao quân, hai vạn khinh kỵ binh cùng với năm ngàn thương binh(đội quân dùng thương làm vũ khí chủ yếu) hợp thành một đại quân tinh nhuệ. Ngoài ra còn có năm trăm chiếc “ tích lịch chiến xa” thường xuyên tuần tra tới lui ở bờ sông đối diện, để đề phòng địch quân vượt sông chạy về phía nam.
Về nguồn gốc của số Đường quân trong trận này, bao gồm một vạn quân được điều từ Thông Lĩnh sau khi đã hoàn thành việc gây nhiễu loạn quân Đại Thực ở Thổ Hỏa La, còn có một vạn quân được điều từ Sơ Lặc, và tổng cộng có thêm sáu vạn quân nữa là các phủ binh tinh nhuệ đến từ Quan Trung, Ba Thục, Hà Đông, Lũng Hữu. Phần lớn số quân này trước đây thuộc biên chế của Tây Lương quân. Nhiệm vụ lần này của bọn họ là ngăn chặn quân Đại Thực rút chạy về phía tây.
Lúc này Táo Hán Thần đang đứng trên một gò cao, ông ta nhìn về Toái Diệp cốc ở phương xa đang chìm trong băng lạnh. Tối hôm qua, ông ta nhận được lệnh của chủ soái Vương Tư Vũ nói rằng có thể trong ngày hôm nay sẽ có một bộ phận của Đại Thực quân sẽ rút chạy qua đường phía tây của Toái Diệp cốc. Vì thế lệnh cho ông ta bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn, và tiêu diệt không cho địch quân rút chạy về đường phía tây này. Vương Tư Vũ còn nhấn mạnh trận chiến này sẽ là trận chiến quyết định tới vận mệnh và vị thế của Đại Đường ở Tây Vực. Nhận được lệnh mà trong lòng Tào Hán Thần nặng trĩu. Mặc dù bản thân ông ta đã được phong lên chức Cao Xương Hầu, nhưng đây là lần đầu tiên ông ta trực tiếp chỉ huy một chiến dịch quy mô lớn thế này. Hơn nữa binh lực hiện tại trong tay ông ta cũng không nhều, vẫn còn tám vạn quân của liên quân các nước Tây Vực đang trên đường hành quân. Số quân này ít nhất phải mất hai ngày mới tới đây được.
“Đại tướng quân, người nhìn xem, là hồng ưng” Một tên binh lính chỉ lên không trung mà hô to. Tào Hán Thần lấy tay che ngang mày hướng mắt nhìn lên trên, chỉ thấy trên bầu trời mông lung xam xám kia có một con hồng ưng đang quanh quẩn chao liệng. Hồng ưng vẫn là một phương thức truyền tin truyền thống từ hồi Trươn Hoán ở Tây Lương quân. Bình thường thì nó dùng để cảnh báo. Nếu so sánh với phong hỏa đài thì nó còn bí mật hơn nhiều. Các hồng ưng đều do các thám báo quân huấn luyện và khống chế. Và hồng ưng xuất hiện vào lúc này thì có nghĩa là đại đội địch quân còn cách nơi này không tới mười dặm nữa thôi..
Tào Hán Thần lúc này hạ lệnh: “Nỏ cơ quân tiến vào trận địa, Mạch Đao quân chuẩn bị, kỵ binh bố trí ở hai cánh. Truyền mệnh lệnh nữa của ta, hỏa tốc điều ngay tích lịch xa đến trợ giúp”
Sáu ngàn nỏ cơ quân lập tức dàn làm ba hàng ở trên ngay phía trước của chiến hào. Bọn họ ngồi xổm xuống, tên được lắp, dây nỏ được kéo căng. Đây là những nỏ binh được huấn luyện đặc biệt, là đội quân có tầm bắn xa nhất, uy lực nhất và chuẩn xác nhất của Đường quân. Trong khoảng cách độ hơn trăm bước, tên nỏ vẫn hoàn toàn có thể xuyên thủng được tấm khiên chắn của địch quân. Nhưng khuyết điểm duy nhất của nó chính là lắp tên chậm, thao tác bất tiện, hơn nữa trong lúc trời mưa cũng không thể sử dụng được, cho nên Đường quân đã tiếp thu và sử dụng phương pháp bắn tiễn ba phân đoạn của Tần Quân Minh, đó là biên chế quân số thành ba hàng thay nhau bắn tên. Như vậy khi mà kỵ binh của địch chạy nước rút trong khoảng trăm bước thì mỗi nỏ binh sẽ có thể bắn ra được ba mũi tên.
Ở phía sau nỏ binh còn có năm ngàn Mạch Đao quân, số Mạch Đao quân này được xếp thành hai hàng, mạch đao trong tay họ có thể vươn xa tới hai trượng. Sau khi nỏ binh bắn hết ba loạt tiễn sẽ lùi lại, Mạch Đao quân này sẽ được đẩy lên làm tiền quân. Bọn họ chính là đội quân chủ lực để đối phó với kỵ binh của Đại Thực quân. Còn hai vạn khinh kỵ binh thì được bố trí ở hai bên, như hai cánh nhạn khép mở. Nhiệm vụ của khinh kỵ binh là ngăn chặn và tiêu diệt số địch quân bỏ chạy tản mác. Đứng ở vị trí sau cùng là năm ngàn thương binh (đội quân sử dụng thương làm vũ khí chủ yếu). Số thương binh này chính là đội quân “ ruột” của Tào Hán Thần. Tất cả bọn họ đều đến từ Quan Trung, mỗi binh lính đều là những người thân thể cao lớn tráng kiện, tay cầm trường thương dài ba trượng, xếp thành một thương trận khổng lồ. Bọn họ cũng là một vũ khí lợi hại để đối phó với kỵ binh của địch.
Chốc lát sau, Đường quân đã chuẩn bị xong, tất cả các đơn vị đã vào vị trí. Và vừa lúc này từ phía chân trời xa xôi đã mơ hồ xuất hiện một vệt đen dài. Vệt đen ấy càng lúc càng tới gần và hiện rõ. Đó là bốn vạn Đại Thực quân do Mặc Nhã Lợi suất lĩnh. Bốn vạn quân này gồm có hai vạn quân nô lệ Đột Quyết và hai vạn Ai Cập quân. Nhiệm vụ của Mặc Nhã Lợi lần này cũng giống như nhiệm vụ của Tào Hán Thần, đó là ông ta phải chặn được đường bắc thượng của Đường quân, không cho Đường quân tập kích vào sau lưng của quân chủ lực Đại Thực. Trước mắt A Lan dẫn theo chủ lực của Đại Thực quân có lẽ đã tới Bùi La tướng quân thành, cách Toái Diệp năm mươi dặm. Thật ra Bùi La tướng quân thành là một tòa thành bảo về vòng ngoài cho Toái Diệp, mười vạn quân chủ lực của Đại Thực quân ở chẳng khác nào ác xà. Và chắc chắn con ác xà ấy sẽ nhe ngoác cái mồm đầy máu tanh để chờ đón Đường quân từ Toái Diệp tới.
@by txiuqw4