sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chiến Tranh Nhìn Từ Nhiều Phía

Buổi sinh hoạt được tổ chức tại Trường Ðại Học Ngoại Ngữ, Học Viện Ngoại Giao Tokyo vào Ngày Lễ Thành Nhân (14 tháng 1 Dương Lịch) của truyền thống Nhật. Ngày lễ đánh dấu buổi con người từ tuổi thiếu niên nên trưởng thành, khởi đầu giai đoạn mới - giai đoạn quyết định- từ đấy người tự lập, chủ động cuộc sống riêng mình. Buổi sinh hoạt không vô cớ chọn ngày, tháng, thời điểm ý nghĩa sâu xa nầy - ý hẳn ban tổ chức muốn truyền đạt một thông điệp - Từ đây, chúng ta nhìn lại cuộc chiến không chỉ tác động riêng đối với người và xã hội Việt Nam, nhưng liên hệ đến nhiều sắc dân, quân đội của những chế độ chính trị khác nhau - những nước đã từng tham dự cuộc chiến mà hậu quả đến hôm nay vẫn còn sâu xa ảnh hưởng. Hội chứng Việt Nam hiện tại vẫn hằn sâu lên tâm lý giới cầm quyền, điều hành nước Mỹ, cũng như hệ lụy Ðệ Nhị Thế Chiến, phần đau thương của nước Nhật gây nên tự quân đội Nhật (đối với các nước vùng Ðông -Nam Á, Trung Hoa, Ðại Hàn, Việt Nam), hoặc nhân dân Nhật hứng chịu hôm nay vẫn hằng (được và phải) nhắc lại. Nhắc lại để tránh những lỗi lầm của quá khứ, nhắm đến tương lai - Thiên niên kỷ Thứ Ba của nhân loại mà Châu Á-Thái Bình Dương sẽ là diễn trường quyết định với vai trò quan trọng hàng đầu của Nhật Bản. Nước Nhật hẳn đang chuẩn bị cho tương lai hiện thực nầy. Thế nên, buổi sinh hoạt chắc đã hình thành không do những lý do tùy tiện, ngẫu nhiên.

Sau phần giới thiệu của ban tổ chức gồm có các Giáo Sư Susumu Fugita, Minoru Iwasaki, và Imai Akio của học viện, các thuyết trình viên lần lượt trình bày nội dung chủ đề mà ban tổ chức đã thông báo, chỉ định từ tháng 11 năm 2001. Người thuyết trình xử dụng ngôn ngữ của quốc gia mình, thông dịch sang Nhật ngữ do những giáo sư, sinh viên đang giảng dạy, hoặc theo học các học trình tiến sĩ chuyên khoa ngôn ngữ của quốc gia đó.

Theo chương trình dự định, Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh (đã được dịch sang Nhật ngữ), và Thân Phận Tình Yêu (những cuốn sách nói về mất mát, đau thương của tuổi trẻ miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh) phát biểu trước. Nhưng vào tuần lể đầu tiên của tháng 1, 2002, tác giả nầy thông báo không tham dự buổi hội thảo được vì lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh", nên anh gởi một bản văn đến ban tổ chức hội thảo. Văn bản nầy được dịch ngay sang tiếng Nhật, và được phổ biến vào giờ khai mạc. Sự kiện Bảo Ninh vắng mặt sẽ được đề cập lại trong phần hậu từ của bản tường trình nầy. Người thay thế Bảo Ninh, Nguyễn Minh Tuấn, nguyên biên tập viên, chuyên bình luận kinh tế của Báo Ðại Ðoàn Kết, Hà Nội, hiện là giảng viên tiếng Việt của trường từ năm 2000, di dân qua Nhật theo diện gia cảnh (do kết hôn cùng cô Keiko Watanabé, biên tập viên Báo Yomiuri, nhật báo lớn nhất của Nhật) bắt đầu buổi hội thảo. Nguyễn Minh Tuấn khởi đầu phần trình bày với tư thế: "..Năm 1975, tôi mới mười-lăm tuổi, nên dẫu đã khai thêm hai tuổi để đang ký vào quân đội thì cũng chỉ đi lính được một ngày, và miền Nam đã được "giải phóng".. Tất cả ký ức về chiến tranh của tôi là những ngày sơ tán tại miền Bắc Việt Nam để tránh bom Mỹ.. Những hoàn cảnh cực khổ và dễ sợ." Tuấn có những nhận xét trong phần kết luận: "Hiện tại ở Việt Nam, hầu hết mọi người hình như không ai muốn nói về chiến tranh. Hằng năm, vào những ngày lễ lớn như "giải phóng miền Nam 30 tháng Tư", ngày Quốc Khánh 2 Tháng 9, chỉ những tờ báo nhà nước (Báo Nhân Dân, Quân Ðội Nhân Dân, Công An..) mới nhắc lại những chiến thắng quân sự. Còn phần đông dân chúng chỉ chú trọng vào đời sống, lo toan sinh kế vật chất. Và đời sống xã hội, thị trường tài chính, kinh tế thì bị nạn tham nhũng hoành hoành, hiện tượng áp bức tràn khắp.. với thành phần nạn nhân đầu tiên chính là những người đã dựng nên những chiến thắng kể trên." Nguyễn Minh Tuấn cũng không "ngạc nhiên" về sự kiện Bảo Ninh vắng mặt. Qua kinh nghiệm làm báo ở Việt Nam, anh đã quá quen với những lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh" nầy, bởi chính bản thân anh cũng đã là nạn nhân của những lý do tương tự đôi ba phen. Phần phát biểu của Nguyễn Minh Tuấn được chuyển sang Nhật Ngữ bởi Giáo Sư Odaka Tai, Giảng Viên Khoa Quan Hệ Quốc Tế, Ðại Học Daitobunka.

Tiếp đến phần trình bày của Người Lính-viết văn. Trái với người bạn đến từ miền Bắc Việt Nam kia, anh đã chứng kiến, chịu đựng chiến tranh từ thuở thơ ấu, khi chưa đến tuổi lên mười trong những vùng gọi là chiến khu (địa phương thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Việt Minh trong giai đoạn chiến tranh 1945-1954) suốt một đời dài cho tới hôm nay, sắp đến tuổi 60. Anh chịu đựng với chính thân xác mình, nghe bằng tai, thấy tận mắt, hít thở thấm đẫm hơi người chết, đầm đìa khắc khoải tiếng kêu thương tâm của vạn, triệu cảnh đời khốn cùng, đau đớn oan khốc diễn ra qua từng ngày, từng giờ trên suốt giải quê hương - không chỉ giới hạn nơi những xóm làng, đồng ruộng, thị trấn miền Nam, nhưng đến tận đầu nguồn biên giới, vùng núi non cực bắc đối diện lãnh thổ Trung Quốc, hoặc nước Lào ở phía Tây. Tình cảnh anh không phải là trường hợp đơn lẻ, cá biệt, nhưng là cảnh huống điển hình của toàn dân tộc khổ nạn. Anh chỉ là một con người sống tận cùng với khổ nạn Việt Nam. Anh không nói quá lời mà sợ rằng không đủ tiếng lời để nói. Và không chỉ trong ba mươi phút ấn định, nhưng nếu có thể với ba mươi giờ vẫn chưa đủ để kể hết toàn cảnh xót xa khắc nghiệt kéo dài hơn nửa thế kỷ, từ ngày Mặt Trận Việt Minh (do đảng cộng sản Việt Nam ẩn danh lãnh đạo) khởi đầu cuộc chiến, 19 tháng 12, 1946, đến khi mặc áo lính, 1960-61, cho đến ngày tàn cuộc 30 tháng tư, 1975, tiếp lần vào trại tập trung sau đó, chuyển ra giam cấm cố ở miền Bắc, 1976, và cho đến tận hôm nay - Dấu vết, ký ức chiến tranh vẫn còn nguyên độ sắc. Anh sống đủ đời với của cuộc chiến và hứng trọn hệ quả của nó dẫu hôm nay tạm lìa bỏ quê hương.

Nầy đây, hãy anh kể lại: "Chỉ trong vòng bốn mươi tám giờ kể từ khi bắt đầu cuộc hành quân trực thăng vận của ngày 20 tháng 8, 1964, từ phi trường Bến Tranh xuống một ngôi làng Quận Bình Ðại, tỉnh Kiến Hòa.. Ði sau hai người khinh binh, tôi bước e dè, nhọc mệt, do tiểu đoàn đã đụng nặng từ lúc xuống trực thăng, thêm việc nhặt những xác chết của đơn vị bạn, người tôi lao đao trong cảnh trận địa nguy khốn, mùi hôi tanh từ máu người lẫn hơi bùn xông lên ngây ngây ngật ngật. Ðến ngày thứ hai thì nỗi thảm hại trong lòng càng thêm độ sắc, bởi đám tàn binh cộng sản bị thiệt hại của ngày hôm trước nay không đường thoát thân, phải chui vào đụn rơm, ao bèo lẫn trốn. Tôi kéo ra một gã du kích.. Chỉ là một thiếu niên mặt mày ngơ ngẫn do quá sợ hãi, mồm ngậm búng cơm. Tôi nhìn kỹ vào mắt hắn ta, tự hỏi: Ðây là kẻ thù của mình sao? Ðây là "chiến sĩ giải phóng", đầu mối tai họa, kiệt cùng khổ nạn Việt Nam? Thêm một ngày nơi trận địa, cảnh tượng bi thảm càng thêm nặng nề, vây bọc, siết cứng lại.. Tôi đi vào khu vực Nhà Thờ Công Giáo xã Bình Ðại, ngôi nhà thờ đẹp đẽ đã trở nên đống gạch đổ nát giữa hàng rừng dừa ngã nghiêng trốc gốc bốc khói xanh. Khi cúi xuống nhặt bàn tay gãy của tượng thiên thần, tôi khám phá ra năm xác chết. Ðấy là gia đình người giữ nhà thờ, hai vợ chồng, ba đứa con. Năm người chết từ đâu ngày hôm trước. Chết không biết do đạn của bên nào? Những xác chết còn "tươi" do sức nổ gây hơi ép, nét mặt in dấu, vẻ kinh hoàng, chết ở vị thế ngồi dưới bàn thờ Chúa. Năm xác người được kéo ra nằm trên sân đá lạnh, nắng dọi xuống gây gây im lặng vàng khô. Nhìn lên hàng rào, chiếc áo tím của cô con gái đầu lòng bay dật dờ như nỗi oan khuất không nói ra.

Tiếp ngày hôm sau, quân đi vào một khu vườn với căn nhà đang cháy nghi ngút khói, những cột gỗ cháy đỏ xiêu lệch, nền gạch vỡ loang lỗ những dấu đạn pháo.. Có người đàn bà chưa đến tuổi ba mươi, nét mặt đôn hậu, trong sáng của người phụ nữ miền Nam chưa phải chịu đời khó khăn, vất vả. Chị ngồi ngơ ngẩn trên thềm ngôi nhà đang cháy dỡ. Tôi đi đến... Không biết đang có đánh nhau hay sao mà chị lại ngồi đây? Im lặng, chị ta đứng dậy, đưa chiếc giỏ mây vào mặt tôi. Ðộng tác nhanh gọn như người tập thể dục. Tôi mở gói giấy cột chặt bởi những vòng cao su... Sợi giây chuyền vàng, đôi bông tai, hai chiếc nhẫn và cái kiềng. "Vàng, chắc hơn một lượng, con mẹ nầy sợ quá hoá điên rồi. Lấy đi thiếu úy, không ai thấy, em cũng không nói cho ai biết đâu.. Ê, đi đi.." Người lính mang máy truyền tin thầm thì bên vai tôi. Anh hươi mũi súng đuổi chị đàn bà. Người nầy bước đi với nét mặt không cảm giác.

- Không được, vàng của người ta, mình đâu có quyền lấy. Nầy, chị trở lui đi, tôi trả lại đây". Tôi nói với theo. Người đàn bà quay lại, cũng với bước chân vô hồn không cảm giác. Nhưng khi đưa tay đón lấy chiếc giỏ, nét mặt chị ta bỗng nhiên nhăn nhúm lại như đang phải chịu cơn đau quá độ: Chị buông thỏng hai tay, chiếc giỏ rơi xuống đất.. Từ từ người đàn bà đưa tay lên hàng nút áo.. những ngón tay xoắn giữ chặt, toàn thân run bần bật.

- Trời đất ơi!! Tôi kêu lên tiếng nhỏ. Người đàn bà có thể đã không hiểu lời tôi do từ cách phát âm giọng người miền Trung pha âm Bắc, nhưng chắc rằng, bởi đã sống trong vùng du kích cộng sản kiểm soát, chịu sự tuyên truyền dai dẵng dài lâu, nên chị đã nhìn tôi như "một gã lính hung bạo với áo quần rằn ri, chuyên hiếp dâm, giết người, cướp giật - như lời "tuyên truyền giáo dục" thường trực tác động sâu xa của cán bộ chính trị cộng sản. Ðộng tác trả vàng lại cho người đàn bà cũng không phải là thái độ, hành vi đạo đức lớn, đấy chỉ là việc làm nhỏ bé, bình thường của một người "có giáo dục tại Miền Nam"- Biết trọng người và yêu thương đồng loại. Sự hiểu lầm cay đắng của người đàn bà đồng thời chỉ cho tôi hiểu ra rằng: Tính ác độc tàn nhẫn của chiến tranh, không chỉ làm cho người trở nên "hai kẻ xa lạ", nhưng là đầu mối, tai họa thống khổ đối với nhau.

Tôi dẫn người đàn bà ra bến sông qua Mỹ Tho. Chị đi tới với bước chân vô định.. Lai! Lai! Má đây con ơi!! Một người nào dưới sông kêu thất thanh, chị quay lại. Aùnh mắt trống không. Vẫn bước chân vô hồn, chị đi về chỗ thuyền đậu chen chúc.. Má! Má, nhà mình cháy rồi, cháy hết rồi. Chị vẫn còn trong cơn mê của sợ hãi. Chị vẫn chưa phục hồi trí nhớ để nhận ra rằng: "Mình đã được gìn giữ, bảo vệ bởi gã lính trẻ tuổi mà chị vừa hiểu nhầm rằng y đòi lấy của, muốn hiếp dâm". Tôi nói với những người lính đang đứng nhìn theo người đàn bà: "Nhìn gì mấy cha, đi lẹ lẹ còn qua phà, về Sài Gòn cho kịp." Về Sàigòn lại đứng đường, gác chợ cứ như thằng ăn mày, sung sướng gì mà ham về sớm thiếu úy ơi!!

Ðơn vị xuống phà qua Mỹ Tho để tiếp lên xe về Sàigòn, nhận nhiệm vụ chống biễu tình, giữ an ninh thủ đô.. Hai gã thiếu niên đi đầu đoàn người căng biễu ngữ màu vàng: "Cương quyết bảo vệ Ðạo Pháp". Hai gã khác mang một tấm khác có giòng chữ nguệch ngoạt, "Hoan hô quân đội".. Ðám đông la ó, những viên đá ném tới.. Những viên đá rơi trên nón sắt, thân áo giáp, lời chưởi bới ào ào nghiệt ngã:"..đ..má chúng mầy ăn tiền mỹ-ngụy bao nhiêu hỡ... Ai trả lương cho chúng mầy giết thầy, hại đạo!!" Những người lính chúng tôi chưa kịp rửa đôi giày lấm bùn của chiến trận ngày hôm qua, vết cháy ở áo Hạ Sĩ Ty, máu khô còn đóng trên mặt Binh Nhất Thái, và chính tôi - mùi người chết còn nguyên nơi miệng, lưỡi.. Tất cả chỉ vừa qua của bốn-mươi tám bốn giờ từ một vùng đất gọi là Bình Ðại, Tỉnh Kiến Hòa. Bình Ðại- Sài Gòn chỉ khoảng trăm cây số đường chim bay."

"Câu chuyện kể tiếp tục với cảnh tượng những đứa trẻ sống sót trong ngôi làng Xã Chánh Khoan, vùng Quận Phù Cát, Tỉnh Bình Ðịnh. Làng trù phú, vườn củ đậu xanh ngắt, lúa chín vàng, chĩu nặng bông trái nhưng không bóng người, nhà nhà cửa đóng kín, mùi tử khí âm âm.. Những đứa bé được tìm thấy từ căn nhà cha mẹ đã chết vì dịch hạch. Bé kiệt sức vì đói, rét do trời đang ở cuối mùa Ðông 1966.

Câu chuyện tiếp tục với hoạt cảnh xót xa im lặng nơi vùng đất lửa hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, biên giới cực bắc của miền Nam đối diện với miền Bắc qua vùng "Phi Quân Sự". Mùa Ðông năm 1967, hai giờ sáng từ Cửa Việt, đơn vị anh, Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù đưa quân lên hướng Bắc sát sông Bến Hải. Trời sáng dần để thấy lẫn sau giải đụn cát, gò đất có những "ngôi nhà" nhỏ. Không biết đáng để gọi là "nhà" hay chăng, vì thật sự chỉ là những hầm hố, trên đó người dân úp lên một mui thuyền và cả gia đình, những con người ngồi bó gối sát vào nhau. Khi nhận ra những người lính đang làm việc lục soát, những con người ngồi trong những căn nhà kia cử động.. Họ bò ra. Vâng, những "con người gọi là người Việt Nam" kia bò ra bằng hai bàn tay và đầu gối, như một loại dã nhân tiền sử chưa đứng thẳng được cột sống. Bao đời nay, người đàn bà ở hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, bất kể giai cấp xã hội nào, theo phong tục kín đáo luôn có thói quen luôn mặc áo dài, dù áo dài cũ kỷ, rách vá, hoặc đang làm việc nặng nhọc, lầm than. Những chiếc áo dài rách tay, độn vai bởi hàng chục miếng vá, khác màu, khác vải. Nhưng chiếc áo dài của người đàn bà làng Diêm Hà Thượng ở vùng giới tuyến không còn chức năng của mục đích, ý niệm ban đầu - Ðể bảo vệ phẩm tính cao quý, thể hiện phong cách kín đáo của người nữ. Tất cả những danh, tỉnh từ huênh hoang, tô vẻ mà những kẻ lãnh đạo chiến tranh của cả hai bên hằng nại đến để chiếm đoạt "lý chính nghĩa" đã trở nên vô dụng, mất ý nghĩa đích thực, vì vạt áo dài kia không được kéo dài hơn, không đủ lành lặn để thay thế chiếc quần che phần hạ thể trong động tác bò lết."

Nhưng chiến tranh bên cạnh chuỗi cảnh tượng thê thiết dằng dặt kể trên vẫn có những hoạt cảnh bi tráng mà mỗi người lính, người dân miền Nam hằng hiện thực qua từng ngày giờ bão táp với cách thế chịu đựng vô vàn kỳ lạ tưởng chừng như không thật. Chúng ta hãy chứng kiến những phận người sống-chết qua lửa đạn.. "Ngày 25 tháng 6, 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I quyết định khai diễn chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Khi đổ quân xuống bãi cát nam Quận Hải Lăng, trên trục tiến quân hướng khu Nhà Thờ La Vang, mục tiêu cực tây, vị trí giữ cạnh sườn trông về hướng Trường Sơn, những người lính thấy những luồng hơi ong óng trên mặt cát kia sao. Trời sáng dần, quân tiến sâu vào vùng hơi bốc lên kia thì họ khám phá ra.. Luồng khí bốc lên ấy là tàn hơi của một loại lửa đặc biệt. Lửa được cấu tạo không chỉ do vật chất bị đốt cháy như gỗ, sắt, thép của các loại súng đạn, xe cộ, vật dụng chiến tranh; lửa còn được tăng cường nung nấu bởi áo quần, quang gánh, giày dép...Và cuối cùng, lửa được bền bỉ gìn giữ bởi một chất liệu bất ngờ, phí phạm và thực sự không cần thiết - Những tế bào hữu cơ của thân thể người bị xé rách, vùi dập, thiêu đốt cháy âm ỉ làm chảy sênh sếâch mặt nhựa đường. Loại lửa thuần túy "nhân tạo" nầy đã tồn tại từ bao ngày qua - từ ngày 29 tháng Tư, 1972, thời điểm những sư đoàn Miền Bắc tấn công, cưỡng chiếm thị xã Quảng Trị, phục kích đoàn người di tản, chạy loạn qua vùng đất 9 cây số từ La Vang xuống Cầu Câu Nhi Phường, nam Quảng Trị. Con người nghe tiếng nổ cấp kỳ và thân người tung xé bay bay lên với lửa.. Họ "biết rõ" như thế và chỉ biết giương tròng mắt ngó trân..

Lửa! Lửa! Lửa!

Lửa dậy từ Hải Lăng

Giăng giăng triền cát trắng

Lửa phần phật nung rền

Ðỏ cọng cỏ đồi sim.

Bao xác người cháy đen

Dọc dài Ðường số I

Xác mẹ chồng xác con

Chập chờn màu lửa nghẹn

Dòng "Ðá Chảy Mồ Hôi"

Sôi sục hơi tử khí

Ðồi"Thánh Mẹ Sầu Bi"

Nhầy nhầy thây kinh dị.

Thây thê thảm quắp co

Ðặc quánh vũng máu đỏ

Ðất sềnh sệch thịt người

Lặng nở trời nắng to...

Những cái chết kia không chỉ một lần, vì cảnh tượng thương tâm kia không chỉ riêng cho ngày 29 tháng 4, mà được lập đi lập lại suốt gần hai tháng qua với đạn, bom cực độ của cả hai bên, bên nầy lẫn bên kia sông Bến Hải để tạo nên một địa ngục lặng im dưới trời sáng nắng, trên bãi cát lây lất màu máu cặn. Nhưng loại lửa nhân tạo kia lại không đủ độ nóng cần thiết để thiêu cháy toàn diện, nên những xác người dù qua bao ngày chết lâu dài vẫn còn nguyên vẹn nét kinh hoàng của lần bức tử, dẫu chỉ là khối xương sọ nằm trơ bên hố bom kho cạn nước, sênh sếch váng lớp thịt xương, dạng thây người chưa hoàn toàn tiêu hủy.

... Kẹt trong xích xe tăng

Xác thân ai rây máu

Trời ơi đau Hải Lăng

Hồn cào sôi bi phẫn.

Nhưng từ sâu khổ nạn với cảnh chết tận cùng kia, bỗng sáng chói điều kỳ diệu như tia chớp của giữa đêm đen giông bão. Khi những người lính vượt tuyến xuất phát, đội pháo vượt qua vũng lửa Hải Lăng, Giáp Hậu, La Vang thì trên đồng cháy xuất hiện những bóng người thấp thoáng xiêu lệch.. Họ chạy ngã nghiêng, chập choạng như những bóng ma nhập tràng vừa dựng dậy từ đám xác chết. Và như được hồi sinh bởi một năng lực mầu nhiệm, đám "ma người" đồng thất thanh kêu lớn... Lính tới! Lính tới! Lính cộng hoà tới! Và chắc rằng chính tiếng kêu trong đáy thẵm chết chóc của những người dân nầy là tin cậy trao gởi cổ vũ mãnh liệt nhất để những người lính dựng nên kỳ tích của trận chiến Mùa Hè 1972 ở mặt trận Quảng Trị trong ngày 14 Tháng 9- Khi những chiến binh của các Tiểu Ðoàn 1 và 6 TQLC đồng khép chặt, diệt gọn ổ kháng cự cuối cùng nơi Cổ Thành Ðinh Công Tráng, dựng NGỌN CỜ VÀNG lúc đúng Ngọ- Giờ mặt trời lên thiên đỉnh chiếu ánh sáng rực rỡ uy nghi xuống Ba Vạch Ðỏ thắm tươi thêm sắc máu của những người hằng chết cho một điều không bao giờ nói nên lời: Con người luôn sẵn chết vì TỰ DO - Những người LÍNH vô danh, những người DÂN không ai biết đến - Dân và Lính Miền Nam. Của Quốc Gia tên gọi VIỆT NAM CỘNG HÒA."

Câu chuyện vốn còn rất dài, nhưng bởi thời lượng không đủ, anh chấm dứt phần trình bày với kết luận: "Thượng đế ban cho con người sự sống, và kế hoạch hóa tình cảnh, thời điểm từ giả cuộc đời trần thế- Nhưng con người trong chuỗi sinh tồn kia đã hiện thực điều bi thiết vĩ đại của mình - Người quyết định lần chết cho chính bản thân. Người trao gởi lại sau cái chết xác thân một trị giá vinh diệu. Người Việt Nam đã hiện thực điều cao cả kia một cách tự nhiên trong suốt đêm đen bất hạnh dài theo thế kỷ, giữa vũng lửa chiến tranh mà toàn dân tộc đang gánh chịu một cách khắc kỷ- Xem như một sự cùng đành. Chúng tôi không nói điều tán tụng với chữ nghĩa phù phiếm, không nội dung- Chúng tôi xác tín với giá máu của mỗi người anh em đã, đang hằng hằng lâu dài gánh chịu... Không chỉ là những người lính nơi trận điạ, mà là hằng loạt tướng lãnh giữ chức tư lệnh đại đơn vị, hoặc sĩ quan cấp tá cao cấp: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Hữu Thông, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long... Người không chỉ chết một mình, mà với toàn gia đình cùng một lần quyết tử- Chị Nguyễn Thị Thàng, vợ một nghĩa quân chết với chồng và đàn con nơi chiếc đồn cô quạnh ở vùng IV; Thiếu Tá Vĩnh, bào huynh của gia đình niên trưởng Hà Thượng Nhân (Trung Tá Phạm Xuân Ninh, Chủ Nhiệm Báo Tiền Tuyến) chết cùng với cả nhà gồm ba thế hệ: ông, cha, cháu; những người lính Thủy Quân Lục Chiến đồng tự sát nơi Bãi Mỹ Khê, Ðà Nẵng cuối tháng 3, 1975; Trung đội Nhảy Dù của Huỳnh Văn Thái cùng nỗ chung một lần lựu đạn sáng 30 tháng Tư. Ánh chớp thanh quang của anh hồn bao người trung liệt kia hẳn đã rung mờ nhật, nguyệt hiện thực lần Núi Sông cùng khóc với Con Người. Và Người cùng một lần sống mãi với Quê Hương." 1

Phần trình bày của anh đã được Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, Giám Ðốc Ðài Phát Thanh Á Châu Tự Do (RFA), Washington DC chuyển sang Anh Ngữ, bản dịch quay ronéo để sẵn nơi cửa phòng hội, cùng với văn bản tiếng Việt, được tóm lược qua Nhật Ngữ. Giáo Sư Nhật Văn, Lê Văn Cừ, bạn cùng lớp Trần Viết Ðại Hưng (San José, CA) cựu học sinh Hàm Nghi, Huế, người đã thấm hiểu, và chịu cơn đau của sự kiện lực lượng cộng sản tàn sát người Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968; lần chạy loạn oan khốc của ngày 29 tháng 4, 1972 nơi 9 cây số "Ðại Lộ Kinh Hoàng", phiên dịch cho anh theo kỹ thuật phiên dịch nghị trường qua phối hợp với anh từ đêm đầu tiên đến Nhật. Người Lính-viết văn cũng chuẩn bị sẵn ấn bản tiếng Anh "The Stories Must Be Told", cuốn sách được huynh đệ, bằng hữu khắp nơi giúp hoàn thành trong một thời gian kỹ lục trước ngày đi.

Tiếp theo, Cô Ku Sujeong, Hàn Quốc (tên Mỹ Suzane; tên Việt, Trâm), sinh viên học trình tiến sĩ sử học trình bày chủ điểm, "Những đơn vị Ðại Hàn có mặt trong chiến tranh Việt Nam" (Các Sư Ðoàn Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Thanh Long, Bạch Mã, Bạch Hổ chịu trách nhiệm vùng duyên hải Miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, 1965-1973). Cô Sujeong được một sinh viên người Ðại Hàn hiện theo học tại học viện giúp phiên dịch.

Chu Kiên, người Trung Hoa trình bày "Chiến tranh Việt Nam đối với Mao Trạch Ðông". Với những chứng liệu lịch sử cận đại còn rất mới, diễn giả người Hoa nầy minh xác ảnh hưởng lý thuyết, lẫn kinh nghiệm thực tiển của Mao Trạch động đối với những quyết định chiến lược, cũng như chiến thuật của giới lãnh đạo miền Bắc, đặc biệt đối với Hồ Chí Minh. Diễn giả nầy trình bày trực tiếp bằng Nhật Ngữ.

Và cuối cùng, Ado Makoto, thủ lãnh của phong trào phản chiến Nhật trong suốt nhiều thập niên qua những vận động đòi quân đội Mỹ rút khỏi Okinawa, phản đối Hiệp Ước An Ninh Nhật-Mỹ, trình bày quan điểm "Nhật Bản và Phong Trào chống Chiến Tranh" do ông và các nhóm bạn đồng quan điểm lãnh đạo, vận động, thực hiện.

Sau lần trình bày của Ông Ado Makoto, buổi hội thảo chuyển qua phần thứ hai: Ðối thoại giữa cử tọa và các diễn giả, hoặc phần bổ túc giữa những người thuyết trình. Khoảng bốn trăm người tham dự, phần đông thuộc lớp sinh viên trẻ tuổi (đang theo học các phân khoa chính trị, lịch sử của trường) hoặc những người lớn tuổi có lòng quan tâm đến thời cuộc, sinh hoạt chính trị. Ðáng kể nhất là các ký giả, phóng viên Hara, Tabata, Oshima phụ trách trang tiếng Nhật của tờ Mê-Kông do Hồ Thông Minh chủ biên. Các anh Hà Ngọc Giao, Lê Văn Xe, Trần Kiến Võ, chị Hà Anh Võ, và những thanh niên, thiếu nữ người Việt đến Nhật từ lúc tuổi ấu, thiếu, ở những nơi rất xa Tokyo (di chuyển ở Nhật luôn là một vấn đề khó khăn vì khoảng cách quá xa, dân số quá lớn. Tokyo là một trong những thành phố đông dân nhất của thế giới với 12 triệu người) đã đến tham dự buổi nói chuyện. Tuy nhân số ít nhưng các anh, chị, các cháu trẻ tuổi đã theo dõi với tất cả tấm lòng của những người Việt hằng thấm đau cảnh khổ. Các anh Lê Văn Xê, Trần Kiến Võ thuộc các khoá 19, 25 Trường Võ Bị Ðà Lạt, anh Hà Ngọc Giao là sĩ quan Hải Quân QLVNCH.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx