Hoàng đế bệ hạ Đại Đường đến làm cho trên thảo nguyên giống như ngày hội long trọng. Hai quân giết bò mổ dê đốt lên những đống lửa ngút trời để mở bữa tiệc thịnh soạn. Trên bàn tiệc bày đầy những miếng thịt dê nướng vàng óng ánh. Binh lính được cho phép đặc biệt mặc sức chè chén, được uống những thùng lớn rượu sữa ngựa, rượu sữa dê để chúc mừng sỉ nhục mấy chục năm của Đại Đường được tẩy sạch.
Dưới bầu trời ngắm nhìn, trên hơn mười dặm thảo nguyên đầy những đống lửa lớn nhỏ. Quân Đường cùng kỵ binh Hiệt Kiết Tư tụ chung một chỗ. Tiếng huyên náo vang khắp đất trời. Bên cạnh chủ trướng, Trương Hoán ngồi ở nên đống lửa cực lớn hưng phấn nhìn hai tên võ sĩ Hiệt Kiết Tư đang biểu diễn đấu vật trên bãi đất trống. Hắn không ngừng hò hét bọn họ cố gắng lên, ánh lửa nóng bỏng nhuộm đỏ gương mặt của hắn.
Hai bên hắn là chủ soái quân Toái Diệp Vương Tư Vũ cùng Khả Hãn Hiệt Kiết Tư Tô Đạt La. Tô Đạt La nâng một chén dê rượu uống một hơi cạn sạch rồi cảm khái nói với Trương Hoán: “Bệ hạ, thần hoàn toàn thật không ngờ Thi tướng quân lại là con nuôi của bệ hạ. Quả nhiên dũng cảm kiên cường hơn người, chính tay đâm được Hiệt Kiền Già Tư, lập nhiều công lao phi phàm.”
Vương Tư Vũ ngồi bên cạnh cũng cười bảo: “Thằng nhãi này vận khí rất tốt. Không chỉ có Hiệt Kiền Già Tư bị hắn giết chết, năm trước đại tù trưởng Cát La Lộc A Sắt Lan cũng chết ở dưới mũi tên của hắn.”
“Thật sự chỉ là nó có vận khí tốt thôi.” Trương Hoán mỉm cười, sai người gọi Thi Dương tới rồi nói với hắn: “Nếu như trẫm không phong thưởng khanh thì lại sợ lòng quân không phục. Nhưng thăng quan tiến tước cho khanh thì khanh quá trẻ, trẫm lại sợ khanh không đảm đương nổi. Khanh nói xem, trẫm nên làm gì bây giờ?”
Thi Dương quì một gối, trầm giọng nói: “Bệ hạ, không nên phong thưởng cho thần, xin bệ hạ phong thưởng cho năm nghìn huynh đệ của thần.”
Trương Hoán gật đầu đồng ý với hắn “ Được rồi! Trẫm đặc biệt phong thưởng quân đội của khanh năm vạn quan tiền, lụa năm nghìn súc. Tùy khanh phân thưởng cho huynh đệ.”
“Thần đa tạ ân đức của bệ hạ!” Dứt lời Thi Dương đứng lên muốn cáo từ, Tô Đạt La ngồi bên cạnh đảo mắt đột nhiên cất tiếng cười to: “Bệ hạ các ngươi không thưởng ngươi, ta có phần thưởng cho ngươi. Người đâu!”
Lập tức có hai tên thị vệ đi lên, Tô Đạt La hạ lệnh cho bọn họ: “Đi cầm đến thanh bảo kiếm ta lấy từ Vương Cung Hồi Hột lại đây.”
Thị vệ liền bưng trên khay một thanh bảo kiếm, Tô Đạt La chỉ vào bảo kiếm mà nói với Trương Hoán: “Bệ hạ, đây là vi thần có được từ Vương Cung Hồi Hột. Nó chém sắt như chém bùn, vô cùng sắc bén. Thần nguyện ý đem nó thưởng cho Thi tướng quân.”
Nói đến đây, Tô Đạt La đột nhiên nói chứa thêm hàm ý: “Thần vẫn luôn cho là có công thì đương nhiên phong thưởng, như vậy mới là đạo làm chủ. Bệ hạ có cho là thần nói đúng không?”
Trương Hoán hiểu rõ ý tứ của hắn nên lạnh nhạt cười một tiếng rồi nói với Thi Dương: “Khả Hãn nói rất đúng, có công tự nhiên phong thưởng. Thanh kiếm này khanh hãy nhận đi!”
Thi Dương cúi người hành lễ, tiếp nhận bảo kiếm liền bước dài rời đi. Trương Hoán nhìn bóng lưng của hắn, lại cười nói với Tô Đạt La: “Trẫm đồng ý khanh, chỉ cần khanh dốc sức vì trẫm, trẫm liền tuyệt đối sẽ không bạc đãi khanh. Trẫm chính thức đồng ý khanh, địa bàn người Hiệt Kiết Tư có thể mở rộng sang hướng đông đến thành Khả Đôn.”
Tô Đạt La vô cùng mừng rỡ. Cứ như vậy, hơn phân nửa lãnh thổ của Hồi Hột liền thuộc về hắn. Hắn vội vàng quỳ xuống, cao giọng nói: “Thần Tô Đạt La nguyện tận trung dốc sức vì bệ hạ. Đời đời kiếp kiếp Hiệt Kiết Tư nguyện làm nước phụ thuộc vào Đại Đường.”
Trương Hoán nhìn hắn cười mà không nói. Chỉ là trong lúc không để ý, trong ánh mắt của hắn nhanh chóng hiện lên một tia lạnh như băng.
Bóng đêm sâu lắng, tuyết đã ngừng rơi. Bầu trời đêm trở nên bắt đầu sáng sủa hơn. Trương Hoán chắp tay đằng sau đứng ở trên thành Cáp Lâm ngắm nhìn đại doanh Hiệt Kiết Tư cách hơn ba dặm. Còn quân doanh Toái Diệp thì đóng tại phía nam bên kia. Những đống lửa đã dập tắt, bọn lính Hiệt Kiết Tư say ngà ngà hả hê đều đã ngủ thật say. Sáng mai bọn họ liền rời khỏi thành Cáp Lâm quay về Kiếm Hà, đi thực hiện giấc mộng xưng bá thảo nguyên của bọn họ. Có lẽ Tô Đạt La lúc này đang ở trong mộng đẹp. Lúc này, Vương Tư Vũ lặng lẽ đi tới bên người Trương Hoán, hạ giọng nói: “Bệ hạ, đã đến giờ, xin người rời đi.”
“Không, “ Trương Hoán quả quyết cự tuyệt “ Trẫm muốn tận mắt thấy hành động bắt đầu thì mới đi.”
“Vậy được rồi!” Vương Tư Vũ bất đắc dĩ vung tay lên về phía sau mà hạ lệnh: “Phát tín hiệu.”
Vừa dứt lời, một mũi hỏa tiễn phóng lên cao xẹt qua bầu trời đêm bí ẩn. Ánh sáng đỏ rực làm cho cả vùng hơn mười dặm có thể thấy được tất cả rõ ràng. Cùng với hỏa tiễn chậm rãi rơi xuống, ở cách hai bên đại doanh Hiệt Kiết Tư vài dặm đột nhiên xuất hiện kỵ binh đông như kiến cỏ. Có chừng hơn mười vạn người, khí thế bọn họ như sóng biển khơi mãnh liệt. Tiếng vó ngựa gần như làm mặt đất rung chuyển. Không đợi cho người Hiệt Kiết Tư kịp phản ứng,hơn mười vạn quân Đường tựa như gió cuốn tuyết đọng xông vào trong đại doanh kéo dài vài dặm. Tiếng hò hét hoàn toàn át đi tiếng kêu thảm thiết của người Hiệt Kiết Tư trước khi chết.
“Hiện tại có thể đi được rồi.” Trương Hoán từ từ xoay người rời khỏi tường thành. Trên đầu hắn, một vầng trăng tàn như máu, quỷ dị như treo trên tấm màn che màu đen giữa bầu trời.
Đầu mùa đông năm Đại Trị thứ tám, quân Sóc Phương và quân Bắc Đình ban đêm tập kích vào đại doanh Hiệt Kiết Tư. Bốn vạn người Hiệt Kiết Tư không hề phòng bị, trong một đêm tử thương hơn phân nửa. Khả Hãn Hiệt Kiết Tư Tô Đạt La bị giết trong loạn quân, còn lại hơn hai vạn người đều bị quân Đường bắt sống. Còn quân Toái Diệp thì cả đêm xuất phát nhằm hướng hang ổ người Hiệt Kiết Tư ở lưu vực Kiếm Hà mà đi.
Mười ngày sau thì quân Đường đến Kiếm Hà. Từ đêm xuất phát thì mặt mũi Thi Dương liền sa sầm, cũng không nói hơn một câu. Tô Đạt La bị giết hắn cũng không thèm để ý, nhưng Khố Nhĩ Ban Đức giống như huynh đệ đã chết ở trong loạn quân vì bảo vệ Khả Hãn. Điều này làm hắn vô cùng đau lòng. Hắn đã biết tiêu diệt người Hiệt Kiết Tư là kế hoạch từ lâu của hoàng đế cha nuôi hắn. Mặc dù trong lòng hắn bất mãn, nhưng hắn là thành viên quân Đường, quân lệnh như sơn khiến cho hắn không thể nào lựa chọn.
“Thi tướng quân!” Từ phía sau một người cỡi ngựa chạy như bay đến, lập tức kỵ binh chắp tay nói với Thi Dương: “Đại Soái có chuyện tìm ngài, mệnh ngài tới ngay.”
Thi Dương không nói một lời, quay đầu ngựa lại liền phi về phía sau. Liên tục chạy hơn mười dặm hơn mới nhìn thấy trung quân của Vương Tư Vũ. Thi Dương chạy đến trước mặt Vương Tư Vũ, ôm quyền thi lễ mà nói: “Tham kiến Đại Soái.”
Vương Tư Vũ thấy sắc mặt hắn cung kính đầy nhạt nhẽo thì không khỏi mỉm cười bảo: “Thi tướng quân, ta hỏi ngươi, nơi này cách hang ổ người Hiệt Kiết Tư xa lắm không?”
“Hồi bẩm Đại Soái, ước chừng còn năm mươi dặm.” Thi Dương trả lời cực kỳ ngắn gọn. Vương Tư Vũ liếc mắt nhìn hắn, đột nhiên cười nói: “Thôi ngươi cứ đi cùng ta! Ta có vài lời muốn nói cùng ngươi.”
Thi Dương yên lặng gật đầu đi cùng đại quân của Vương Tư Vũ. Đi ước được một dặm đường, Vương Tư Vũ đột nhiên hỏi hắn: “Chẳng lẽ ngươi thật sự thừa nhận chính mình vẫn còn trẻ con sao?”
Thi Dương cười lạnh một tiếng mà đáp: “Đại Soái hà tất khích thuộc ha. Thuộc hạ nhập ngũ nhiều năm, có cảnh máu tanh gì mà chưa từng nhìn thấy. Mặc dù thuộc hạ có bất mãn đối với việc Hoàng thượng giết hại người Hiệt Kiết Tư, nhưng thuộc hạ là quân nhân, phục tòng mệnh lệnh là thiên chức của thuộc hạ.”
Vương Tư Vũ nghe ra trong khẩu khí của hắn có chỗ bất mãn nhưng cũng không để ý, vẫn chỉ ôn hòa nói: “Nếu như ngươi cho rằng diệt người Hiệt Kiết Tư chỉ là ý của hoàng thượng, vậy ngươi sai lầm rồi. Chuyện này đã đưa ra Chính Sự Đường thảo luận nhiều lần mới quyết định, ngươi hiểu chưa?”
Thi Dương vô cùng kinh ngạc trong lòng, vốn hắn tưởng rằng đây là nghĩa phụ tự mình quyết định, lại không nghĩ rằng đó là quyết sách tập thể của triều đình. Đại Đường đối với các dân tộc thiểu số ở biên cương vẫn luôn lấy khoan dung mềm mỏng là chính, làm sao lại... Hắn nghi hoặc nhìn sang Vương Tư Vũ.
Vương Tư Vũ cười nhạt bảo: “Tổ phụ ta năm đó từng nói với cha ta, Đại Đường lúc mới thành lập đối với các dân tộc biên cương đã thực hành chính sách ân uy đồng thời. Như người Đột Quyết, Bách Tể uy hiếp lợi ích dân tộc của Đại Đường thì không chút lưu tình cho đến khi bọn họ diệt vong. Trái ngược, đối với người Khương, đối với các nước nhỏ như Cao Xương, Quy Tư lại dùng khoan dung mềm mỏng để đối đãi. Nhưng vẫn có chỗ lầm lỡ, ví dụ như đối với Nam Chiếu. Vốn là bồi dưỡng nó thống nhất với Lục Chiếu để chống lại việc tộc Thổ Phiên khuếch trương về Kiếm Nam. Lại không nghĩ rằng nuôi hổ sinh hoạ khiến cho Nam Chiếu phát triển an toàn rồi công thành cướp huyện, giết nữ nhân nhà Hán chúng ta. Trong thời kỳ Thiên Bảo hai lần tiến hành chiến dịch, quân Đường tử thương hơn mười vạn người. Nhưng cuối cùng Nam Chiếu vẫn đầu hàng tộc Thổ Phiên. Mặc dù lúc này Nam Chiếu đã suy sụp, nhưng giáo huấn đó chúng ta không thể nào quên. Người Hiệt Kiết Tư cũng là như thế, bọn họ hôm nay thần phục liền giống như Hồi Hột thần phục năm đó. Nhưng mà bởi vì lực lượng nhỏ yếu mà nhất thời nhẫn nhịn, muốn thu được nhiều lợi ích hơn từ Đại Đường. Chờ bọn hắn cường thịnh lên thì chắc chắn trở thành uy hiếp cho Đại Đường ta. Bài học xương máu như thế chẳng lẽ còn không đủ nhiều sao?”
@by txiuqw4